
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng tín dụng tại
NHNo & PTNT Huyện Đông Triều,
Tỉnh Quảng Ninh

Lời mở đầu
Trong những năm qua nền Kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi như nguồn vốn
FDI tăng nhanh, Kinh tế - Xã hội phát triển, đời sống nhân nhân không ngừng tăng
cao…. Đặc biệt sau khi gia nhập WTO ngày 01 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã và
đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nền Kinh tế. Song song với quá
trình đó Ngân Hàng Thương Mại và các tổ chức tín dụng cũng đang đứng trước trước
nhiều thách thức khó khăn. Xuất phát từ yêu cầu đó hệ thống Ngân Hàng Việt Nam
nói chung cũng như NHNo & PTNT Huyện Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh nói riêng
phải phát triển toàn diện về mọi mặt như: hoạt động huy động vốn, nâng cao chất
lượng dịch vụ,… và một trong những mặt đang được hệ thống ngân hàng rất chú trọng
là chất lượng tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại. Vì lý do đó, tôi tiến hành thực
hiện nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện
Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh”.
Bằng việc kết hợp giữa lý luận và qua phân tích tình hình số liệu thực tế, chuyên đề
đã được hình thành với các nội dung sau:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về tín dụng ngân hàng
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện Đông
Triều Tỉnh Quảng Ninh.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ở
NHNo&PTNT huyện Đông Triều

Chương I
Những vấn đề lí luận chung về tín dụng ngân hàng
1.1 Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ra đời từ rất lâu gắn liền với sự phát triển của loài người mà không ai có
thể xác định rõ thời điểm tín dụng ra đời. Dưới góc độ nghiên cứu sự hình thành và
phát triển của tín dụng có thể chia thời kì phát triển của tín dụng thành hai thời kì như
sau: Thời kì sản suất hàng hóa chưa phát triển và thời kì sản xuất hàng hóa phát triển.
Thời kì sản xuất hàng hóa chưa phát triển: Trong thời kì xã hội phân cấp, xã hội nói
chung chia thành hai giai cấp: giai cấp thống trị là giai cấp chiếm tỉ lệ nhỏ trong xã hội
như cường hào, địa chủ, tu viện, …; giai cấp bị trị là nông dân, người lao động, nô lệ,
…., lực lượng này chiếm phần đông trong xã hội, họ là những người vô sản không có
tư liệu sản xuất trong tay. Giai cấp thống trị là người nắm tư liệu sản xuất trong tay
(quy trình sản xuất trong tay) trong khi giai cấp bị trị không có tư liệu sản suất do đó
nảy sinh quan hệ tín dụng. Đặc trưng thứ nhất của thời kì này là tín dụng nặng lãi bản
chất là khả năng trang trải của người sử dụng vốn. Đặc trưng thứ hai thời kì này là
mang tính chất phi sản suất vì nông dân (giai cấp vô sản) thường vay về để ăn chống
đói. Đối với Vua chúa vay về xây thành quách hưởng thụ hoặc vay về xây dựng thành
lũy phục vụ cho các cuộc chiến tranh. Hầu như đều là mục đích tiêu dùng. Do đó cho
vay dưới hình thức này tạo ra hai hướng tiêu cực cho nền kinh tế. Thứ nhất là người
sản xuất nghèo đi do không có tư liệu sản xuất trong tay vì vậy làm nghèo nàn nền
kinh tế. Thứ hai, những người đi vay họ trở thành người vô sản mà vốn tích tụ tập
trung trong tay địa chủ và đây là mầm mống cho hình thức sản xuất tư bản.
Trong thời kì sản xuất hàng hóa phát triển, quan hệ tín dụng gồm nhiều chủ thể khác
nhau như: Cá nhân, Doanh nghiệp… . Họ khác nhau về quyền sở hữu, khác nhau về
đặc điểm tuần hoàn luân chuyển vốn,… do quá trình khác nhau trong các lĩnh vực sản
xuất. Vì vậy xét trong bất kì thời điểm nào của nền kinh tế luôn có những doanh
nghiệp bán được hàng hóa, đó là những doanh nghiệp thừa vốn một cách tương đối.
Mặt khác, có những doanh nghiệp cần dự trữ nguyên vật liệu, hoặc là phải thực hiện
nghĩa vụ tài chính với nhà nước… tại thời điểm nhất định là các doanh nghiệp đang

trong giai đoạn thiếu vốn một cách tương đối. Đối với các doanh nghiệp thừa vốn họ
có nhu cầu nhường lại quyền sử dụng vốn để tăng lợi nhuận trong quá trình sản xuất.
Còn đối với các doanh nghiệp thiếu vốn có nhu cầu đi vay để duy trì sản xuất cũng vì
mục tiêu tạo ra lợi nhuận sau này. Do vậy quan hệ tín dụng xảy ra. Đặc điểm tín dụng
trong thời kì này là mang tính chất mùa vụ.
Giả sử nếu không có quan hệ tín dụng, mà nhà nước điều tiết nền kinh tế một cách
bao cấp thì các doanh nghiệp thừa vốn không muốn bị nhà nước chiếm dụng vốn, do
họ không thích bị nhà nước lấy đi một phần vốn vì vậy họ kê khai không đúng. Còn
đối với các doanh nghiệp thiếu vốn được nhà nước cấp vốn gây ra tình trạng ỷ lại
không thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hóa. Do vậy hình thức điều tiết này của nhà
nước gây khó khăn cản trở sự phát triển. Điều đó có nghĩa là quan hệ tín dụng có ý
nghĩa hơn vì khi các doanh nghiệp cho vay tạo thêm lợi nhuận họ không muốn đồng
vốn chết. Còn các doanh nghiệp đi vay có ý thức trả nợ khi có tiền để đỡ chịu thêm
khoản lãi.
Trong quan hệ tín dụng có một nguyên tắc muôn thủa đó là nguyên tắc về sự tin
tưởng. Do vậy Cá nhân, Doanh nghiệp… đang thừa vốn một cách tương đối khi cho
vay với Doanh nghiệp, Cá nhân… đang thiếu vốn một cách tương đối không phải tất
cả họ đều tin tưởng lẫn nhau từ đó xuất hiện một người thứ ba có đủ năng lực tài chính
đảm bảo cho sự tin tưởng của tất cả mọi người đứng ra làm trung gian. Có quan điểm
cho rằng ngân hàng hình thành khi mà những người đãi vàng ở miền Tây nước Mĩ gửi
tất cả số tiền của mình kiếm được cho một người trong giữ hộ (hình thức gửi tiền hình
thành). Khi họ có nhiều người gửi mà không phải tất cả đều rút tiền ra cùng một lúc
trong khi trong xã hội có những thương nhân thiếu vốn. Do đó những người nghĩ ra
cho vay một phần vốn của mình để lấy lãi. Sau này, ngân hàng hình thành từ những
ông chủ này cùng nhà nước chính quyền.
Quan hệ tín dụng có hai chức năng chính là:
Tập trung vốn trong nền kinh tế : Trong nền kinh tế những người thừa vốn là:
Dân cư, doanh nghiệp thừa vốn một cách tạm thời, Nước ngoài, Chính phủ, ….
Và những người thiếu vốn là các doanh nghiệp, chính phủ, dân cư… như vậy
qua hình thức tín dụng vốn được tập trung vào tay người sản xuất.

Kiểm soát giám đốc bằng đồng tiền đối với hoạt động kinh tế quốc dân: thông
qua hoạt động tiền tệ kiểm soát tính hợp lệ thông qua quan hệ vay và cho vay.
Nguyên nhân cơ bản hình thành ngân hàng thương mại:
Thứ nhất: Ngân hàng thương mại được thành lập từ những ông chủ có nguồn
vốn lớn. Họ là những người có danh tiếng và sự tin tưởng của người dân vào
chính quyền.
Thứ hai: Do vị trí quan trọng của ngân hàng trên thị trường cùng với vai trò của
nó trong việc “tạo tiền” trong nền kinh tế cũng như quản lí của chính quyền về
tài chính đối đất nước.
Chính vì các lí do nói trên, từ đó ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng hình
thành như một tất yếu trong quá trình phát triển của loài người.
1.1.1 Khái niệm
Từ sự hình thành và phát triển của ngân hàng và tín dụng ngân hàng ta có thể đưa ra
một khái niệm chung về tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng: Là mối quan hệ tín dụng của ngân hàng với các chủ thể còn
lại trong nền kinh tế trong đó ngân hàng vừa là người đi vay và vừa là người cho
vay bằng tiền. Như vậy chủ thể trong quan hệ này một bên là ngân hàng hoặc là các tổ
chức tương tự như ngân hàng (quĩ tín dụng nhân dân) nhưng đều là hoạt động dưới
hình thức huy động vốn cho vay với nền kinh tế. Điều khác biệt của tín dụng ngân
hàng đối với tín dụng thương mại đó là cho vay bằng tiền.
Về mặt ưu điểm thì tín dụng ngân hàng khắc phục gần hết nhược điểm của tín dụng
thương mại, như chiều vận động thì tiền ưu điểm hơn hẳn so với chiều vận động của
hàng hóa. Hơn nữa về quy mô các ngân hàng và các tổ chức tín dụng thì quy mô là rất
lớn do hoạt động ngân hàng có thể đi vay và cho vay. Bất cứ đối tượng nào có nhu cầu
vay mà nhu cầu đó là chính đáng, hiệu quả thì ngân hàng đều đáp ứng được nhu cầu
đó. Khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng cho phép chính phủ có thể kiểm
soát với các doanh nghiệp và từ đó kiểm soát nền kinh tế.
Tuy nhiên tín dụng ngân hàng có nhược điểm so với tín dụng thương mại đó là rủi ro
trong tín dụng ngân hàng. Các rủi ro này chia ra 2 loại rủi ro trong hoạt động đi vay &
rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Rủi ro trong việc đi vay là việc khách