
Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
97
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP
Trần Thái Yên1,*, Nguyễn Đắc Hậu2
1Trường Đại học Kinh tế Nghệ An, 2Vụ Tổng hợp Uỷ ban Dân tộc
*Email: Tranyen1975.na@gmail.com
Tóm tắt: Phát triển bền vững nông nghiệp đã trở thành vấn đề toàn cầu, có nhiều cách tiếp
cận cho phát triển bền vững, tuy nhiên tất cả chỉ để làm thế nào cho người sản xuất thay đổi hành vi
của họ dựa trên các nguyên tắc, chỉ tiêu sản xuất bền vững. Bài viết này nhằm lý luận hóa về phát
triển bền vững nông nghiệp; nội dung phát triển bền vững nông nghiệp; các yếu tố ảnh hưởng đến
phát triển bền vững nông nghiệp; các chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững nông nghiệp gắn với bối
cảnh đô thị hóa. Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững để đạt giá trị lớn hơn về kinh tế, đảm
bảo an ninh lương thực, an sinh xã hội và hạn chế ô nhiễm môi trường là một vấn đề cấp thiết đối
với các quốc gia. Phát triển nông nghiệp bền vững phải dựa trên ba trụ cột: bền vững về kinh tế, bền
vững về xã hội và bền vững về môi trường.
Từ khoá: Phát triển bền vững nông nghiệp, ảnh hưởng, kinh tế, xã hội, môi trường.
1. MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là nền tảng cho sự phát triển
kinh tế của một quốc gia, xã hội bền vững, ổn
định chính trị và an ninh quốc gia. Phát triển
nông nghiệp nếu được quản lý tốt sẽ vừa bảo
tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vừa
góp phần tạo nên sự bền vững sinh thái (Luu
Ngoc Luong, 2013). Nông nghiệp đóng một
vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc tế,
có tới 1,3 tỷ người, tương đương 16% dân số
toàn cầu đang làm việc cho ngành nông
nghiệp và đóng góp 24% vào sản lượng toàn
cầu (Elawama, 2016). Ở nhiều nước đang
phát triển, việc tăng năng suất nông nghiệp
đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính bền
vững, dẫn đến đất đai bị thoái hóa, xói mòn;
nước ngầm bị ô nhiễm và tài nguyên thiên
nhiên đang cạn kiệt (Maja & Samuel, 2021).
Phát triển sản xuất nông nghiệp theo
hướng bền vững để đạt giá trị lớn hơn về kinh
tế, đảm bảo an ninh lương thực, an sinh xã
hội và hạn chế ô nhiễm môi trường là một vấn
đề cấp thiết đối với các quốc gia. Tại hầu hết
các nền kinh tế mà nông nghiệp còn đóng vai
trò chi phối thì đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp được coi là nền tảng của tăng trưởng
kinh tế ở trong giai đoạn đầu của quá trình
phát triển. Thực tế đã chứng minh, tăng
trưởng nông nghiệp chính là yếu tố tiên
phong của các cuộc cách mạng công nghiệp
đã diễn ra trên thế giới (ở Anh vào giữa thế
kỹ XVIII và ở Nhật vào cuối thế kỷ XIX) và

Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
98
tốc độ tăng trưởng nhanh của nông nghiệp tại
một số quốc gia châu Á những năm gần đây
như tại Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam ...
cũng đã tạo tiền đề cho phát triển công
nghiệp. Có nhiều cách tiếp cận cho phát triển
bền vững, tuy nhiên tất cả chỉ để làm thế nào
cho người sản xuất thay đổi hành vi của họ
dựa trên các nguyên tắc sản xuất bền vững.
Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận phát
triển nông nghiệp bền vững là cần thiết góp
phần cải thiện và nâng cao đời sống của
người nông dân.
2. BẢN CHẤT CỦA PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP
Phát triển bền vững là mối quan tâm trên
phạm vi toàn cầu, đặc biệt trong xu thế toàn
cầu hóa và những tác động của biến đổi khí
hậu hiện nay. Trong tiến trình phát triển của
thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện
nhiều vấn đề bức xúc mang tính phổ biến.
Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan
hiếm các loại nguyên nhiên liệu, năng lượng
do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái
tạo được càng tăng thêm, môi trường thiên
nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị
phá vỡ, thiên nhiên gây ra những thiên tai vô
cùng thảm khốc.
Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn
thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên
nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-
International Union for Conservation of
Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục
tiêu của phát triển bền vững là “đạt được sự
phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài
nguyên sinh vật” và thuật ngữ phát triển bền
vững ở đây được đề cập tới với một nội dung
hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát
triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo
tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong
Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy
ban Thế giới về Môi trường và Phát triển
(World Commission on Environment and
Development - WCED) của Liên hợp quốc,
"phát triển bền vững" được định nghĩa là “Sự
phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại
mà không làm tổn thương khả năng cho việc
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh
sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con
người trong quá trình phát triển.
Nội hàm về phát triển bền vững được tái
khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất
về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de
Janeiro (Brazil) năm 1992 và được bổ sung,
hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới
về Phát triển bền vững tổ chức ở
Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm
2002: "Phát triển bền vững" là quá trình phát
triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển
kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát
triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là
xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải
thiện chất lượng môi trường; phòng chống
cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và
sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Theo FAO (1992), phát triển nông nghiệp
bền vững là quá trình quản lý và duy trì sự
thay đổi về tổ chức, kỹ thuật và thể chế cho
nông nghiệp phát triển nhằm đảm bảo thỏa
mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người

Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
99
về nông phẩm và dịch vụ vừa đáp ứng nhu
cầu của mai sau. Theo Mollison và Mia Slay
(1994), nông nghiệp bền vững là một hệ
thống được thiết kế để chọn môi trường bền
vững cho sự sống của con người. Đó là một
hệ thống ổn định về mặt sinh thái, có tiềm lực
về kinh tế, có khả năng thoả mãn những nhu
cầu của con người mà không bóc lột đất đai,
không làm ô nhiễm môi trường. Nông nghiệp
bền vững sử dụng những đặc tính vốn có của
cây trồng, vật nuôi kết hợp với đặc trưng của
cảnh quan và cấu trúc, trên những diện tích
đất sử dụng thấp nhất, nhờ vậy con người có
thể tồn tại được, sử dụng nguồn tài nguyên
phong phú trong thiên nhiên một cách bền
vững mà không liên tục huỷ diệt sự sống trên
trái đất.
Theo Dumanski (2000), nền tảng của một
nền nông nghiệp bền vững là duy trì tiềm
năng sản xuất sinh học, đặc biệt là duy trì
chất lượng đất, nước và tính đa dạng gen.
Nền nông nghiệp bền vững phải đảm bảo
được 3 yêu cầu: quản lý đất bền vững, công
nghệ được cải tiến và hiệu quả kinh tế phải
nâng cao, trong đó quản lý đất đai bền vững
được đặt lên hàng đầu. Nông nghiệp giữ vai
trò động lực cho phát triển kinh tế ở hầu hết
các nước đang phát triển. Một nền nông
nghiệp bền vững hơn rất cần thiết để tạo ra
những lợi ích lâu dài, góp phần vào phát
triển bền vững và xóa đói giảm nghèo.
Quan điểm của Richard (1990) cho rằng
“nông nghiệp bền vững là một nền nông
nghiệp trong đó các hoạt động của các tổ
chức kinh tế từ việc lập kế hoạch, thực hiện
và quản lý các quá trình sản xuất kinh doanh
nông nghiệp đều hướng đến bảo vệ và phát
huy lợi ích của con người và xã hội”. Theo
khái niệm này, nông nghiệp bền vững nghiên
cứu theo ba khía cạnh kinh tế - xã hội và môi
trường nhằm đạt ba mục tiêu: kinh tế (năng
suất, chất lượng, hiệu quả); xã hội (xóa đói
giảm nghèo, công bằng xã hội, nâng cao giá
trị văn hóa, tinh thần) và môi trường (trong
sạch, không bị ô nhiễm).
3. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG NÔNG NGHIỆP
Khai thác, sử dụng bền vững các nguồn
lực phục vụ sản xuất nông nghiệp: Quá trình
đô thị hóa làm giảm đáng kể diện tích đất
nông nghiệp ở. Theo dự báo của Liên hợp
quốc, dân số đô thị sẽ tăng thêm 1,35 tỷ người
vào năm 2030, lúc đó dân số đô thị trên thế
giới sẽ xấp xỉ 5 tỷ người (United Nations,
2012) và theo ước tính đến năm 2030, 3,7%
diện tích đất canh tác toàn cầu sẽ mất do quá
trình ĐTH (Jiang & Cheng, 2020). Khai thác,
sử dụng bền vững các nguồn lực về đất đai,
nguồn vốn, con người phục vụ sản xuất nông
nghiệp là cần thiết nhằm tăng năng suất, chất
lượng nông sản, đồng thời tạo tạo ra những
sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao đáp
ứng nhu cầu cạnh tranh trong và ngoài nước
Nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia
tăng: Phát triển bền vững nông nghiệp cần
đảm bảo các mục tiêu nâng cao năng suất,
chất lượng các nông sản phẩm hàng hóa nông
nghiệp bằng việ quy hoạch các cùng sản xuất
tập trung; ứng dụng công nghệ cao, sản xuất
sản phẩm có năng suất, chất lượng, có sức

Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
100
cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu của thị
trường trong và ngoài nước; xây dựng thương
hiệu; phát triển thị trường tiêu thụ.
Phát triển nông nghiệp gắn với bảo đảm
công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân:
Phát triển nông nghiệp bền vững cần đảm bảo
các mục tiêu giải quyết việc làm, sử dụng lao
động hợp lý, có chính sách gia tăng sản lượng
và giải quyết việc làm cho khu vực nông
thôn. Gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế nông
nghiệp với mục tiêu tạo việc làm cho người
dân và tăng năng suất lao động. Giảm khoảng
cách giàu nghèo, ổn định xã hội và nâng cao
chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
Phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ môi
trường bền vững: Bảo vệ môi trường là một
trong 3 trụ cột của phát triển bền vững nông
nghiệp nhằm giảm thiểu tác hại ô nhiễm môi
trường trong quá trình đô thị hóa. Để bảo đảm
an ninh lương thực trong bối cảnh đô thị hóa,
đảm bảo sức khỏe của con người, đồng thời
tạo được thị trường cạnh tranh lành mạnh
trong và ngoài nước thì cần phảu xây dựng kế
hoạch khai thác, sử dụng tiết kiệm nguồn tài
nguyên, duy trì độ màu mỡ của đất, giảm
thiểu ô nhiễm không khí và nguồn nước trong
các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP
Chính sách, pháp luật: Nông nghiệp Việt
Nam giữ vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo,
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho cư dân
nông thôn. Nông nghiệp đã trở thành ngành
sản xuất hàng hoá quan trọng, tham gia ngày
càng sâu sắc vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Để phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hóa tập trung, quy mô lớn, không ngừng
nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia
tăng và năng lực cạnh tranh theo hướng nông
nghiệp sinh thái, hiện đại, tham gia ngày càng
sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu và đảm bảo phát
triển bền vững, Đảng và Chính phủ đã ban
hành nhiều chính sách cụ thể như chính sách,
pháp luật đất đai; chính sách, pháp luật ứng
dụng khoa học và công nghệ trong phát triển
nông nghiệp; chính sách, pháp luật tái cơ cấu
ngành nông nghiệp; chính sách, pháp luật thu
hút đầu tư phát triển nông nghiệp; chính sách,
pháp luật hỗ trợ tài chính, tín dụng; chính
sách, pháp luật bảo hiểm nông nghiệp; chính
sách, pháp luật hợp tác công tư.
Hội nhập quốc tế: Hội nhập quốc tế là một
cơ hội tốt để cho nông sản có điều kiện thâm
nhập sâu hơn vào thị trường nông sản khu
vực và thế giới góp phầm nâng cao đời sống
tinh thần của nông dân, đồng thời nó sẽ mở
ra một cánh cửa để đời sông tinh thần của
người nông dân hòa nhập cùng cuộc sống
hiện đại của thế giới. Việc đẩy mạnh xuất
khẩu ra thị trường thế giới với số lượng lớn
sẽ khuyến khích người nông dân mở rộng sản
xuất, đầu tư vốn liếng, đổi mới công nghệ sản
xuất, chế biến nông sản sau thu hoạch từ đó
từng bước hội nhập quốc tế và nâng cao năng
lực cạnh tranh của các sản phẩm do mình làm
ra. Tại Việt Nam, nông nghiệp được xem là
trụ đỡ của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng
khá cao trong giai đoạn 1986-2010 (đạt
5,5%), giai đoạn 2011-2015 đạt trung bình
3,1%. Những năm gần đây, tốc độ tăng
trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng chậm

Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
101
lại, đạt bình quân 2,7% giai đoạn 2016-2020
do sự sụt giảm của các yếu tố đầu vào và tỷ
lệ lao động trong sản xuất nông nghiệp. Nhờ
tăng trưởng nhanh, nông nghiệp Việt Nam đã
không chỉ cung ứng đủ lương thực, thực
phẩm, giúp đảm bảo an ninh lương thực và
ổn định kinh tế - xã hội mà còn phục vụ đắc
lực cho xuất khẩu. Nếu như năm 1986, kim
ngạch xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt 486 triệu
USD, thì sau 35 năm đổi mới và hội nhập,
Việt Nam đã trở thành một trong những nước
xuất khẩu nông, lâm, thủy sản hàng đầu thế
giới với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành
năm 2020 đạt 41,25 tỷ USD, gấp 85 lần so
với năm 1986. Đặc biệt, có một số mặt hàng
đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, như:
cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản
phẩm gỗ... Nông sản Việt đã đến trên 196
quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những
thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản,
EU... (Minh Duyên, 2021). Việc Việt Nam
hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới vừa là
một cơ hội nâng cao đời sống tinh thần của
nông dân đồng thời mở ra một cánh cửa để
đời sông tinh thần của người nông dân nước
ta hòa nhập cùng cuộc sống hiện đại của thế
giới. Tuy nhiên, nó cũn đặt ra không ít thách
thức nếu không kịp thời hạn chế và cũng có
thể phá vỡ nhiều giá trị tốt đẹp truyền thống
trong đời sống tinh thần của người nông dân.
Quy hoạch sản xuất nông nghiệp gắn với
công nghiệp và dịch vụ: Để nâng cao giá trị
sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh đô thị
hóa, cần tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch sản xuất nông nghiệp trên cơ sở
phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng,
miền. Việc quy hoạch sản xuất nông nghiệp
cũng cần gắn kết với quy hoạch công nghiệp
chế biến, quy hoạch khoa học công nghệ,
dịch vụ, liên kết vùng ảnh hưởng mạnh mẽ
đến phát triển bền vững nông nghiệp. Để sản
xuất nông nghiệp gắn kết với công nghiệp
chế biến, cần thiết phải quy hoạch các vùng
sản xuất tập trung với các cây trồng chủ lực
gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu
thông qua mở rộng các mô hình liên kết tổ
chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản,
đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cung cấp
cho công nghiệp chế biến.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn đã tạo dựng được kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn hiện đại,
làm cho đời sống người dân có bước phát triển
toàn diện. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn đã làm thay đổi căn bản người
nông dân Việt Nam, thay đổi cách tổ chức đời
sống nông dân, xã hội nông thôn theo hướng văn
minh, hiện đại. Điều này làm thay đổi về nghề
nghiệp, thu nhập và đời sống người nông dân;
cùng với đó, do có điều kiện và cơ hội giao lưu,
hội nhập quốc tế, người nông dân được tiếp
nhận những giá trị văn minh hiện đại trong cách
nghĩ, lối sống mới. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn là con đường nhanh
nhất để người nông dân tiếp cận với các nguồn
lực phát triển, khoa học, công nghệ tiên tiến,
hiện đại. Những thành tựu trong lĩnh vực công
nghệ giống cây trồng và vật nuôi, kỹ thuật sản
xuất, chăn nuôi, bảo quản, vận chuyển, tích