
1
NHỮNG MỞ BÀI CỰC CHẤT
VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
MB1: Trong quá trình sáng tác nghệ thuật của mình, mỗi người nghệ sĩ đều có một
không gian nghệ thuật của riêng mình. Nếu nhà thơ Hoàng Cầm, cả một đời đắm
đuối trong không gian Kinh Bắc đầy thơ và mộng, nếu Nguyên Ngọc Nguyễn
Trung Thành luôn trải lòng cùng bạn đọc qua không gian Tây Nguyên đậm chất sử
thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn Huế và viết về Huế bằng tất cả tình cảm, tình
yêu của mình thì Tô Hoài – nhà văn một thời của trẻ thơ lại chọn cho mình không
gian nơi dẻo cao Tây Bắc để đến, để sáng tác. Một trong những truyện ngắn đặc
sắc nhất của Tô Hoài nằm trong không gian nghệ thuật này không thể không kể tới
đó là “Vợ chồng A Phủ”.
MB2: Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm
đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn
viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo
đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách
thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây
dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng
và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
MB3: Tô Hoài từng tâm sự: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương để
nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể nào quên, tôi không thể bao giờ quên được...”
Người đọc vẫn thường tự hỏi tại sao Tô Hoài lại có những khoảng nhớ thương
nhiều như vậy dành cho mảnh đất và con người Tây Bắc, để rồi trong những tác
phẩm của mình, ông viết về Tây Bắc về những con người nơi đây bằng những câu
chuyện thật cảm động. Một trong số những truyện ngắn tiêu biểu đưa Tô Hoài trở

2
về cùng niềm thương nỗi nhớ mang tên Tây Bắc không thể không kể tới đó chính
là truyện ngắn: “Vợ chồng A Phủ”.
MB4: Nếu chỉ dừng lại ở tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký”, nhà văn Tô Hoài đã rất
nổi tiếng, đã làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “để đời” đối với sự
nghiệp của bất cứ người cầm bút nào. Thế nhưng, nhà văn Tô Hoài không dừng lại
ở chú “dế mèn” mà còn đi xa hơn. Nếu tính từ năm 1951 - khi nhà văn Nam Cao ra
đi, thì nhà văn Tô Hoài có may mắn hơn người bạn thân thiết của mình ít nhất hơn
50 năm viết. Ra đi ở tuổi 95, ông đã để lại cho đời hơn 100 đầu sách. Nếu chỉ tính
về mặt số lượng thì mấy ai làm được như ông? Còn nói về khía cạnh nghệ thuật,
bảo rằng Tô Hoài đi được xa hơn cũng chính bởi khi nghĩ đến ông, người ta cũng
nhớ ngay tới tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” - truyện ngắn đã được dựng thành phim
và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện thực dân tộc miền núi mà Tô
Hoài đã cống hiến.
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG –
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
MB1:
Sông Hương – Khúc hát tình ca của Huế. Nói đến sông Hương nhiều người hình
dung dòng sông êm ả, thơ mộng nơi cây cầu Trường Tiền hay thành quách, đền
đài, chùa miếu cổ kính soi mình. Nhưng còn có một sông Hương rất khác nhìn từ
cội nguồn Trường Sơn, với những cụm rừng già nguyên sinh hoang sơ xanh ngút
ngàn bên dòng nước nơi giang đầu xanh biếc. Và cũng có một sông hương “nồng
nàn” và khao khát đến vậy khi được về gặp lại thành phố của riêng mình. Hình
như, người nghệ sĩ nào khi biết tới dòng sông này đều như lẽ tự nhiên mà dành cho
nó nhiều tình yêu đến vậy. Huống hồ, một người yêu Huế như Hoàng Phủ Ngọc

3
Tường, trong những tác phẩm của mình cứ nhắc mãi về dòng Hương. Một trong
những tác phẩm tiêu biểu nhất của người nghệ sĩ này chính là ký: “Ai đã đặt tên
cho dòng sông”…
MB2:
Ai đó đã từng nói rằng: “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng
sông để thương để nhớ, giống như cuộc đời của mỗi con người, có nhiều cuộc tình
nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng! Dòng sông để thương
để nhớ của mỗi người rất khác nhau. Nếu như Văn Cao cả đời gắn liền với dòng
sông Lô hùng tráng, nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ khi ta đi ngang qua “sông Đuống
trôi đi một dòng lấp lánh”, nếu Hoài Vũ cả đời gắn liền với con sông Vàm Cỏ tha
thiết chở Phù Sa thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại song hành cùng sông Hương đi
vào trái tim độc giả qua ký: “Ai đã đặt tên cho dòng sông.”
MB3:
Đã có biết bao nhiêu người nghệ sĩ viết về sông Hương bằng tình cảm yêu thương
và trân trọng của mình. Tôi vẫn còn nhớ những câu thơ của nhà thơ Thu Bồn khi
viết về dòng sông này:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Tôi lại tự băn khoăn hỏi mình, có khoảng không gian để đó chiều dài của nỗi nhớ
thương gửi về dòng Hương muôn đời lững lờ trôi, e ấp nơi thành phố Huế. Rồi lại
phải tự ôm trọn vào mình nhưng cảm xúc luyến lưu khi tới thành phố này. Có một
nhà văn, cũng yêu Huế bằng tất cả tình yêu chân thành như thế, viết về Huế xuất
phát từ trái tim mình. Không ai khác, đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường với ký “Ai đã
đặt tên cho dòng sông”.

4
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
MB1: Tôi còn nhớ Nguyễn Tuân – với sự kính trọng, cảm phục. Ông luôn tâm
niệm, đã chọn nghề viết, là không ngừng viết bất cứ lúc nào, dẫu với bất cứ chuyển
động nào của lịch sử. Cũng xuất phát từ cái tâm đó mà người nghệ sĩ này đã để lại
cho văn đàn Việt Nam biết bao tác phẩm hay. Tháng Tám – mùa thu cũng đã vào
văn Nguyễn Tuân trong vẻ lộng lẫy của một bức sơn mài. Ông không ngần ngại đi
lên chiến khu Việt Bắc, viết những trang mới nồng ấm tình người trong “Đường
vui”, “Tình chiến dịch”… Trong sự nghiệp sáng tác của mình, cả trước và sau
Cách mạng Tháng Tám, ông đều để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị như “Vang
bóng một thời”, “Tuỳ bút I”, “Thiếu quê hương”, “Chiếc lư đồng mắt cua”, “Tóc
chị Hoài”, “Đường vui”, “Tình chiến dịch”, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”… và không
thể không kể tới tùy bút “Sông Đà” – những áng văn đã để lại dấu ấn sâu sắc trong
lòng người đọc bởi nó mang phong cách uyên bác, tài hoa, độc đáo và một giọng
văn rất riêng của người nghệ sĩ này.
MB2: Kể cả trước đây và mãi sau này, những người nghệ sĩ cứ hát mãi khúc ca về
những dòng sông. Hoàng Cầm hát về sông Đuống “nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kỳ”, Văn Cao hát về sông Lô với điệu hồn hùng tráng, Hoàng Phủ
Ngọc Tường lại đưa sông Hương vào những điệu hồn êm dịu. Một nhà văn độc đáo
như Nguyễn Tuân cũng hát – hát về sông Đà – bằng tất cả sự hiểu biết, tình cảm,
tâm tư. Tùy bút Sông Đà là kết quả chuyến đi thực tế năm 1958 của nhà văn
Nguyễn Tuân, gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo. Nội dung chủ yếu là ca
ngợi cảnh vật và con người Tây Bắc, đặc biệt nhà văn đã khám phá “chất vàng
mười” đã qua thử lửa của vùng đất này. Tùy bút Sông Đà tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám: uyên bác, tài hoa,
tìm cái đẹp từ cuộc sống hiện tại của nhân dân lao động.

5
MB3: Nguyễn Tuân đã từng chọn câu của Paul Morand làm đề từ cho tác phẩm
“Thiếu quê hương” của mình: “Ta muốn sau khi ta chết, có người thuộc da ta làm
chiếc va ly”, Nguyễn Tuân dứt khoát khẳng định: “Đứng về phương diện một
người lấy sự hoàn toàn phát triển giác quan của mình làm lẽ chính cuộc sống” thì
“không gì thiệt thòi bằng trung thành với một chỗ ở”. Trong sự nghiệp sáng tác
nghệ thuật của Nguyễn Tuân, khi tìm hiểu về những tác phẩm của ông, có thể nhận
ra một điều đó là 2 nội dung chi phối trong những tác phẩm của ông đó là “hoài cổ
và xê dịch”, ông ham đi, luôn luôn muốn được trải nghiệm những điều mới mẻ.
Cũng chính vì nguyên cớ này, năm 1958, Nguyễn Tuân đã lên đường, ngược về
vùng núi cao Tây Bắc, để “gặp, làm quen, hiểu và viết” về sông Đà. Chuyến đi
thực tế này được ông ghi lại một cách “tuyệt đẹp” qua tùy bút “Sông Đà”. Để lại
nhiều ấn tượng nhất có lẽ là hình ảnh ông lái đò sông Đà qua thiên tùy bút này.
VIỆT BẮC – TỐ HỮU
MB1: Có một nhà thơ đã từng tâm sự: “Tôi phải lòng đất nước và nhân dân của
mình” đã viết về đất nước, về nhân dân của mình như nói với người đàn bà mình
yêu. Có một nhà thơ cũng đã từng khẳng định: “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng chí,
đồng tình” và gắn cả cuộc đời của mình với cuộc đời cách mạng, nhà thơ đó không
ai khác ngoài Tố Hữu. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Tố Hữu đã để lại cho
văn đàn Việt Nam rất nhiều những áng thơ hay, một trong số đó không thể không
nhắc tới đó là bài thơ Việt Bắc. Việt Bắc – khúc tình ca chính trị, được đánh giá là
một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của đời thơ Tố Hữu.
MB2: Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng triết lý: “Khi ta ở, đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi
đất bỗng hóa tâm hồn”. Và có một mảnh đất tình người đã hóa thân thành hồn
thành nỗi nhớ trong lòng người cán bộ về xuôi. Đó là mảnh đất Việt Bắc ân tình –