105
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 28+29
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH SIÊU ÂM
POLYP TÚI MẬT
Nguyễn Thị Thùy Trang1, Lê Văn Toản2, Hoàng Minh Lợi1
(1) Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh, Đại học Y Dược Huế
(2) Sinh viên Y6, Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm hình ảnh siêu âm của polyp túi mật, đối chiếu hìnhnh siêu âm với kết
quả phẫu thuật và mô bệnh học sau mổ để đánh giá giá trị chẩn đoán trong thực tiễn lâm sàng. Đối tượng
phương pháp nghiên cứu: 32 bệnh nhân (14 nam, 18 nữ, tuổi trung bình 43,5±18,5 tuổi) được chẩn
đoán lâm sàng, siêu âm polyp túi mật đã được phẫu thuật, làm bệnh học sau mổ tại Bệnh viện
Tờng Đại học Y Dược Huế. Nghiên cứu tả cắt ngang. Thời gian từ tháng 5/2014 đến tháng 3/2015.
Kết quả: Trong số 32 bệnh nhân trên 18 bệnh nhân (56,2%) kết quả giải phẫu bệnh sau mổ
viêm túi mật mạn tính, 14 bệnh nhân (43,8%) có chẩn đoán giải phẫu bệnh là các loại polyp túi mật và
u tuyến túi mật. Độ đặc hiệu của siêu âm trong chẩn đoán polyp túi mật chỉ chiếm <50% ca. Kết luận:
Siêu âm trong chẩn đoán polyp túi mật chỉ giá trị định hướng để theo dõi lâm sàng các chỉ định
tiếp theo trước khi quyết định điều trị.
Từ khóa: siêu âm túi mật, giải phẫu bệnh học, polyp túi mật.
Abstract
SONOGRAPHIC CHARACTERISTIC OF GALLBLADDER POLYPS
Nguyen Thi Thuy Trang1, Le Van Toan2, Hoang Minh Loi1
(1) Department of Radiology, Hue University of Medicine and Pharmacy
(2) Student, Hue University of Medicine and Pharmacy
Objective: To evaluate ultrasound characteristic imaging of gallbladder polyps. And to compare
ultrasound imaging with the results of surgery and histopathology for positive diagnosis of gallbladder
polyps. Subjects and methods: Study on 32 patients (14 male and 18 female, mean age 43.5±18.5 years)
with clinical suggestion, ultrasound imaging of gallbladder polyp, and surgery -histopathology positive
diagnosis. Cross-sectional descriptive study, from 5/2014 to 3/2015 at Hue Univercity of Medical
and Pharmacy Hospital. Results: Among of 32 patients, 18 patients (56.2%) had results postoperative
histopathology of chronic cholecystitis, 14 patients (43.8%) was the type of polyps and adenoma. Thus
the specificitive of ultrasound in diagnosis of gallbladder polyps was 43.75% only. Conclusion: The
role of ultrasound in diagnosis of gallbladder polyps is the firstscreening for the other indications and
ultimate treatment.
Key words: ultrasound imaging, histopathology, gallbladder polyps.
- Địa chỉ liên hệ: Hoàng Minh Lợi, email: anhloister@gmail.com
- Ngày nhận bài: 13/7/2015 * Ngày đồng ý đăng: 6/8/2015 * Ngày xuất bản: 12/11/2015
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Polyp túi mật bệnh lý chỉ chiếm khoảng 5%
dân số, thay đổi từ 1,3 đến 6,9% hiện diện trong
0,004 đến 13,8% bệnh phẩm túi mật [4]. Tổn
thương dạng polyp của túi mật được tả tổn
thương nhô cao từ niêm mạc vào lòng túi mật.
DOI: 10.34071/jmp.2015.4+5.14
106
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 28+29
Bản chất của polyp thể là u hoặc dạng u, được
hình thành do ứ đọng cholesterol, do viêm túi mật,
do tăng sinh niêm mạc và cũng có thể do ung thư.
Trong các tổn thương u, u tuyến chiếm nhiều nhất
vào khoảng 5%, trong dạng u polyp cholesterol
chiếm khoảng 50 – 90% [5].
Triệu chứng lâm sàng của polyp thường không
đặc trưng, nghèo nàn thường nhầm lẫn với các
bệnh khác: đau bụng, đầy bụng, chậm tiêu hay
sốt…, đa số trường hợp không có triệu chứng [8].
Trước đây, polyp túi mật thường được phát hiện
khi có các biến chứng hoặc tình cờ trong mổ hoặc
mổ tử thi. Do đó, việc chẩn đoán xác định polyp
túi mật là khá khó khăn khi chỉ dựa trên lâm sàng,
nên hầu hết các trường hợp phải dựa vào chẩn
đoán hình ảnh. Các thuật hình ảnh như chụp
cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ mặc dù là những
thuật rất chính xác trong chẩn đoán nhưng không
được sử dụng rộng rãi để chẩn đoán polyp túi mật
vì đây là những kĩ thuật đắt tiền, gây nhiễm tia xạ,
không phải nơi nào cũng thực hiện được. Siêu âm
thuật chẩn đoán hình ảnh phổ biến, dễ thực
hiện, chi phí thấp, không xâm nhập không nguy
hại, thể thực hiện cho bệnh nhân nhiều lần với
giá trị chẩn đoán polyp túi mật là khá cao (73,3%)
[1]. Chính những do nêu trên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu đặc điểm
hình ảnh siêu âm polyp túi mậtnhằm mục tiêu:
1. Khảo sát đặc điểm siêu âm, lâm sàng của
polyp túi mật.
2. Đối chiếu hình ảnh siêu âm với kết quả phẫu
thuật và mô bệnh học sau mổ.
2. ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 32 bệnh nhân (BN) theo mẫu thuận tiện,
được chẩn đoán lâm sàng, siêu âm polyp túi mật
đã được phẫu thuật, làm giải phẫu bệnh học sau
mổ tại Bệnh viện Đại học Y Dược Huế. Từ tháng
5/2014 đến tháng 3/2015. Tại khoa Chẩn đoán hình
ảnh, khoa Ngoại Tổng hợp, khoa Giải phẫu bệnh -
Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
2.3. Phương tiện nghiên cứu
Máy siêu âm SIEMENS ACUSON X150. Các
loại đầu tần số 3,5 5 Mhz, gel dùng trong
siêu âm.
2.4. Các bước tiến hành
Bệnh nhân dự kiến sẽ được siêu âm túi mật cần
phải tránh ăn các thức ăn chất béo trong khoảng
12 đến 18 giờ trước khi khám, nên nhịn ăn uống 8
đến 12 giờ, tối thiểu là 6 giờ trước khi khám. Uống
thuốc nhuận tràng hoặc thụt tháo trước khi siêu âm
sẽ làm cho việc chẩn đoán có kết quả tốt hơn, đặc
biệt khi khảo sát các trường hợp túi mật teo.
Bệnh nhân sẽ được yêu cầu bộc lộ vùng bụng. Các
bác sĩ sẽ bôi một lớp gel ở phía bên phải của bụng,
xung quanh vị trí của túi mật. Yêu cầu bệnh nhân
phình bụng và nín thở. Động tác này tương đương
với hít vào sâu để vòm hoành hạ thấp nhằm đẩy
gan các tạng trong ổ bụng xuống dưới, nhờ đó
thể quan sát túi mật tốt hơn. Tư thế nghiêng trái
và chếch trái sau với mục đích làm cho gan và túi
mật hạ thấp xuống dưới bờ sườn theo xu thế của
trọng trường, tạo cửa sổ xuyên âm thuận lợi khi
đặt đầu dò dưới bờ sườn [3].
Để dễ dàng xác định vị trí túi mật, trước tiên
nên sử dụng các mặt cắt dọc, sau khi bộc lộ được
túi mật trên mặt cắt dọc thì thể chếch dần hướng
mặt cắt vào trong (sang trái để hướng về rốn gan)
đến khi nhận được thiết diện theo trục dài của túi
mật từ đáy đến cổ, tiếp đó bằng cách sử dụng động
tác quét hay tịnh tiến đầu để khảo sát toàn bộ
túi mật từ thành trong ra thành ngoài. Từ hướng
mặt cắt dọc trục, người khám xoay đầu một
góc 90 độ để nhận được mặt cắt theo trục ngang
của túi mật.
thể sử dụng mặt cắt dưới sườn phải để
cái nhìn túi mật giường túi mật nhu gan
xung quanh. Khảo sát ống túi mật đòi hỏi kỹ năng
kinh nghiệm của người khám do đường đi của
ống túi mật không hướng nhất định khẩu
kính ống túi mật lại nhỏ. Thông thường đặt đầu
kẽ sườn hướng mặt phẳng cắt theo trục
dài của túi mật, tiếp đó bắt đầu từ cổ túi mật, lách
đầu dò dần theo đường ra của ống túi mật cho đến
vị trí hợp dòng, cũng thể khảo sát từ mặt cắt
sườn [3].
107
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 28+29
Đặc điểm hình ảnh siêu âm
Xác định số lượng polyp túi mật (đơn hay đa
polyp).
Đo kích thước polyp trên siêu âm tính bằng
mm. Đa polyp thì polyp kích thước lớn nhất
được đo đường kính.
Xác định vị trí của polyp: cổ, thân, đáy túi mật.
Xác định tính chất hồi âm (tăng âm hay đồng
âm) của polyp so với thành túi mật.
Xác định sỏi túi mật kèm theo, số lượng, kích
thước của sỏi.
Đo độ dày thành túi mật.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm siêu âm polyp túi mật
Bảng 3.1. Tỷ lệ bệnh nhân theo số polyp Bảng 3.2. Tính chất hồi âm của polyp
Số lượng polyp NTỉ lệ (%) Tính chất hồi âm NTỉ lệ (%)
1 15 46,9 Đồng âm 21 65,6
≥2 17 53,1 Tăng âm 11 34,4
Tổng số 32 100 Tổng số 32 100
Bảng 3.3. Phân loại polyp theo kích thước Bảng 3.4. Phân loại polyp theo vị trí
Kích thước polyp túi mật
(mm) NTỉ lệ (%) Vị trí polyp NTỉ lệ (%)
<5 11 34,4 Đáy 412,5
5 - <10 20 62,5 Thân 25 78,1
≥10 13,1 Cổ 39,4
Tổng số 32 100 Tổng số 32 100
Bảng 3.5. Phân loại theo độ dày thành túi mật Bảng 3.6. Tỷ lệ có sỏi túi mật kèm theo
Độ dày thành túi mật
(mm) NTỉ lệ (%) Siêu âm NTỉ lệ (%)
≤3 32 100 Không có sỏi 31 96,9
>3 0 0 Có sỏi 13,1
Tổng số 32 100 Tổng số 32 100
3.2. Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ
Bảng 3.7. Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ
Dạng tổn thương NTỉ lệ (%)
Polyp cholesterol 721,9
Polyp tuyến 39,4
Polyp viêm 13,1
U tuyến túi mật 13,1
Polyp cholesterol + sỏi 13,1
Polyp tăng sản 13,1
Viêm túi mật mạn tính 18 56,3
Tổng số 32 100
108
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 28+29
4. BÀN LUẬN
Theo nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ đa
polyp (53,1%) nhiều hơn polyp đơn độc (46,9%).
So sánh kết quả với nghiên cứu của một số tác giả
như Nguyễn Đình Tuyến, Trần Thiện Trung với
tỉ lệ đa polyp 54,5% (30/55) và đơn polyp 45,5%
(20/55) [6]. Tuy nhiên theo Trần Văn Phơi polyp
đơn độc chiếm 52% [2]. Nghiên cứu của chúng
tôi các tác giả không sự thống nhất về kết
quả tương quan giữa polyp đơn độc đa polyp.
Theo chúng tôi, sự khác nhau này do sự khác
biệt về mẫu đánh giá, kích thước cỡ mẫu cũng như
do những giới hạn của siêu âm trong việc xác định
những polyp kích thước rất nhỏ, kinh nghiệm
của bác sĩ siêu âm.
Vị trí polyp gặp chủ yếu phần thân (78,1%),
tiếp đến đáy (12,5%), cổ túi mật (9,4%). Theo
Trần Văn Phơi 85,7% polyp nằm phần thân
túi mật, cổ chiếm 8,2%, đáy chiếm 6,1% [2].
Nghiên cứu của Dragan VT và cộng sự báo cáo
vị trí polyp chủ yếu thân (55,6%), tiếp đến
cổ (29,6%), đáy (14,8%) [10]. Nhìn chung
các nghiên cứu đều cho thấy polyp túi mật gặp
nhiều nhất phần thân túi mật. Điều này hoàn
toàn dễ hiểu do đặc điểm cấu trúc giải phẫu của
túi mật với phần thân có kích thước lớn nhất
chiếm phần lớn diện tích túi mật, trong khi phần
cổ túi mật là vị trí khó khảo sát và nếu không
thì có thể bỏ sót tổn thương.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kích thước
polyp chủ yếu nhỏ hơn 10mm (96,9%), trong
đó 62,5% trường hợp kích thước nằm trong
khoảng 5- <10mm, chỉ có 1 trường hợp polyp lớn
hơn hoặc bằng 10mm (3,1%).
So sánh kết quả với nghiên cứu của một số tác
giả như Nguyễn Đình Tuyến kích thước polyp dưới
10mm chiếm 63,2% [5], Dragan VT kích thước
polyp dưới 10mm chiếm 92,6% trong đó polyp có
kích thước từ 6-10mm chiếm 55,6% [10]. Kết quả
nghiên cứu sự khác biệt nhau giữa các tác giả.
Sở sự khác biệt đó do quan niệm của các
tác giả trong chỉ định điều trị trong đó một số tác
giả chủ trương theo dõi, không phẫu thuật đối với
các polyp kích thước nhỏ hơn 10mm. Đôi khi
cũng là do thái độ quyết định điều trị của các bệnh
nhân khác nhau dẫn tới việc khảo sát kích thước
của các mẫu nghiên cứu khác nhau.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 11/32
(34,4%) polyp tính chất tăng âm so với thành
túi mật trong đó chủ yếu polyp cholesterol khi
đối chiếu với kết quả bệnh học. Nghiên cứu
của chúng tôi kết quả tương đồng với nghiên
cứu của Mai Khắc Nhu, Đào Văn Long với 11/32
polyp tăng âm trên siêu âm polyp cholesterol [1].
Như vậy đặc điểm cấu trúc âm của polyp khác
nhau là do có liên quan đến sự khác nhau về thành
phần của chất cấu tạo nên polyp. Các chất khác
nhau có ảnh hưởng khác nhau đến sự truyền sóng
siêu âm.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% (14)
trường hợp thành túi mật dày dưới 3mm. Đối
chiếu với nghiên cứu của Nguyễn Đình Tuyến
cho thấy 94,2% (311/330) trường hợp có thành túi
mật dày dưới 3mm, chiều dày thành túi mật lớn
hơn hoặc bằng 3mm gặp trong 5,8% (19/330) [5]. Tuy
nhiên các trường hợp lớn hơn hoặc bằng 3mm
thể gặp trong các bệnh như viêm túi mật cấp/
mạn, vôi hóa túi mật, ung thư biểu mô tuyến dạng
túi mật hoặc các bệnh như viêm gan virus,
gan, viêm tụy, suy tim phải sung huyết. Trong
nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận trường
hợp bệnh túi mật nào như trên. Kết quả này
cũng phù hợp với nghiên cứu của Collet JAcác
cộng sự khi không trường hợp nào dày thành
túi mật (>3mm) được phát hiện trong các trường
hợp nghiên cứu [9].
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 1/32
trường hợp (3,1%) polyp kết hợp với sỏi. Kết
quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Đình Tuyến polyp kết hợp với sỏi kết
chiếm 7,6% (25/330) [5].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phần
lớn trường hợp được chẩn đoán trên siêu âm
polyp túi mật có kết quả mô bệnh học và viêm túi
mật mạn tính chiếm 56,3% (18/32). bệnh học
polyp cholesterol chiếm tỉ lệ 25% (8/32), tiếp
đến theo thứ tự giảm dần polyp tuyến 9,4%
(3/32), polyp viêm 3,1% (1/32), polyp tăng sản
3,1% (1/32), u tuyến 3,1% (1/32). Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi trùng với nghiên cứu của tác
109
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 28+29
giả Nguyễn Trung Tín với tỉ lệ viêm túi mật mạn
tính chiếm 54,1% (59/109) [7], Trần Văn Phơi,
Trần Phùng Dũng Tiến với viêm mạn tính túi mật
chiếm 58,3% [2]. Tuy nhiên các tác giả khác có tỉ
lệ chẩn đoán mô bệnh học polyp cao hơn hẳn như
Nguyễn Đình Tuyến, Trần Thiện Trung với tỉ lệ
polyp cholesterol là 56,9% (62/109), viêm túi mật
chỉ chiếm 10,1% (11/109) [4].
Như vậy giá trị của siêu âm trong chẩn đoán
polyp túi mật vẫn còn đang là một vấn đề chưa có
sự thống nhất, nhưng hầu hết đều kết quả không
cao đa số bệnh nhân được chẩn đoán polyp túi
mật trên siêu âm lại kết quả giải phẫu bệnh
không tương ứng (polyp cholesterol, viêm túi mật
mạn tính…). Do đó nhiều tác giả khuyến cáo rằng
siêu âm chỉ là tiêu chuẩn chỉ điểm một tổn thương
dạng polyp, nên sử dụng thêm các phương pháp
khác để chẩn đoán phân biệt giữa các tổn thương
lành tính và ác tính [7].
5. KẾT LUẬN
Siêu âm chẩn đoán polyp túi mật không độ
đặc hiệu cao, nhưng nó vẫn là kỹ thuật đầu tay đối
với các bác sĩ lâm sàng với nhiều ưu điểm: không
nhiễm tia xạ, rẻ tiền, tiện lợi, không xâm nhập, có
thể lặp lại nhiều lần và quan trọng là siêu âm kiểm
tra kích thước polyp túi mật để phương pháp
điều trị thích hợp cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Khắc Nhu, Đào Văn Long (2002), “Bước đầu
tìm hiểu giá trị của siêu âm hai chiều trong chẩn đoán
polyp túi mật có đối chiếu phẫu thuật- giải phẫu bệnh
lí”, Y học thực hành, tập 408 (2), pp. 64-66.
2. Trần Văn Phơi, Trần Phùng Dũng Tiến (2004), “Điều
trị Polyp túi mật bằng phẫu thuật nội soi”, Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, 8, pp.10-13.
3. Nguyễn Phước Bảo Quân (2013), “Đường mật, Siêu
âm bụng tổng quát”, NXB Đại học Huế, pp. 235-298.
4. Nguyễn Đình Tuyến, Trần Thiện Trung (2011),
“Thương tổn bệnh học của polyp túi mật các
yếu tố nguy cơ”, Y học Thành phố Hồ Chí Minh,
15(2), pp.82-87.
5. Nguyễn Đình Tuyến (2013), “Nghiên cứu lâm sàng,
hình ảnh siêu âm và hình thái mô bệnh học của polyp
túi mật”, Luận văn tiến y học, Trường Đại học Y
dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh.
6. Nguyễn Đình Tuyến, Trần Thiện Trung (2010), “Giá
trị siêu âm chẩn đoán polyp túi mật đối chiếu mô bệnh
học sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi”, Y học Thành
phố Hồ Chí Minh, 14 (4), pp.45-50.
7. Nguyễn Trung Tín (2006), “Giá trị của siêu âm trong
chẩn đoán các thương tổn dạng polyp của túi mật đối
chiếu với kết quả phẫu thuật học”, Y học Thành
phố Hồ Chí Minh, tập 10 phụ bản số 1.
8. Akyurek N Salman B, Irkorucu O, Tatlicioglu E
(2005), “Ultrasonography in the diagnosis of true
gallbladder polyps: the contradiction in the literature”,
HPB, 7, pp.155-158.
9. Collet JA Allan RB, et al (1998), “Gallbladder polyps:
prospective study”, J Ultrasound Med, 17, pp.207-
211.
10. Dragan VT Aleksandra R, Pavlovic M, et al (2008),
“Ultrasound diagnosis of gallbladder polyps”, ACI,
58, pp.31-35.
PHỤ LỤC
Hình 1. Đa polyp túi mật
Bệnh nhân: Trần H, 32 tuổi, nam
Vào viện vì phát hiện đa polyp phát hiện tình cờ
Hình 2. Polyp Cholesterol túi mật
Bệnh nhân: Hà Văn P, 48 tuổi, nam
Vào viện vì đau bụng hạ sườn phải