
Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Dàn ý phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
I. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài và truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" với chất
thơ độc đáo
II. Thân bài:
* Chất thơ trong hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc
● Tây Bắc hiện lên với núi rừng trùng điệp quanh năm ẩn hiện trong mây và
sương mù.
● Chất thơ được thể hiện rõ nét khi Tô Hoài miêu tả khung cảnh mùa xuân nơi
rẻo cao Tây Bắc.
● Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao và mùa xuân ấy hài hòa, đẹp như
bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
* Chất thơ qua đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán của con người
- Xây dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật của người Tây Bắc
như ngôi nhà gỗ với bếp lửa bập bùng suốt mùa đông không, công việc cõng nước,
quay sợi...
- Ngày Tết: Không giống như người miền xuôi, người vùng cao ăn tết khi ngô lúa đã
gặt xong.
● Không khí ngày Tết của Hồng Ngài mang đậm hơi thở, hương vị của núi rừng
Tây Bắc khi "trai gái tìm nhau để tỏ tình", chơi ném còn, chơi quay, thổi sáo,
đàn môi, uống rượu...
● Đặc biệt, tác giả dành nhiều tình cảm và câu chữ cho việc miêu tả tiếng sáo -
cầu nói truyền tải ngôn ngữ của người H'Mông, thay họ cất lên tiếng lòng sâu
thẳm, vượt qua dòng chảy thời gian, trở thành dòng chảy tâm hồn của biết bao
đôi trai gái miền sơn cước.
* Chất thơ trong con người - Mị
● Mị là cô gái trẻ, nết na xinh đẹp như một bông hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc, vì
món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị thống lý Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ và
rơi vào cảnh tăm tối. Những tưởng Mị có lẽ sẽ héo hắt, sống mòn mỏi lầm lũi

Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
hết cuộc đời song ẩn sau tâm hồn ấy vẫn le lói những ánh lửa của khát vọng tự
do và tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
● Vẻ ngoài của Mị đều toát lên vẻ âm thầm nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng kỳ thực
bên trong đó lại tiềm tàng 1 sức sống vô cùng mãnh liệt.
● Âm thanh tiếng sáo quen thuộc của núi rừng Tây Bắc ấy đã chạm vào sâu thẳm
tâm hồn Mị, làm rạo rực tâm hồn người con gái trẻ đẹp
=> Chính sức sống tiềm tàng, rạo rực âm thầm cháy tựa như ánh sáng nâng đỡ, ngăn
cản sự lụi tàn của tâm hồn. Khi bùng cháy lên lại biến thành sức mạnh có thể xua tan
tất cả.
* Chất thơ thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật
● Tô Hoài sử dụng hàng loạt âm thanh cùng nhiều hình ảnh gợi cảm vừa rực rỡ
màu sắc vừa rất đỗi nên thơ.
● Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể rõ ràng vừa trừu tượng vô hình.
● Âm điệu và tiết tấu cũng như giọng kể nhẹ nhàng theo mạch cảm xúc êm đềm
chảy trôi trong tâm trạng
● Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình
cùng sự mượt mà của văn phong điêu luyện.
III. Kết bài:
- Đánh giá lại giá trị tác phẩm với nền văn học
Chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Mẫu 1
“Mỗi người nghệ sĩ có một cái tạng riêng, một tố chất tâm hồn riêng tạo nên một thứ
nam châm hút lấy những cái gì phù hợp” (Nguyễn Đăng Mạnh). Có lẽ vì vậy mà mỗi
khi đọc những tác phẩm của Nam Cao, như “Chí Phèo” chẳng hạn, tôi lại cảm, lại
thấm thía cái nỗi đau tột cùng của người nông dân trong xã hội cũ. Cũng có những khi
cuộc sống xô bồ, tôi lại tìm đến với Thạch Lam, mượn chiếc chìa khóa để bước vào
cánh cổng của miền thần tiên, cổ tích, cảm nhận tâm hồn mình lắng lại “dưới bóng
hoàng lan”. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn thích nhất cái cảm giác mỗi khi đọc những
“trang thơ” rất thơ của Tô Hoài - “Vợ chồng A Phủ”.
Có lẽ “chất thơ” chẳng còn xa lạ gì đối với những bạn đọc yêu văn học, đặc biệt là với
những thi gia, đó là tính chất trữ tình, tính chất được tạo nên từ sự hòa quyện giữa vẻ
đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của các biểu hiện nó để có thể khơi
gợi những rung động thẩm mỹ và tình cảm nhân văn.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Thế nhưng có mâu thuẫn gì không khi nói một tác phẩm văn xuôi, truyện ngắn cũng
thấm đẫm chất thơ? Chúng ta hoàn toàn có thể và có quyền nói như vậy. Chất thơ tự
bao giờ đã không còn bó hẹp mình trong khuôn khổ của những bài thơ trữ tình, nó đã
tự bật tung, phát ra ánh sáng và phù lên văn đàn Việt Nam một lớp áo vô hình chỉ
được cảm nhận bằng rung động con tim, xúc động tâm hồn.
Trên văn đàn Việt Nam có biết bao những tác phẩm văn xuôi thấm đẫm chất thơ
nhưng không phải tác phẩm nào được sinh ra dưới ngòi bút của người nghệ sĩ đều
mang sẵn trong mình tính chất trữ tình, đều thấm đẫm những ý thơ trong văn xuôi.
Một truyện ngắn được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết không đặt
vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái
của đời sống hoặc của tâm hồn con người, và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một
tác phẩm như vậy.
Cách đây hơn sáu mươi năm trước, có một người lữ khách đã băng rừng, lội suối để
tìm đến với một vùng đất mới, để khai phá và mang những nét đẹp của một vùng đất
xa xôi đến với bạn đọc bấy giờ: Tô Hoài trên con đường tìm đến với mảnh đất Tây
Bắc thân yêu. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn tập trung tinh hoa của ngòi bút Tô
Hoài về Tây Bắc không chỉ vì nó đem lại những hương sắc lạ về cảnh trí, con người
mà quan trọng hơn còn là khả năng phân tích tinh tế những diễn biến đầy mâu thuẫn
của nội tâm, kết đọng một tình cảm nhân đạo đậm đà để rồi bao trùm lên tất cả là điều
mà sau này Tô Hoài đã cảm thấy “một chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật của nơi
rừng núi tuyệt vời thơ mộng ấy”
Trước tiên tôi muốn nói tới một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn diệu kỳ của nơi rừng núi
Tây Bắc. Một thế giới không phải cổ tích mà như thoảng hương ca dao, cổ tích, một
thế giới hứa hẹn rất nhiều sức gợi cảm hiện lên qua bức tranh thiên nhiên sống động,
quyến rũ, đẹp mê hồn của Hồng Ngài: “năm ấy, Hồng Ngài ăn tết sớm giữa lúc gió
thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đô,
những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Với
những gam màu tự nhiên, tất cả cảnh vật, thiên nhiên, đất trời cùng thêu dệt tạo nên
một bức tranh thủy mặc của tạo hóa chỉ được tìm thấy ở chốn núi rừng Tây Bắc.
Sẽ là chưa đủ nếu bức tranh ấy thiếu bóng dáng của con người. Tuyệt vời làm sao khi
mỗi độ tết đến, người ta lại trông thấy “đám trẻ đội Tết, chơi quay, cười ầm trên sân
trước nhà”. Rồi những đêm tình mùa xuân, những người con trai mang tiếng khèn,
điệu nhạc đi tìm “bạn yêu”. Khung cảnh ấy mở ra trong tâm trí người đọc một miền
đất thanh bình với những nét đẹp văn hóa bình dị nhưng đầy ý nghĩa đối với con
người.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Thiên nhiên dù đẹp đến đâu cũng chỉ là phông nền cho con người tỏa sáng, truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” thơ nhất có lẽ phải kể tới bức tranh đời sống tâm hồn của con
người nơi đây. Những cô gái như cô Mị tài sắc dù bị vùi dập bởi chế độ phong kiến
miền núi, bởi nam quyền, thần quyền nhưng sức sống tiềm tàng chưa bao giờ tắt lịm.
Những chàng trai như A Phủ dù cuộc đời trăm đắng ngàn cay nhưng vẫn đầy bản lĩnh,
gan góc, quyết liệt, dữ dội.
Khi cánh cửa “Vợ chồng A Phủ” vừa mở ra, Tô Hoài đã dắt nẻo hồn ta đến với một
con người hay đúng hơn là một kiếp người, một số phận nghiệt ngã qua hình ảnh của
người thiếu phụ buồn “ngồi quay sợi bên tảng đá trước của, cạnh tàu ngựa. Lúc nào
cũng vậy, dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối
lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị như một cái bóng, một mảng tối im
lìm trong cảnh giàu sang của nhà thống lí Pá Tra. Càng ngày Mị càng không nói, chỉ
“lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Người đàn bà ấy bị cầm tù trong ngục thất tinh
thần, nơi lui vào, lui ra chỉ là một căn buồng kín mít “chỉ có một chiếc cửa sổ lỗ
vuông bằng bàn tay”. Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, cũng
chẳng đi chơi Tết.
Nhà văn có tả hình dáng nhưng không nhằm khắc họa chân dung ngoại hình mà chủ
yếu làm nổi bật con người số phận, một số phận nghiệt ngã đắng cay, tủi cực. Điều đó
có sức ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lòng người đọc những xót thương. Ách áp
bức nặng nề của bọn chúa đất miền núi, cả cường quyền và thần quyền đã đè nén một
tâm hồn yêu đời khát sống trở thành một người hoàn toàn tê liệt về ý thức: “sống lâu
trong cái khổ Mị cũng quen rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa”, “Mị
chỉ cúi mặt không nghĩ ngợi”, chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau”, Mị không
còn ý thức được về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Cô giống như một cỗ máy hoạt
động theo một quy luật đã được lập trình sẵn. Mị vô cảm, không tình yêu, không khát
vọng, thậm chí cũng không còn biết đến khổ đau.
Nhưng đâu đó trong thẳm sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì khổ đau, cơ cực ấy
vẫn tiềm ẩn một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đóa hoa nơi núi rừng Tây Bắc
đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, hiếu thảo. Ngày ấy tâm hồn yêu đời của Mị
gửi vào tiếng sáo: “Mị thổi sáo giỏi, không có sáo, Mị uốn chiếc lá trên môi cũng hay
như thổi sáo vậy”/ Ở Mị, khát vọng tình yêu, tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị
bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi “trai làng đến
đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của
người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ lại sớm rơi vào
cạm bẫy.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích chất thơ trong Vợ chồng A Phủ
Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này.
Nhà văn miêu tả những tố chất này ở Mị khiến cho câu chuyện phát triển theo một
hướng tự nhiên, hợp lý. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền
có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người
nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ
hội nó sẽ bùng lên mãnh liệt.
Bị bắt về nhà thống lí làm con dâu gạt nợ, Mị định tự tử, Mị tìm đến cái chết chính là
sự phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể nào
làm khác được trong hoàn cảnh ấy, có đến “mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc”,
Mị trốn về nhà cầm nắm lá ngón trên tay. Chính khát vọng được sống một cuộc sống
đúng nghĩa đã khiến Mị không thể chấp nhận một cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử như
một con vật. Mị tìm đến cái chết như một sự giải thoát.
Đêm tình mùa xuân là cái đêm đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời của Mị. Mị đột nhiên
lại muốn đi chơi và sửa soạn để đi chơi. Tô Hoài đã bộc lộ tất cả những anh hao của
mình trong việc lý giải sự chuyển biến tâm lý của Mị, nó vừa như là một hành động
bộc phát, lại vừa là một hệ quả tất yếu của một sức sống tiềm tàng được khơi dậy,
bùng lên để quên đi thực tại, sống với bản chất của mình.
Sự thức tỉnh ý thức của Mị trước hết là nhờ sự tác động của hoàn cảnh, khi mà Mị
nhìn thấy vẻ đẹp của cảnh vật Hồng Ngài khi xuân đến. Nếu ngoại cảnh là chất xúc
tác gián tiếp thì rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời khát sống của Mị trỗi
dậy. “Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một” như nuốt cay, nuốt đắng, nuốt
uất, nuốt hận vào lòng. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo.
Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan
trọng. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát của
người đang thổi”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của
khát khao hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại dụng công miêu tả tiếng
sáo nhiều lần đến vậy. “Tiếng sáo gọi bạn cứ tha thiết, bồi hồi”, “ngoài đầu núi lấp lấp
ló đã có tiếng ai thổi sáo”, “tai Mị vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “mà tiếng sáo gọi
bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi, đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo
như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát
vọng tình yêu tự do, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng chừng đã nguội tắt.
Thoạt tiên, tiếng sáo còn “lửng lơ”, “lấp ló” ngoài đầu núi, ngoài đường. Sau đó tiếng
sáo đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng trở thành lời mời gọi tha