
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng – Kỹ Thuật Y Học
439
MỐI LIÊN QUAN GIỮA PHONG CÁCH HỌC YÊU THÍCH
VÀ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG
Nguyễn Hoàng Long1, Ngô Xuân Long2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Dù đã có một số nghiên cứu được tiến hành, mức độ ảnh hưởng của phong cách học tới kết quả
học tập của sinh viên tới nay vẫn chưa được xác định. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu mối liên hệ
giữa phong cách học yêu thích với kết quả học tập của sinh viên trong 3 học kỳ đầu tiên của chương trình Cử
nhân Điều dưỡng.
Đối tượng - Phương pháp: Với thiết kế nghiên cứu mô tả, phong cách học yêu thích của 156 sinh viên Điều
dưỡng chính quy năm thứ 2 tại Trường đại học Y Dược Thái Nguyên được đánh giá thông qua bảng hỏi tự điền.
Kết quả học tập trong 3 học kỳ đầu tiên được thu thập từ bảng điểm của mỗi sinh viên.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số 4 phong cách học, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa sự yêu thích của sinh viên với ba phong cách học là Thính giác, Đọc/Viết, và Vận động. Tuy nhiên, sinh viên
có xu thế yêu thích phong cách học Đọc/Viết nhất và ít yêu thích nhất phong cách học Thị Giác. Không tìm thấy
mối liên quan giữa phong cách học với kết quả của hầu hết các môn, cũng như điểm trung bình chung học tập
trong suốt 3 học kỳ đầu tiên.
Kết luận: Mối quan hệ giữa phong cách học và kết quả học tập của sinh viên điều dưỡng cần tiếp tục được
tìm hiểu. Đặc biệt, các nghiên cứu tiếp theo nên xem xét sự tác động qua lại giữa ba yếu tố là phong cách học, kết
quả học tập của sinh viên và phong cách giảng của giảng viên.
Từ khoá: đào tạo điều dưỡng, phong cách học, phương pháp giảng dạy
ABSTRACT
THE RELATIONSHIPS AMONG PREFERED LEARNING STYLES AND ACADEMIC PERFORMANCE
OF NURSING STUDENTS
Nguyen Hoang Long, Ngo Xuan Long
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 5 - 2021: 439 - 444
Background: The association between students’ preferred learning styles and their academic performance is
still inconclusive. This study aims to examine such relationships among baccalaureate nursing students.
Methods: In the current descriptive study, preferred learning styles of 156 nursing students at Thai
Nguyen university of Medicine and Pharmacy were assessed by self-administered questionnaire. Students’
academic performance was collected from their academic records.
Results: Among four learning styles, there were no significant differences found among three styles, which
were Aural, Read/Write, and Kinesthetic. Students’ least preferred Visual style. However, students tended to like
Read/Write than others. There were no significant relationships between preferred learning styles and both the
scores of most individual subjects and Grade Point Average during the first semesters of the Bachelor program.
Conclusions: Further studies in this issue are needed. The interplay among students’ learning styles,
academic performance, and instructors’ teaching styles should be examined carefully.
1Viện Khoa học Sức khoẻ, Trường Đại học VinUni, Hà Nội
2Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, Thái Nguyên
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hoàng Long ĐT: 0978877800 Email: long.51@hotmail.com

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Chuyên Đề Điều Dưỡng – Kỹ Thuật Y Học
440
Keywords: nursing education, learning styles, teaching methodologies
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu về phong cách học của người
học là một trong các chủ đề rất được quan tâm
trong giáo dục học Điều dưỡng. Phong cách học
là cách tiếp cận cá nhân của mỗi người khi thu
nhận và xử lý thông tin trong quá trình học(1).
Các nghiên cứu đã được công bố cho thấy phong
cách học của sinh viên rất khác nhau. Ví dụ,
nghiên cứu của James và cộng sự tại Úc cho thấy
sinh viên Điều dưỡng tại đây yêu thích phong
cách học Vận động nhất so với các phong cách
học khác(2). Một nghiên cứu khác trên 125 sinh
viên điều dưỡng tại Ả rập của Stirling và cộng
sự cho thấy trong số các sinh viên có yêu thích rõ
rệt một phong cách học nào đó, 38,2% yêu thích
phong cách học Vận động, và chỉ có 10,6% yêu
thích phong cách học Thính giác, 4,9% yêu thích
phong cách Đọc/Viết và 2,4% yêu thích phong
cách Thị giác(3).
Nhiều tác giả cho rằng thông tin về phong
cách học của học viên trong lớp là cơ sở tốt để
giảng viên thiết kế bài giảng sao cho phù hợp
với các phong cách học đó. Giả thuyết thường
được đưa ra là nếu hoạt động dạy phù hợp với
phong cách học sẽ giúp cải thiện kết quả học tập
của sinh viên. Ví dụ, người học theo phong cách
Thính giác sẽ nhớ bài tốt hơn nếu kiến thức được
truyền tải dưới dạng lời nói. Ngược lại, những
người học theo phong cách Thị giác sẽ tiếp thu
tốt hơn nếu các kiến thức được trình bày dưới
dạng hình ảnh(4). Tuy nhiên, các giả thuyết này
dẫn đến một câu hỏi cơ bản là liệu có mối quan
hệ nào giữa phong cách học và kết quả học tập
của sinh viên hay không.
Kết quả từ các nghiên cứu đã công bố cũng
còn nhiều trái ngược. Ví dụ, Weiland PS(5) thực
hiện một nghiên cứu can thiệp trên 51 sinh viên
điều dưỡng ở Texas Hoa Kỳ để tìm hiểu ảnh
hưởng của phong cách học tới khả năng nhớ
ngắn hạn cũng như dài hạn của sinh viên đối với
kiến thức chuyên môn. Kết quả nghiên cứu cho
thấy không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê
giữa các phong cách học yêu thích và khả năng
ghi nhớ của sinh viên. Tương tự, một nghiên cứu
khác trên sinh viên Y khoa để thử nghiệm tác
dụng của bài giảng kỹ thuật trên mô phỏng
được thiết kế phù hợp với từng phong các học
của sinh viên cũng cho thấy không có sự khác
biệt về điểm số thực hiện kỹ thuật, cũng như số
lần phải thực hiện kỹ thuật trước khi thực hiện
thành công giữa nhóm đối chứng và nhóm can
thiệp(6). Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác trên
sinh viên Điều dưỡng và Y khoa lại cho thấy
phong cách học có mối quan hệ với kết quả học
tập(7), khả năng nhận định lâm sàng(8), và năng
lực tư duy phản biện(9) của sinh viên. Từ những
cơ sở trên, nghiên cứu này được tiến hành để
tiếp tục kiểm định giả thuyết về mối quan hệ
giữa phong cách học yêu thích và kết quả học
tập một số môn chuyên ngành của sinh viên
Điều dưỡng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên Điều dưỡng đại học hệ chính quy
khoá 2018 - 2022 của Trường đại học Y Dược
Thái Nguyên. Số liệu được thu thập từ tháng 1
tới tháng 6 năm 2020.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Sinh viên đại học điều dưỡng chính Trường
ĐH Y Dược Thái Nguyễn đồng ý tham gia
nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
Sinh viên (SV) vắng mặt tại thời điểm thu
thấp số liệu
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp
hồi cứu.
Cỡ mẫu, phương pháp chọn mẫu
Toàn bộ sinh viên đủ đạt tiêu chuận lựa chọn
đều được mời tham gia vào nghiên cứu theo
phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Tất cả 169
sinh viên đều tham gia khảo sát. Tuy nhiên, số
liệu từ một 156 sinh viên được đưa vào kết quả

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng – Kỹ Thuật Y Học
441
xử lý, 13 sinh viên còn lại bị loại có khuyết thiếu
số liệu.
Bộ công cụ nghiên cứu
Bộ công cụ nghiên cứu (NC) gồm 3 phần,
thu thập 3 nhóm thông tin: a) thông tin chung về
đối tượng nghiên cứu, b) phong cách học, và b)
kết quả học tập các học kỳ trước đó của đối
tượng nghiên cứu.
Bộ công cụ tìm hiểu thông tin chung do
nghiên cứu viên tự thiết kế để thu thập các
thông tin nhân khẩu học cơ bản của đối tượng
nghiên cứu. Bộ câu hỏi về phong cách học được
xây dựng dựa trên bộ câu hỏi VARK của
Flemming ND(10). Flemming chia phong cách học
làm 4 loại, đó là: Thị giác (V – Visual), Thính giác
(A – Aural), Đọc/Viết (R - Read/Write), Vận động
(K – Kinaesthetic). Người học thị giác (V) thích
học bằng cách nhìn thông tin trình bày dưới các
dạng như lưu đồ, biểu đồ. Người học thính giác
(A) thích học bằng cách nghe giảng. Người học
đọc/viết, tương tự như người học thị giác, học tốt
nhất khi được nhìn thấy thông tin trình bày
trước mắt nhưng thay vì thông tin được trình
bày dưới dạng hình vẽ, lưu đồ thì thông tin
được trình bày dưới dạng văn bản. Người học
vận động học tốt nhất bằng cách được trực tiếp
làm một nhiệm vụ nào đó(2). Bộ câu hỏi gồm 11
câu, mỗi câu hỏi là 1 tình huống học tập. Với mỗi
tình huống học tập, có 4 phương pháp học
tương ứng với các phong cách học nói trên.
Người trả lời sẽ chọn xem với tình huống học
tập đó họ thích được học theo phương pháp nào.
Do một người có thể yêu thích nhiều cách học,
người trả lời được phép chọn nhiều hơn 1 lựa
chọn ở mỗi tình huống học tập.
Cách đo lường, đánh giá
Số liệu được thu thập bằng phương pháp
phát vấn qua bảng hỏi cho đối tượng nghiên cứu
tự điền. Điểm của mỗi phong cách học là điểm
tổng của các hoạt động tương ứng với phong
cách học đó ở tất cả 11 tình huống. Điểm tối đa
cho mỗi phong cách học là 11 điểm, tối thiểu là 0
điểm, điểm càng cao càng thể hiện người học
yêu thích phong cách học đó. Kết quả học tập
của nhóm đối tượng nghiên cứu được thu thập
dựa trên bảng điểm sinh viên trong 03 học kỳ
đầu tiên của khoá học. Điểm được tính theo
thang điểm 10, lấy tới 01 chữ số thập phân.
Phương pháp xử lý số liệu
Thống kê mô tả (giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn, tỷ lệ phần trăm) được sử dụng để mô tả
đặc điểm nhóm đối tượng nghiên cứu. Kiểm
định student (t-test) được sử dụng để so sánh sự
khác biệt giữa các giá trị trung bình. Hệ số tương
quan Spearman’s Rho được sử dụng để đánh giá
mối liên quan giữa phong cách học và kết quả
học tập của sinh viên. Mức ý nghĩa thống kê
được sử dụng cho các kiểm định là 0,05.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ học của đối NC
Đặc
điểm
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Giới tính
Nam
8
5,1%
Nữ
148
94,9%
Nhóm
tuổi
Đúng độ tuổi tuyển sinh (sinh
năm 2000)
145
92,9%
Năm sinh khác 2000
11
7,1%
Tuổi trung bình
20,08
Dân tộc
Kinh
120
76,9%
Thiểu số (Tày, Nùng, Thái...)
36
23,1%
Kết quả Bảng 1 cho thấy đa phần đối tượng
nghiên cứu là nữ (94,9%), chỉ có 5,1% đối tượng
là nam giới. Độ tuổi trung bình là 20,08, trong đó
92,9% đối tượng nghiên cứu đúng độ tuổi với
khoá tuyển sinh (sinh năm 2000). Tỷ lệ sinh viên
là dân tộc Kinh chiếm 76,9%, còn lại là các dân
tộc như Tày, Thái, Nùng… chiếm 23,1%.
Bảng 2. Điểm mức độ yêu thích phong cách học của
đối tượng nghiên cứu (n = 156)
Phong cách
GT nhỏ nhất-GT lớn nhất
Giá trị trung bình
Thính giác
0 – 9
4,87 1,84
Thị giác
0 – 8
4,00 1,63*
Đọc/Viết
1 – 9
4,98 1,87
Vận động
0 – 9
4,72 1,79
Kết quả nghiên cứu cho thấy phong cách học
được sinh viên ít ưa thích nhất là Thị giác với
điểm trung bình chỉ 4,00 1,63 (Bảng 2).
Để đánh giá sâu hơn, kiểm định so sánh

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Chuyên Đề Điều Dưỡng – Kỹ Thuật Y Học
442
từng cặp các giá trị trung bình (t-test) cũng được
tiến hành. Kết quả cho thấy điểm số này thấp
hơn có ý nghĩa thống kê so với tất cả điểm của
các phong cách còn lại (p <0,05). Đáng chú ý,
mặc dù điểm yêu thích của sinh viên với phong
cách học Đọc/Viết cao nhất so với các phong
cách còn lại, kiểm định t-test từng cặp cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
điểm yêu thích của các phong cách Thính giác,
Đọc/Viết, và Vận động (p >0,05).
Bảng 3. Mối tương quan giữa phong cách học với điểm thi một số môn học (n = 156)
Di truyền
học
Hoá học
Giải phẫu
học
Vật lý – Lý
sinh
Thống kê
Điều dưỡng cơ
bản 1
Ký sinh
trùng
Quản lý
Điều
dưỡng
Sinh lý
học
Thính giác
r
-0,06
-0,13
0,05
-0,08
-0,02
-0,002
-0,04
0,02
-0,004
p
0,49
0,10
0,51
0,31
0,86
0,98
0,67
0,83
0,97
Thị giác
r
-0,06
-0,03
0,05
-0,05
0,01
0,02
0,05
0,19*
0,05
p
0,50
0,73
0,55
0,54
0,94
0,78
0,52
0,02
0,58
Đọc-Viết
r
-0,12
-0,16*
0,07
0,01
-0,03
0,02
-0,04
0,07
0,05
p
0,12
0,04
0,38
0,94
0,74
0,81
0,64
0,39
0.51
Vận động
r
-0,03
0,09
0,06
0,01
-0,004
0,05
-0,01
-0,003
0,01
p
0,67
0,25
0,45
0.87
0,96
0,52
0,91
0,97
0,95
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên
quan nghịch ở mức độ thấp giữa phong cách học
Đọc/Viết với kết quả học tập môn Hoá học
(r= -0,16, p <0,05), giữa phong cách học Thị giác
với kết quả học tập môn Quản lý điều dưỡng
(r=0,19, p <0,05) (Bảng 3).
Bảng 4. Mối tương quan giữa phong cách học yêu
thích và điểm trung bình chung học tập trong 3 học
kỳ đầu tiên (n = 156).
Thính giác
Thị giác
Đọc/Viết
Vận động
Học kỳ 1
r
-0,09
0,03
-0,14
0,07
p
0,26
0,70
0,08
0,36
Học kỳ 2
r
-0,02
0,04
-0,03
0,04
p
0,82
0,62
0,73
0,62
Học kỳ 3
r
-0,05
0,09
-0,04
0,01
p
0,57
0,24
0,59
0,92
Theo Bảng 4, không có mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa các phong cách học với
điểm trung bình chung học tập của SV trong cả
ba học kỳ đầu tiên của chương trình học.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù không
tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức
độ yêu thích giữa ba phong cách học Thính giác,
Đọc/Viết và Vận động, điểm số của phong cách
học Đọc/Viết có xu thế cao hơn các phong cách
còn lại. Kết quả này khác biệt so với các kết quả
của các nghiên cứu tại nước ngoài, nơi hầu hết
người học yêu thích phong cách học Vận
động(3,11,12). Thực tế cho thấy, không có phong
cách học nào tốt hơn phong cách học nào trong
việc giúp người học học nhanh và hiểu sâu vấn
đề. Phong cách học yêu thích chỉ là đặc điểm cá
nhân, mỗi người học thấy mình phù hợp với
một phong cách nào đó. Tuy nhiên, có lẽ sự khác
biệt về phong cách học được yêu thích nhất giữa
sinh viên Điều dưỡng ở Việt Nam và sinh viên ở
một số nước khác là do truyền thống tiếp cận
trong giảng dạy. Phương pháp giảng thường
được thầy cô sử dụng là thuyết trình, học trò ghi
chép, các tài liệu/sách giáo khoa chủ yếu dưới
dạng văn bản.
Khi phân tích liên quan giữa kết quả học tập
ở một số môn học cơ sở ngành và chuyên ngành
như Sinh lý học, Giải phẫu học, Hoá học, Điều
dưỡng cơ bản…, kết quả nghiên cứu này cho
thấy kết quả nghiên cứu của hầu hết các môn
học không có mối liên quan với phong cách học
của người học. Tuy nhiên, kết quả học môn Hoá
học liên quan nghịch với phong cách học
Đọc/Viết và kết quả học môn Quản lý điều
dưỡng có mối liên quan thuận với phong cách
học Thị giác. Đáng chú ý là, một nghiên cứu của

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 5 * 2021
Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng – Kỹ Thuật Y Học
443
Hernándes-Torrano D(7) cũng chỉ tìm thấy mối
liên quan giữa phong cách học với kết quả học
tập ở môn di truyền học, và không tìm thấy mối
liên quan nào giữa phong cách học với kết quả
học của các môn chuyên ngành như Giải phẫu
học, Vi sinh học, Miễn dịch học, Bệnh học tế bào,
Y đức, Thăm khám thể chất cơ bản… Các nghiên
cứu sâu hơn trong tương lai, đi vào từng phong
cách giảng của giảng viên, phong cách học lẫn
nội dung môn học tương ứng, là cần thiết để xác
định chính xác mối liên quan giữa kết quả học
tập, phong cách học của người học và đặc điểm
đặc thù của từng môn học.
Đáng chú ý, kết quả nghiên cứu cho thấy
không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê nào
giữa điểm trung bình chung học tập ở cả ba học
kỳ đầu tiên với tất cả các phong cách học. Một số
tác giả khác cũng không tìm thấy mối liên hệ nào
tương tự(5,6). Tuy nhiên, kết quả này cần được
suy luận một cách cẩn trọng là không tìm thấy
mối liên quan giữa phong cách học và kết quả
học tập nói chung chứ không có nghĩa là không
có mối liên quan giữa ba yếu tố quan trọng:
phong cách giảng của thầy, phong cách học của
trò, và kết quả học tập. Để trả lời một cách chính
xác cho câu hỏi rằng liệu giảng viên có thực sự
cần thiết phải thiết kế bài giảng theo đúng đặc
điểm học của người học nhằm làm tăng kết quả
học tập hay không, cần có nhiều nghiên cứu với
cách tiếp cận toàn diện, đánh giá sự tác động
qua lại của ba yếu tố kể trên.
Một trong những hạn chế của nghiên cứu
này là các tác giả mới bước đầu tìm hiểu mối liên
quan giữa phong cách học và kết quả học chủ
yếu một số môn cơ sở khối ngành. Để kết quả có
ý nghĩa hơn, các nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp
tục tiến hành trên các môn học chuyên ngành,
đặc biệt là các môn học có cấu phần thực tập lâm
sàng. Đánh giá với các điều kiện học tập và nội
dung môn học đa dạng, sự ảnh hưởng của
phong cách học tới kết quả học tập sẽ được xác
định rõ ràng hơn.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu mô tả trên 156 sinh viên Điều
dưỡng tại Trường đại học Y Dược Thái Nguyên
cho thấy không có mối quan hệ có ý nghĩa thống
kê giữa phong cách học được yêu thích với kết
quả học tập của sinh viên ở hầu hết các môn học
cơ sở ngành và chuyên ngành. Có mối quan hệ ở
mức độ thấp giữa kết quả học tập của hai môn
Hoá học và Quản lý Điều dưỡng với các phong
cách học. Không tìm thấy mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa phong cách học và điểm
trung bình chung học tập trong 3 học kỳ đầu tiên
của chương trình Cử nhân Điều dưỡng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. McKenna L, Copnell B, Butler AE, Lau R (2018). Learning style
preferences of Australian accelerated postgraduate pre-
registration nursing students: A cross-sectional survey. Nurse
Education in Practice, 28:280-284.
2. James S, D'Amore A, Thomas T (2011). Learning preferences of
first year nursing and midwifery students: Utilising VARK.
Nurse Education Today, 31(4):417-423.
3. Stirling BV, Alquraini WA (2017). Using VARK to assess Saudi
nursing students' learning style preferences: Do they differ
from other health professionals? Journal of Taibah University
Medical Sciences, 12(2):125-130.
4. Rogowsky BA, Calhoun BM, Tallal P (2018). Providing
Instruction Based on Students' Learning Style Preferences Does
Not Improve Learning. Front Psychol, 11:164-164.
5. Wieland PS, Willis J, Peters ML, O'Toole RS (2018). Examining
the impact of modality and learning style preferences on recall
of psychiatric nursing and pharmacology terms. Nurse
Education Today, 66:130-134.
6. Papanagnou D, Serrano A, Barkley K, Chandra S, Governatori
N, Piela N, Wanner GK, Shin R (2016). Does tailoring
instructional style to a medical student's self-perceived
learning style improve performance when teaching
intravenous catheter placement? A randomized controlled
study. BMC Med Educ, 16(1):205-205.
7. Hernández-Torrano D, Ali S, Chan C-K (2017). First year
medical students' learning style preferences and their
correlation with performance in different subjects within the
medical course. BMC Med Educ, 17(1):131-131.
8. Hallin K, Haggstrom M, Backstrom B, Kristiansen LP (2015).
Correlations Between Clinical Judgement and Learning Style
Preferences of Nursing Students in the Simulation Room. Glob
J Health Sci, 8(6):1-13.
9. Andreou C, Papastavrou E, Merkouris A (2014). Learning
styles and critical thinking relationship in baccalaureate