Mục lục
Danh mục các hình vẽ
Danh mục các bảng biểu
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
IV. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN
1.1 Điều kiện tự nhiên - Kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An ............................................1
1.1.1 Điều kiện tự nhiên ..............................................................................................1
1.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội ...................................................................................5
1.1.3 Tình hình thiên tai ..............................................................................................7
1.2 Tài liệu đã có về sự sẵn sàng chi trả để giảm nguy cơ lũ lụt .............................9
1.2.1 Định giá giảm nguy cơ lũ lụt ..............................................................................9
1.2.2 Sẵn sàng trả tiền cho bảo hiểm lũ lụt ...............................................................10
1.3 Rủi ro lũ lụt và quản lý lũ lụt tại Việt Nam .....................................................12
1.3.1 Nguy cơ lụt tại Việt Nam .................................................................................12
1.3.2 Quản lý lũ lụt tại Việt Nam ..............................................................................14
CHƯƠNG II
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
PHƯƠNG PHÁP LỰA CHỌN THỬ NGHIỆM RỜI RẠC
2.1. Nguyên tắc cơ bản phương pháp lựa chọn thử nghiệm rời rạc ......................17
2.1.1 Lựa chọn thử nghiệm rời rạc ............................................................................22
2.1.2 Sự bao gồm một thuộc tính chi phí ..................................................................23
2.2. Nền tảng của lựa chọn thử nghiệm rời rạc .....................................................24
2.2.1 Quy tắc quyết định ngẫu nhiên ........................................................................27
2.2.2 Lý thuyết lợi ích ngẫu nhiên ............................................................................30
2.2.3 Hàm lợi ích .......................................................................................................34
2.2.4 Mô hình hóa lựa chọn rời rạc ...........................................................................37
CHƯƠNG III
ĐÁNH GIÁ SẴN SÀNG CHI TRẢ CỦA HỘ GIA ĐÌNH
CHO GIẢM THIỆT HẠI LŨ Ở NGHỆ AN
3.1 Các câu hỏi Nghiên cứu ..................................................................................60
3.1.1 Xác định " sự giảm nguy cơ lũ lụt" tốt .............................................................60
3.1.2 WTP và các tổ chức phụ trách quản lý lũ lụt ...................................................62
3.2 Thiết kế lựa chọn thử nghiệm ..........................................................................62
3.2.1 Phát triển Bảng câu hỏi ....................................................................................62
3.2.2 Các thuộc tính cho các chương trình giảm thiểu nguy cơ lũ lụt ......................63
3.2.3 Các mô hình kinh tế và thiết kế thử nghiệm ....................................................68
3.3. Kết quả thực nghiệm ......................................................................................72
3.3.1 Lấy mẫu chiến lược ..........................................................................................72
3.3.2 Đặc điểm mẫu ..................................................................................................73
3.3.3 Lựa chọn cá nhân và phản hồi nguyên trạng....................................................77
3.3.4 Hàm lợi ích gián tiếp chi tiết ............................................................................79
3.3.5 Mô hình logit có điều kiện cơ bản ...................................................................81
3.3.6 Mô hình logit có điều kiện với các tương tác .................................................85
3.3.7 Mô hình lớp tiềm ẩn (LCM) ............................................................................90
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................95
PHỤ LỤC ..................................................................................................................97
Danh mục các hình vẽ
Hình 2.1: Một tập lựa chọn .......................................................................................23
Hình 2.2: Các nhánh của lý thuyết sự lựa chọn xác suất ..........................................26
Hình 2.3: Các nhà kinh tế đã bắt đầu nhận ra việc giải thích hành vi của con người
vượt ra ngoài những cơ sở lý thuyết truyền thống ....................................................30
Hình 2.4: Các hàm phân phối lũy tích logit và probit ...............................................40
Hình 2.5: Hàm mật độ chuẩn ....................................................................................40
Hình 2.6: Một so sánh các mô hình cấu trúc lồng nhau logit và cơ cấu đa thức ......50
Hình 3.1: Một bộ lựa chọn mẫu ................................................................................67
Danh mục các bảng biểu
Bảng 1.1: Tình hình sử dụng đất tỉnh Nghệ An (đến năm 2011): .....................................3
Bảng 1.2: Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu ..........................................................5
Bảng 1.3: Thiệt hại do thiên tai tại Việt Nam (1997-2006) ......................................13
Bảng 2.1: Mô hình được sử dụng để ước lượng các thí nghiệm lựa chọn rời rạc. ...39
Bảng 2.2: Tổng quan các mô hình đa thức................................................................47
Bảng 3.1: Các thuộc tính và mức độ sử dụng trong CE ............................................64
Bảng 3.2: Đặc điểm chính của các hộ gia đình .........................................................74
Bảng 3.3: Chi phí hàng năm cho lũ ...........................................................................76
Bảng 3.4: Tần suất của các lựa chọn cá nhân ...........................................................77
Bảng 3.5: Kết quả ước lượng mô hình logit có điều kiện cơ bản .............................82
Bảng 3.6: WTP biên (triệu đồng) cho các thuộc tính của chương trình quản lý lũ lụt
...................................................................................................................................83
Bảng 3.8: Mô hình logit có điều kiện- tương tác thu nhập .......................................86
Bảng 3.9: Mô hình logit có điều kiện - kinh nghiệm với lũ lụt trong quá khứ .........88
Bảng 3.10: Mô hình logit có điều kiện - Sự ưa thích rủi ro và thời gian ..................90
Bảng 3.11: Các tiêu chí để xác định số lượng tối ưu của các phân đoạn ..................91
Bảng 3.12: Kết quả của ước lượng LCM ..................................................................92
Danh mục từ viết tắt
WTP
CE
DCE CVM
RUM
RUT MRS MNL NL
RPL
AIC
BIC
VSL LCM Sẵn sàng chi trả (Willingness to pay) Phương pháp Lựa chọn thử nghiệm (Choice Experiment) Phương pháp Lựa chọn thử nghiệm rời rạc (Discrete Choice Experiment) Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên Mô hình lợi ích ngẫu nhiên (Random Utility Model) Lý thuyết lợi ích ngẫu nhiên (Random Utility Theory ) Tỷ lệ thay thế biên Mô hình logit đa thức (Multinomial logit) Mô hình Logit lồng nhau (Nested logit) Mô hình các thông số ngẫu nhiên (Random parameters logit model) Tiêu chuẩn thông tin Akaike (Akaike information criterion) (Tiêu chuẩn thông tin Baysian) Bayesian information criterion Giá trị của cuộc sống về mặt thống kê (Value of statistical life) Mô hình lớp tiềm ẩn (Latent class model)
MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam là một trong những nước dễ bị thiên tai nhất trên thế giới. Lũ lụt đã
gây thiệt hại lớn cho cơ sở hạ tầng, tổn thất đáng kể trong nông nghiệp và ngành
thủy sản, cũng như gây thiệt hại lớn về con người. Theo ghi nhận từ Cơ sở dữ liệu
về các sự kiện khẩn cấp của Việt Nam (Vietnam's Emergency Events Database -
EMDAT), chỉ riêng lũ lụt đã gây tác động đến 35 triệu người trong khoảng thời
gian từ năm 1960 đến 2006. Do đó, Việt Nam đang nằm trong số 15 quốc gia trên
thế giới dễ bị tổn thương nhất bởi các hiểm họa thiên nhiên như hạn hán và lũ lụt về
số lượng người chịu ảnh hưởng và về quy mô tiếp xúc với hiểm họa.
Nghệ An là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, với vị trí địa lý nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa với lượng mưa lớn, địa hình dốc nên
hàng năm Nghệ An phải gánh chịu nhiều trận lũ lụt gây thiệt hại nặng nề. Đặc biệt,
trong điều kiện biến đổi khí hậu toàn cầu, những gánh nặng gây nên do lũ lụt ngày
càng gia tăng. Vì vậy, việc xác định những tác động kinh tế của lũ lụt và đưa ra các
chính sách giảm thiểu rủi ro lũ là rất cần thiết cho việc ổn định đời sống kinh tế và
an sinh xã hội cho Việt Nam nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng.
Mặc dù lũ lụt gây tác động lên một phần lớn dân số Việt Nam, nhưng hầu như
chúng ta không có cơ sở thông tin gì về sự sẵn sàng chi trả (willingness to pay –
WTP) của các hộ gia đình cho việc giảm thiểu các rủi ro do lũ lụt. WTP cũng là một
thông tin cơ bản cần thiết cho việc đưa ra những chính sách nhà nước hiệu quả về
quản lý lũ lụt. Vì vậy tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu này với mục đích chính là
lựa chọn Nghệ An là tỉnh để thực hiện điều tra, khảo sát, sử dụng phương pháp Lựa
chọn thử nghiệm (Choice Experiment - CE) hay còn gọi Lựa chọn thử nghiệm rời
rạc (Discrete Choice Experiment - DCE) và các mô hình kinh tế lượng để ước
lượng và đánh giá WTP của các hộ gia đình.
II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu sử dụng phương pháp lựa chọn thử nghiệm
(CE) kết hợp các mô hình kinh tế lượng, đánh giá các thiệt hại kinh tế gây ra do lũ
lụt và ước lượng sự sẵn sàng chi trả (WTP) của các hộ gia đình cho việc giảm thiểu
các rủi ro lũ lụt, khả năng chấp nhận rủi ro lũ lụt của cộng đồng với khu vực điều tra
khảo sát là tỉnh Nghệ An, từ đó làm cơ sở đề xuất các phương án có thể áp dụng
trong việc quản lý lũ lụt ở Việt Nam.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu phương pháp lựa chọn thử nghiệm, áp dụng
vào điều tra khảo sát tại tỉnh Nghệ An.
IV. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: các tác động kinh tế của lũ lụt gây ra cho các hộ gia
đình, một quan sát cụ thể ở Nghệ An.
Nghiên cứu lý thuyết, sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê và thu thập tài
liệu thực tế để phân tích.
1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN
1.1 Điều kiện tự nhiên - Kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Nghệ An nằm ở trung tâm khu vực Bắc Trung Bộ, đất rộng, người đông. Với diện tích 16.490,25 km2, lớn nhất cả nước; dân số hơn 2,9 triệu người, đứng thứ
tư cả nước; là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh; hội tụ đầy đủ các tuyến giao
thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển, đường thuỷ nội địa;
điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng như một Việt Nam thu nhỏ...
Bản đồ hành chính tỉnh Nghệ An
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Nghệ An nằm ở vĩ độ 180o 33' đến 200o 01' vĩ độ Bắc, kinh độ 1030 52' đến 105o
48' kinh độ Đông, ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ. Nghệ An là tỉnh nằm ở trung
2
tâm vùng Bắc Trung bộ, giáp tỉnh Thanh Hóa ở phía Bắc, tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam,
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ở phía Tây với 419 km đường biên giới trên
bộ; bờ biển ở phía Đông dài 82 km. Vị trí này tạo cho Nghệ An có vai trò quan
trọng trong mối giao lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển kinh tế
biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế. Nghệ An nằm trên các tuyến
đường quốc lộ Bắc - Nam (tuyến quốc lộ 1A dài 91 km đi qua các huyện Quỳnh Lưu,
Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và thành phố Vinh, đường Hồ Chí Minh chạy
song song với quốc lộ 1A dài 132 km đi qua các huyện Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn,
Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh Chương và thị xã Thái Hoà, quốc lộ 15 ở phía Tây dài 149
km chạy xuyên suốt tỉnh); các tuyến quốc lộ chạy từ phía Đông lên phía Tây, nối với
nước bạn Lào thông qua các cửa khẩu (quốc lộ 7 dài 225 km, quốc lộ 46 dài 90 km,
quốc lộ 48 dài trên 160 km). Tỉnh có tuyến đường sắt Bắc - Nam dài 94 km chạy qua.
1.1.1.2. Đặc điểm địa hình
Nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, Nghệ An có địa hình đa dạng, phức tạp, bị chia
cắt mạnh bởi các dãy đồi núi và hệ thống sông, suối. Về tổng thể, địa hình nghiêng theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam, với ba vùng sinh thái rõ rệt: miền núi, trung du, đồng
bằng ven biển. Trong đó, miền núi chiếm tới 83% diện tích lãnh thổ. Địa hình có độ dốc lớn, đất có độ dốc lớn hơn 8o chiếm gần 80% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, đặc biệt có trên 38% diện tích đất có độ dốc lớn hơn 25o. Nơi cao nhất là đỉnh Pulaileng
(2.711m) ở huyện Kỳ Sơn, thấp nhất là vùng đồng bằng các huyện Quỳnh Lưu, Diễn
Châu, Yên Thành, có nơi chỉ cao 0,2 m so với mặt nước biển (xã Quỳnh Thanh,
Quỳnh Lưu). Đặc điểm địa hình trên là một trở ngại lớn cho việc phát triển mạng lưới
giao thông đường bộ, đặc biệt là các tuyến giao thông vùng trung du và miền núi, gây
khó khăn cho phát triển lâm nghiệp và bảo vệ đất đai khỏi bị xói mòn, gây lũ lụt cho
nhiều vùng trong tỉnh. Tuy nhiên, hệ thống sông ngòi có độ dốc lớn, với 117 thác lớn,
nhỏ là tiềm năng lớn có thể khai thác để phát triển thuỷ điện và điều hoà nguồn nước
phục vụ sản xuất và dân sinh.
3
1.1.1.3. Đất đai - Thổ nhưỡng:
a. Diện tích:
Nghệ An có diện tích tự nhiên là 16.490,25 km2. Hơn 80% diện tích là vùng
đồi núi nằm ở phía tây gồm 10 huyện, và 1 thị xã; Phía đông là phần diện tích đồng
bằng và duyên hải ven biển gồm 7 huyện, 1 thị xã và thành phố Vinh.
b. Tình hình sử dụng đất (đến năm 2011):
Bảng 1.1: Tình hình sử dụng đất tỉnh Nghệ An (đến năm 2011):
TT Loại đất Diện tích Tỷ lệ
(ha)
Tổng diện tích tự nhiên 1.649.025 100%
1 Diện tích đất nông nghiệp 1.238.315,48 75,09%
- Đất sản xuất nông nghiệp 256.843,90 15,57%
- Đất lâm nghiệp có rừng 972.910,52 58,99%
- Đất nuôi trồng thủy sản 7.457,50 0,45%
- Đất làm muối 837,98 0,05%
- Đất nông nghiệp khác 265,58 0,02%
2 Diện tích đất phi nông 124.652,12 7,56%
nghiệp
- Đất ở 19.818,98 1,2%
- Đất chuyên dùng 63.871,46 3,87%
- Đất tôn giáo, tín ngưỡng 354,74 0,02%
- Đất nghĩa trang, nghĩa địa 6.636,24 0,4%
- Đất sông suối và mặt 33.818,36 2,05%
nước chuyên dùng
- Đất phi nông nghiệp khác 153,16 0,009
3 Diện tích đất chưa sử 286.056,40 17,35%
dụng
4
- Diện tích Đất đồng bằng 10.768,06 0,65%
chưa sử dụng
- Đất đồi núi chưa sử dụng 264.702,13 16,05%
- Núi đá không có rừng cây 10.586,21 0,64%
1.1.1.4. Khí hậu, thuỷ văn
Nghệ An nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh và chia làm hai
mùa rõ rệt: mùa hạ nóng, ẩm, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa.
a. Khí hậu:
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu sự tác động trực tiếp của gió
mùa Tây - Nam khô và nóng (từ tháng 4 đến tháng 8) và gió mùa Đông Bắc lạnh,
ẩm ướt (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau).
Là tỉnh có diện tích rộng, có đủ các dạng địa hình: miền núi, trung du, đồng
bằng và ven biển nên khí hậu tỉnh Nghệ An đa dạng, đồng thời có sự phân hoá theo
không gian và biến động theo thời gian. Nghệ An là một tỉnh chịu ảnh hưởng của
bão và áp thấp nhiệt đới. Trung bình mỗi năm có 2 - 3 cơn bão, thường tập trung
vào tháng 8 và 10 và có khi gây ra lũ lụt.
b. Thuỷ văn:
Tỉnh Nghệ An có 7 lưu vực sông (có cửa riêng biệt), tuy nhiên 6 trong số này
là các sông ngắn ven biển có chiều dài dưới 50 km, duy nhất có sông Cả với lưu vực 15.346 km2, chiều dài 361 km. Địa hình núi thấp và gò đồi chiếm tỷ trọng lớn
nên mạng lưới sông suối trong khu vực khá phát triển với mật độ trung bình đạt 0,62 km/km2 nhưng phân bố không đều trong toàn vùng. Vùng núi có độ dốc địa hình lớn, chia cắt mạnh, mạng lưới sông suối phát triển mạnh trên 1 km/km2, còn
đối với khu vực trung du địa hình gò đồi nên mạng lưới sông suối kém phát triển, trung bình đạt dưới 0,5 km/km2. Tuy sông ngòi nhiều, lượng nước khá dồi dào
5
nhưng lưu vực sông nhỏ, điều kiện địa hình dốc nên việc khai thác sử dụng nguồn
nước sông cho sản xuất và đời sống gặp nhiều khó khăn.
1.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An được thể hiện tóm tắt thông qua các
chỉ tiêu chủ yếu trong bảng 1.2
Bảng 1.2: Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu
Thực hiện 2006 - 2011
Tên chỉ tiêu
ĐVT
TH 2006
TH 2007
TH 2008
TH 2009
TH 2010
TH 2011
19.941 23.178 30.548 35.117 41.430 49.759
I Chỉ tiêu kinh tế 1 Tổng GDP theo giá
Tỷ đồng
6.590
7.191
9.453 10.699 11.794 13.466
hiện hành Nông, lâm, ngư
Tỷ đồng
6.052
7.416
9.791 11.262 13.855 17.346
nghiệp Công nghiệp - xây dựng
Tỷ đồng
Dịch vụ
7.299
8.571 11.304 13.156 15.781 18.946
100
100
100
100
100
100
Tỷ đồng %
33,05
31,02
30,94
30,47
28,47
27,06
%
30,35
32,00
32,05
32,07
33,44
34,86
%
36,60
36,98
37,00
37,46
38,09
38,08
%
2 Cơ cấu kinh tế Nông, lâm, ngư nghiệp Công nghiệp - Xây dựng Dịch vụ
3
6,51
7,47
9,86
12,06
14,16
16,9
GDP bình quân đầu người
Triệu đồng
Giá trị xuất khẩu
145.5
185
235
220
300
222
80,98 117,88 209,24
115
200
138
Kim ngạch NK hàng hoá
Thu NS trên địa bàn
2.128,5 2.386,6 3.103,8 3.753,59
5.000
6.304
Triệu USD Triệu USD Tỷ đồng
4.270
5.250 6.468,3
7.294,6
7.581
9.354
Tổng chi ngân sách
Tỷ
6
4 Vốn đầu tư
75.000-76.000
II Chỉ tiêu xã hội
1
Dân số trung bình
3.064
3.101
3.123
2.913
2.925
2.942
đồng Tỷ đồng 1000 người
1,19
1,16
1,13
1,08
1
1,1
%
Tăng dân số tự nhiên
%
Mức giảm tỷ lệ sinh
0,4
0,6
0,5
0,5
0,5
0,5
1000
2
31
32,2
32,7
32
34
LĐ được giải quyết việc làm bình quân hàng năm
người
3
32,5
36
36,5
38,5
40
%
Tỷ lệ LĐ qua đào tạo trong tổng số lao động
18,4
21,3
24
26,8
30
%
Tỷ lệ LĐ qua đào tạo nghề
4 Giảm tỷ lệ hộ đói
Giảm bình quân 2,5%/năm
nghèo
26
25
17,3
14,7
12
% %
Trường
19,02
25,72
29,81
35,09
40,94
%
Tỷ lệ hộ đói nghèo 5 Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia 6 Tỷ lệ giáo viên đạt
96
96,5
98,5
100
100
chuẩn
%
26,1
24,8
23,5
21,7
20
7 Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
3,8
3,9
4,37
5,23
5,9
BS
8 Số bác sĩ/ vạn dân
9
%
67,23
69,12
81,2
88,1
89-90
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sỹ
10 Tỷ lệ đạt chuẩn quốc
%
33,5
45,8
57,3
68,3
74-75
gia về y tế
Giường
11 Số giường bệnh/ vạn
13,1
13,3
13,5
15,8
17,16
dân
%
72,61
72,63
76
78
80
12 Tỷ lệ hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa
7
13
%
32
33
37
45
47
Tỷ lệ làng bản, khối xóm, cơ quan văn hóa
%
15
19,3
27,3
37,4
48-50
%
%
%
14 Tỷ lệ xã, phường thị trấn có thiết chế 15 Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị 16 Tỷ lệ đô thị hóa III Môi trường 1 Tỷ lệ che phủ rừng
4,24 - 48
4,21 - 49
4,9 12,6 51,2
3,55 13,1 53
4,6 - 50
2
%
72
74
78
79,5
85
Tỷ lệ dân nông thôn dùng nước hợp vệ sinh
%
75
76
80
87
78
3 Tỷ lệ dân thành thị dùng nước sạch
%
74
75
80
82
78
4 Tỷ lệ thu gom chất thải rắn ở đô thị
(Nguồn: Dữ liệu cơ bản về môi trường đầu tư tỉnh Nghệ An 2011
Niên Giám thống kê tỉnh Nghệ An 2011)
1.1.3 Tình hình thiên tai
Tỉnh Nghệ An nằm chủ yếu trong lưu vực sông Cả, thường xuyên chịu ảnh
hưởng của nhiều loại hình thiên tai đặc trưng cho khu vục duyên hải Miền Trung
như: Bão, áp thấp nhiệt đới (ATNĐ), lũ lụt, hạn hán, lốc tố, dông sét, sạt lở đất, xói
lở bờ sông và bờ biển, cháy rừng, xâm nhập mặn, triều cường…Trong đó ảnh
hưởng và gây thiệt hại nhiều nhất là bão, ATNĐ và lũ lụt. Bão thường xảy ra ở
khu vực đồng bằng ven biển và lũ lụt thường xảy ra chủ yếu ở các huyện đồng
bằng trung du và khu vực miền núi. Theo số liệu thống kê từ năm 1990 đến năm
2010 lưu vực sông Cả đã hứng chịu 34 trận bão đổ bộ trực tiếp, trung bình mỗi năm
hứng chịu từ 1 – 1,5 cơn bão, tốc độ gió do bão gây ra đạt tới cấp 9 ÷ 10 khi giật lên
đến cấp 12. Bão thường đổ bộ vào lưu vực sông Cả từ cuối tháng IX, X và đầu
tháng XI. Tốc độ gió lớn nhất đã quan trắc được tại Tương Dương 25 m/s hướng tây
- bắc (1975), tại Quỳ Châu lớn hơn 20 m/s hướng tây - bắc năm 1973, tại Đô
8
Lương 28 m/s hướng đông - đông - bắc (1965). Về lũ lụt trong 21 năm đã có 29 đợt
lũ lớn gây thiệt hại nhiều về người và tài sản, số liệu quan trắc mực nước lũ trong
vòng 40 năm trở lại đây cho thấy trên lưu vực các trận lũ lớn xảy ra ở dòng chính
sông Cả là trận lũ 1954, 1963, 1973, 1978, 1988, 2007, 2010 trung bình cứ 9 10
năm lại xuất hiện những trận lũ lớn. Một số năm đã gây ra hiện tượng vỡ đê như
trận lũ năm 1954, 1978, 1988 và 1996. Đặc biệt trận lũ năm 1954, rất nhiều đoạn đê
bị vỡ (từ Nam đàn ra đến biển) với lượng nước lũ từ sông chảy vào đồng kéo dài 16
ngày liền. Tổng thiệt hại do bão lũ trong 21 năm 1990 đến 2010 khoảng hơn 3,300
tỷ đồng.
Trong năm 2007 có 7 cơn bão hoạt động trên biển Đông, có 4 cơn bão đổ bộ
vào Việt Nam, trong đó có 2 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến Nghệ An là cơn bão
số 2 và số 5. Bão đổ bộ đã gây mưa to đến rất to và lũ lớn trên các song. Bão lũ năm
2007 đã gây ra thiệt nhiều thiệt hại năng nề cho nhân dân trong vùng, tổng số người
chết 38 người, ước tính thiệt hại khoảng gần 900 tỷ đồng.
Trong năm 2010 do ảnh hưởng của cơn bão số 3 đã gây ra gây mưa to đến rất
to, lượng mưa phổ biến trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ 100 đến 300mm, một số nơi
mưa trên 300mm như Vinh 406mm; cửa Hội 357mm; Đô Lương 302mm; Nam Đàn
355 mm. Ngoài ra trong năm cũng xảy ra nhiều đợt lũ lớn trên các sông gây ra
nhiều thiệt hại lớn, tổng số tiền thiệt hại trong năm 2010 do bão lũ gây ra ước tính
hơn 2,700 tỷ đồng.
Năm 2011, bão số 2, bão số 3 và các trận mưa lũ ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh
Nghệ gây thiệt hại nặng nề, ước tính khoảng gần 2000 tỷ đồng, làm chết hơn 10
người.
Tình hình thiệt hai do thiên tai gây ra đang có xu hướng ngày càng tăng trong
những năm gần đây . Thiệt hại nặng nề nhất vào năm 2010, tổng giá trị thiệt hại
khoảng 2,920 tỷ đồng. Điều kiện thời tiết, khí hậu có nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường; hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cảnh báo dự báo chưa đáp ứng được
yêu cầu; sự phát triển của nền kinh tế trong vùng là những nguyên nhân làm gia
tăng mức độ thiệt hại do thiên tai gây nên
9
1.2 Tài liệu đã có về sự sẵn sàng chi trả để giảm nguy cơ lũ lụt
Một số vấn đề có liên quan khi đánh giá các WTP để giảm nguy cơ lũ lụt.
Chúng bao gồm các đặc tính quan trọng đặc biệt xác định của các biện pháp phòng,
chống lũ lụt, đo lường tác động của yếu tố kinh tế xã hội trong sở thích cộng đồng
cho các chương trình quản lý lũ lụt, thiết kế bảo hiểm lũ lụt để giảm rủi ro lũ lụt cho
các hộ gia đình và đánh giá nhu cầu bảo hiểm thảm họa thiên nhiên.
1.2.1 Định giá giảm nguy cơ lũ lụt
Zhai và đồng nghiệp (2006) đã kiểm tra WTP để giảm nguy cơ lũ lụt ở Nhật
Bản bằng cách sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM). Về các sở thích
chung cho các biện pháp kiểm soát lũ, các WTP cho các biện pháp kiểm soát lũ phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Zhai (2006) chỉ ra cụ thể rằng WTP cho các biện pháp kiểm
soát lũ lụt thì tăng theo thu nhập bình quân đầu người, sự sẵn sang đối phó của cá
nhân hoặc kinh nghiệm với lũ lụt. Tuy nhiên giảm theo khoảng cách đến các dòng
sông gần nhất, mức độ chấp nhận rủi ro lũ lụt và sự cung cấp các thông tin về môi
trường. Họ cũng nhận thấy rằng nhận thức về nguy cơ (2006) cuối cùng đã báo cáo
rằng WTP giảm thêm nguy cơ lũ lụt vượt quá mức hiện nay là vô hiệu.
Phương pháp CVM cũng được sử dụng bởi Brouwer (2009) để ước lượng
WTP cho việc giảm nguy cơ lũ lụt ở Bangladesh. Một mối quan hệ đáng kể đã được
tìm thấy giữa WTP và khoảng cách gần nhất tới sông, thiệt hại lũ lụt hàng năm và
thu nhập hộ gia đình. Brouwer (2009) cũng nhấn mạnh rằng việc thực hiện phương
pháp CVM trong một nước đang phát triển đặt ra một số vấn đề quan trọng về
phương pháp luận và thực nghiệm. Họ đề cập cụ thể rằng một nửa số người trả lời
của họ không thể đóng góp vào các chương trình đề xuất về tiền tệ, nhưng sẵn sàng
đóng góp bằng hiện vật.
Zhai (2007) đã lựa chọn một phương pháp lựa chọn thử nghiệm rời rạc
(Discrete Choice Experiment –DCE) khi làm việc về các biện pháp phòng chống lũ
lụt trong lưu vực sông Shonai-Toki (miền Trung Nhật Bản). Trong khi các tài liệu
hiện có đã tập trung vào sở thích của công chúng đối với công tác phòng chống lũ
10
lụt nói chung, nghiên cứu của họ đã tập trung vào WTP cho một số biện pháp cụ thể
như giảm lũ bên ngoài, giảm lũ lụt nội bộ, hệ thống cảnh báo sớm và bảo vệ môi
trường. Về ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội vào sở thích của công chúng,
họ thấy rằng thu nhập hộ gia đình hàng năm, kinh nghiệm lũ lụt, giới tính và
khoảng cách đến một con sông có ý nghĩa thống kê.
1.2.2 Sẵn sàng trả tiền cho bảo hiểm lũ lụt
Phương pháp DCE đã được sử dụng để đánh giá sự sẵn sàng trả cho các hàng
hoá công cộng phi thị trường và hàng hóa môi trường. Một số tài liệu đã thực hiện
các phương pháp để đánh giá WTP cho bảo hiểm lũ lụt. Điều này cung cấp và gián
tiếp đo lường các sự ưu tiên nguy cơ lũ lụt của hộ gia đình.
Botzen và van den Bergh (2009b) đã sử dụng một phương pháp mô hình hóa
DCE để kiểm tra tác động của biến đổi khí hậu và sẵn sàng bồi thường của chính
phủ đến nhu cầu bảo hiểm lũ lụt của chủ hộ ở Hà Lan. Sử dụng một logit hỗn hợp,
họ ước tính sự phụ thuộc giữa WTP và nhận thức trước nguy cơ, đo lường rủi ro
thực tế, lo ngại rủi ro, và đặc điểm kinh tế xã hội. Phát hiện của họ cho thấy khả
năng để các chủ nhà mua một bảo hiểm lũ lụt giảm đáng kể nếu biến đổi khí hậu
dẫn đến sự gia tăng trong xác suất lũ lụt và nếu doanh nghiệp bảo hiểm điều chỉnh
phí bảo hiểm rủi ro tùy theo rủi ro này.
Trong nhiều trường hợp, trước khi thiết lập một chương trình bảo hiểm, các
doanh nghiệp bảo hiểm có thể không biết liệu phí bảo hiểm có vượt quá sẵn sàng
chi trả của hộ gia đình cho các chương trình bảo hiểm thiên tai hay không. Một số
chương trình bảo hiểm thiên tai có thể yêu cầu các hộ gia đình thực hiện một số
biện pháp có thể giảm thiểu thiệt hại. Botzen và van den Bergh (2009b) kiểm tra
làm thế nào các chủ hộ ở Hà Lan có thể được khuyến khích thực hiện một số biện
pháp phòng ngừa để giảm thiểu thiệt hại lũ lụt, trao đổi việc giảm phí bảo hiểm lũ
lụt. Kết quả của họ chỉ ra rằng nhiều chủ hộ sẵn sàng đầu tư trong việc giảm thiểu.
Họ nhận thấy rằng hai phần ba trong số họ sẵn sàng đầu tư vào các vật chắn nước
để đổi lấy việc giảm phí bảo hiểm. Khoảng 1/5 sẵn sàng thay thế các loại sàn dễ bị
11
hỏng do lũ lụt với các loại nước sàn chống nước và khoảng một phần tư sẵn sàng di
chuyển hệ thống sưởi ấm để sàn nhà an toàn chống lại lũ lụt.
Các hộ gia đình thường thấy khó khăn để điều chỉnh các bất định, đặc biệt là
trong trường hợp các sự kiện thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu. Các biện pháp
thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu khi đó có thể là không đủ và
các thỏa thuận bảo hiểm có thể có một vai trò hữu ích để giảm sự bất định liên quan
đến tác động của biến đổi khí hậu. Botzen và van den Bergh (2009a) đã kiểm tra
nhu cầu về các thỏa thuận bảo hiểm. Cụ thể hơn, ông đề xuất ước lượng WTP cho
bảo hiểm lũ lụt ở Hà Lan bằng cách sử dụng lý thuyết lợi ích phụ thuộc vào cấp bậc
và khách hàng tiềm năng theo các kịch bản biến đổi khí hậu khác nhau. Ước lượng
của họ về phí bảo hiểm rủi ro cho ba kịch bản khí hậu chỉ ra rằng WTP cho bảo
hiểm tăng hơn so với giá trị dự kiến của phí bảo hiểm khi xác suất lũ lụt tăng lên.
Kết quả ước lượng của họ hàm ý rằng một thị trường bảo hiểm lũ lụt có lợi nhuận
nên có tính khả thi và biến đổi khí hậu có tiềm năng để tăng lợi nhuận của bảo hiểm
lũ lụt.
Biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ gây ra sự gia tăng về độ lớn và tần suất của các sự
kiện thời tiết khắc nghiệt. Một trong những cách đề nghị để giảm thiểu hậu quả của
lũ lụt, hạn hán và bão ở các nước đang phát triển là thông qua việc sử dụng các
chương trình bảo hiểm vi mô. Tuy nhiên, trong các nước đang phát triển dễ bị lũ lụt,
bảo hiểm vi mô cho những rủi ro liên quan đến thiên tai vẫn còn hầu như chưa có.
Brouwer và Akter (2010) ước tính WTP của hộ gia đình nông thôn trong năm huyện
dễ có nguy cơ khác nhau ở Bangladesh cho các chính sách bảo hiểm vi mô khác
nhau nhằm giảm chi phí của lũ lụt cho các hộ gia đình. Sử dụng một cách tiếp cận
DCE, họ kiểm tra các điều kiện theo đó hộ gia đình nông thôn ủng hộ bảo hiểm lũ
lụt vi mô để bảo vệ mình chống lại các tác động tiêu cực của lũ lụt thảm khốc, và họ
cung cấp một số dấu hiệu cho thấy nhu cầu hộ gia đình nông thôn đối với các loại
bảo hiểm lũ lụt khác nhau.
Việc ước lượng nhu cầu thị trường bảo hiểm lũ lụt gặp khó khăn do tính thích
rủi ro của các hộ gia đình khác nhau rất lớn. Trong một mô hình tối đa hóa lợi ích
12
kỳ vọng, Petrolia và Coble (2011) xem xét các yếu tố kinh tế vi mô ảnh hưởng đến
nhu cầu bảo hiểm lũ lụt bằng cách kết hợp dữ liệu cấp độ hộ gia đình đăng ký bảo
hiểm lũ lụt với các đo lường sự thích rủi ro của hộ gia đình và nhận thức rủi ro chủ
quan. Các dữ liệu chỉ ra rằng kinh nghiệm với các sự kiện lũ lụt trước đây làm tăng
khả năng tổ chức bảo hiểm lũ lụt. Các công ty bảo hiểm uy tín cũng có một ảnh
hưởng tích cực về xác suất của việc tổ chức bảo hiểm lũ lụt. Các kết quả được cung
cấp bằng chứng thực nghiệm để hỗ trợ các mô hình ra quyết định theo rủi ro cho
thấy rằng xác suất và cường độ của tổn thất là yếu tố quyết định quan trọng của các
hành vi theo những rủi ro
1.3 Rủi ro lũ lụt và quản lý lũ lụt tại Việt Nam
1.3.1 Nguy cơ lụt tại Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia với 3.230 km bờ biển, đất nước có một lịch sử lâu
dài đối phó với các thảm họa tự nhiên như mực nước biển dâng do bão, lũ quét, sạt
lở đất, bão, hạn hán và xâm nhập mặn. So với nhiều cộng đồng ven biển, lũ lụt đã
luôn luôn là một phần của lịch sử Việt Nam. Ở một số khu vực như các tỉnh miền
Trung, lũ lụt xuất hiện với cường độ ngày càng tăng. Thiệt hại lũ lụt dự kiến sẽ
ngày càng nghiệm trọng thêm bởi sự gia tăng lượng mưa hàng ngày khoảng 12-19%
vào năm 2070 tại một số khu vực, ảnh hưởng đến cả lưu lượng đỉnh lũ và chu kỳ
xuất hiện lũ. Định hình khung cảnh nhân khẩu học và kinh tế, lũ lụt đã buộc người
dân phải điều chỉnh lối sống của mình. Thật không may, nhiều cơn bão và mưa to
thường gây thiệt hại lớn đến nền kinh tế và con người ở Việt Nam. Một ví dụ là
năm 2005, năm xảy ra cơn bão Katrina. Trong năm 2005, nhiều cơn bão lớn đánh
vào bờ biển Việt Nam. Cơn bão số bảy, được đặt tên quốc tế là Damrey, tạo ra sóng
cao 4 mét, làm vỡ và sạt lở hơn 50 km đê biển và làm hỏng 130.000 ha lúa (Mai và
đồng nghiệp, 2009.). Tổng thiệt hại vật chất ước tính gần 3.500 tỷ đồng. Gần đây
hơn, trong năm 2011, cơn bão Ketsana đổ vào miền Trung Việt Nam vào ngày 29
Tháng Chín, giết chết 170 người và làm bị thương 860 người khác. Trên 21.000
ngôi nhà đã bị phá hủy hoàn toàn, buộc 356.000 người phải sơ tán. Ngoài ra, an
13
ninh lương thực bị đe dọa vì 39.000 tấn gạo đã bị hủy hoại hoàn toàn. Bảng 1.3 báo
cáo một số số liệu thống kê cho các thiệt hại liên quan đến lũ lụt trong giai đoạn
1997-2006.
Bảng 1.3: Thiệt hại do thiên tai tại Việt Nam (1997-2006)
Năm Người chết Nhà bị phá hủy Thiệt hại trồng lúa (1000 ha) Giá trị thiệt hại (Tỷ đồng)
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 941 485 824 762 604 355 180 340 377 339 111.037 13.495 52.585 12.253 10.503 9.098 4.487 1.192 7.585 74.783 746 239 250 798 217 90 257 460 665 285 7.730 1.767 4.550 5.098 3.370 1.958 1.574 1.004 5.809 18.556
51.416 Tổng 5.207 4.007
297.018 (Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
Ở Việt Nam, hầu hết dân số (70%) sống ở các vùng ven biển để tận dụng lợi
thế của các hoạt động kinh tế được tạo ra trong vùng đồng bằng ngập lũ, đa số nằm
ở đồng bằng sông Hồng ở phía bắc và ở đồng bằng sông Cửu Long phía nam. Dân
cư dọc bờ biển là đặc biệt dễ bị tổn thương trước bão và lũ lụt khi người dân thường
sống ở độ cao 1 mét so với mực nước biển trong khu vực (Mai, 2009). Mức độ tiếp
xúc cao này gia tăng trong những năm gần đây như là một kết quả của tăng trưởng
kinh tế nhanh chóng đã làm tăng nhanh mật độ dân số ở hai vùng đồng bằng được
đề cập ở trên. Người Việt Nam sinh sống ở miền núi (30%) cũng dễ bị tổn thương
với thảm họa lũ lụt. Do độ dốc của đất, lòng sông có thể dễ dàng lấp đầy bởi những
cơn mưa gió mùa và do đó thường xuyên dẫn đến lũ quét. Điều này giải thích lý do
tại sao lũ dẫn đến một số lượng đáng kể người chết và bị thương trong quá khứ.
Lũ lụt để lại những hậu quả kinh tế nghiêm trọng. Khi một cơn bão phá vỡ đê
biển, muối tràn vào vùng đồng bằng ngập lũ và dẫn đến giảm diện tích đất nông
14
nghiệp do đất ngập mặn không sử dụng được trong nhiều năm. Các khoản đầu tư
thường xuyên cần cả ở cấp độ cộng đồng và cá nhân tạo ra các rang buộc tài chính
lớn và căng thẳng cho một nền dân số mức độ an sinh xã hội hạn chế. Và hiển
nhiên, chi phí kinh tế cũng phải được tính bao gồm cả thiệt hại về người, văn hóa,
và môi trường.
1.3.2 Quản lý lũ lụt tại Việt Nam
Với nhiều năm đào tạo, thử nghiệm và chuyển giao các kỹ năng quốc tế, Việt
Nam bây giờ có thể đối phó tốt hơn với thiên tai và giảm thiểu các tác động của lũ
lụt. Và như một ví dụ về cam kết lâu dài của chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển đã công bố trong năm 2008 đầu tư 20 nghìn tỷ đồng để nâng cấp hệ thống đê
biển (WRR, 2010).
Mặc dù khả năng để đối phó với thiên tai và giảm thiểu rủi ro đã được tăng lên
như là tài sản quốc gia và cá nhân đã phát triển, năng lực thể chế vẫn còn là một
thách thức đặc biệt là trong điều kiện biến đổi khí hậu.
Kinh tế Việt Nam được xác định là một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Giống như Trung Quốc, nước ta đã dần dần mở cửa nền kinh tế đặc
biệt là kể từ khi thực hiện chính sách Đổi mới năm 1986. Cùng với tự do hóa kinh
tế ngày càng tăng, công chức, viên chức nhà nước cống hiến trách nhiệm và quyền
lực tài chính nhiều hơn cho các cơ quan nhà nước. Văn bản pháp quy quy định quá
trình phân cấp là Nghị định chính phủ năm 1998. Các cơ quan chính quyền dưới
cấp quốc gia đã được chia thành ba cấp độ. Cả nước được chia thành 64 tỉnh, 611
huyện và hơn 10.000 xã. Ở cấp độ quốc gia, hệ thống chính trị bao gồm một cơ cấu
ba cơ quan lãnh đạo. Quốc hội là cơ quan lập pháp tạo ra pháp luật và có quyền lập
hiến. Các bên liên quan khác nhau của xã hội Việt Nam tham gia vào quá trình lập
pháp và là cơ quan duy nhất được bầu của chính phủ. Cơ quan chịu trách nhiệm
thực hiện pháp luật do Quốc hội phê duyệt là Chính phủ, cơ quan hành pháp của hệ
thống chính trị cấp nhà nước. Cuối cùng, Đảng đảm bảo rằng cả hai cơ quan đang
làm việc trong một thiết chế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do tần suất cao của
15
các sự kiện thời tiết, việc quản lý thiên tai đã trở thành một truyền thống lâu đời của
các cơ quan nhà nước. Ngay từ thế kỷ 15, vua Lê Thần Tông đã bổ nhiệm hai cán
bộ quản lý hệ thống thủy lợi và hệ thống đê điều. Kể từ đó, nó đã phát triển thành
một cấu trúc phức tạp gồm nhiều cấp, mỗi cấp chính quyền có trách nhiệm riêng
của mình.
Không có một bộ luật rõ ràng nào về quản lý thiên tai. Tài liệu chính là Chiến
lược Quốc gia về thiên tai, phòng chống và giảm nhẹ. Được thủ tường phê duyệt
vào năm 2007, bản Chiến lược hoạch định và nêu ra những việc cần phải làm đến
năm 2020 với ngân sách ước tính là 18 tỷ đô la. Mục tiêu chính của Chiến lược là
phân chia trách nhiệm giữa các Bộ và các cơ quan chính trị khác nhau, đề xuất một
khung thời gian chung cho việc áp dụng các biện pháp giảm thiểu và điều chỉnh quá
trình thực hiện để tăng trưởng kinh tế của đất nước. Các đơn vì cấp dưới phải sau đó
đề xuất phương án giảm thiểu tác động phù hợp với khuôn khổ của Chiến lược quốc
gia.
Chiến lược này đã được ban hành bởi Uỷ ban Phòng chống lụt bão Trung
ương (CCFSC). Là tổ chức chính cho quản lý thiên tai, nó hoạt động như một cơ
quan chỉ đạo. CCFSC là chịu trách nhiệm thu thập dữ liệu, theo dõi các sự kiện lũ
lụt và bão, đưa ra cảnh báo chính thức và phối hợp ứng phó thiên tai và các biện
pháp giảm nhẹ. CCFSC được chủ trì bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
và bao gồm các bên liên quan như Bộ như Tài nguyên và Môi trường, Bộ Quốc
phòng và các tổ chức phi chính phủ như Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn có thể được coi là tâm điểm cho các hoạt động hoạt
động, đặc biệt là trong các thảm họa liên quan đến nước. Dưới Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn là Tổng cục Thủy lợi và dưới Tổng cục Thủy lợi là Cục Quản
lý đê điều và Phòng chống lụt bão. Hội Chữ thập đỏ hoạt động trong cả nước từ
quốc gia đến cấp xã và các chuyên về nâng cao nhận thức, phòng chống thiên tai,
ứng phó và phòng ngừa hiểm họa.
Uỷ ban Trung ương Phòng chống lụt bão cũng có các cấu trúc quốc gia cho
các tỉnh, huyện, xã là Uỷ ban về phòng, chống lụt bão địa phương. Các Uỷ ban
16
phòng, chống lụt bão địa phương ở cấp tỉnh, huyện và xã có trách nhiệm phối hợp
các biện pháp phòng chống lũ lụt, bão; tổ chức bảo vệ đê điều; chuẩn bị ứng phó
với bão, lũ; giảm nhẹ thiên tai và phát triển khắc phục hậu quả và khôi phục sau lũ.
Hệ thống Các Uỷ ban phòng, chống lụt bão địa phương giữ vai trò quan trọng trong
việc chia sẻ thông tin về thiệt hại và nhu cầu cứu trợ, để giao tiếp thông tin cảnh báo
sớm, đánh giá thiệt hại, phối hợp cứu nạn trong mùa lũ và bảo vệ đê điều và các cơ
sở hạ tầng khác.
Như đã nói ở trên, hiện tại không có một bộ luật nào về quản lý thiên tai (kế
hoạch xây dựng một bộ luật vào năm 2013) nhưng một số nghị định, pháp lệnh đã
bao gồm cả việc quản lý tài nguyên nước và chuẩn bị sẵn sàng cho các sự kiện lũ
lụt. Ví dụ như Luật Tài nguyên nước (1998) điều chỉnh việc sử dụng nước một cách
thích hợp, Pháp lệnh Phòng chống lụt bão (1993) ban hành các trách nhiệm quản lý
thiên tai cho các cơ quan phù hợp, Luật về đê điều trong đó có kế hoạch quản lý đê
sông và đê biển. Như một báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới đã đề cập, theo
truyền thống, Việt Nam đã tập trung vào sự sẵn sang ứng phó và ứng ứng phó với lũ
lụt, nhấn mạnh vào biện pháp công trình như đê điều và tường chắn sóng. Biện pháp
giảm nhẹ đã dần dần được đưa vào xem xét nhưng vấn đề vẫn còn tồn tại trong hoạt
động quản lý thiên tai. Nhiều luật và nghị định xoay quanh việc giảm thiểu lũ lụt
thường là kết quả trong những chính sách chồng chéo nhau. Do đó, vai trò không rõ
ràng và thực thi các chính sách giảm thiểu lũ lụt là yếu. Một vấn đề khác được đề
cập trong các tài liệu là thiếu chuyên môn quản lý thiên tai.
17
CHƯƠNG II
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
PHƯƠNG PHÁP LỰA CHỌN THỬ NGHIỆM RỜI RẠC
2.1. Nguyên tắc cơ bản phương pháp lựa chọn thử nghiệm rời rạc
Trong nhiều năm phương pháp lựa chọn thử nghiệm rời rạc (DCE) và kỹ thuật
tương tự đã được các nhà nghiên cứu quan tâm trong một loạt các môn học. Do đó,
mặc dù còn ít nhưng đã có những sự đồng thuận về nội dung, tên gọi và nền tảng lý
thuyết của phương pháp. Như Garrod & Willis đã nêu (1999):
"Lựa chọn Thử nghiệm có thể được tìm thấy trong các tài liệu dưới nhiều hình
thức, và sự nhầm lẫn có thể phát sinh từ các thuật ngữ khác nhau được sử dụng
để mô tả các kỹ thuật khác nhau thuộc thể loại này" (Garrod & Willis năm
1999, trang 203).
Kỹ thuật lựa chọn đã được sử dụng bởi các nhà tâm lý học từ những năm 1960
(ví dụ như Anderson 1962; Luce & Tukey 1964) và vào đầu những năm 1970 đã
được giới thiệu các tài liệu tiếp thị, nơi họ nhận được nhiều sự chú ý từ cả hai lĩnh
vực học tập và công nghiệp (ví dụ như Green và các đồng nghiệp 1972. ; Green &
Rao 1971). Trong lĩnh vực tiếp thị, các kỹ thuật này đã được biết đến với tên gọi là
phân tích kết hợp, một thuật ngữ được đưa ra bởi Green và Srinivasan (1978). Phân
tích kết hợp đã đóng một vai trò quan trọng trong việc dự báo và tìm hiểu về việc ra
quyết định và lựa chọn hành vi của người tiêu dùng. Trong suốt những năm 1970 và
những năm 1980, sự phát triển và ứng dụng của phương pháp tiếp cận phân tích kết
hợp tăng lên đáng kể. Wittink & Cattin (1989) ước tính rằng 400 nghiên cứu thị
trường bằng cách sử dụng phương pháp phân tích kết hợp được thực hiện mỗi năm
trong thời gian đầu những năm 1980.
Song song với sự phát triển và các ứng dụng của phân tích kết hợp, các tài liệu
kinh tế (đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải) đã đưa ra các cách thức mới
18
để mô hình hóa sự lựa chọn rời rạc (phân tách các mô hình) và nền tảng lý thuyết
cho mô hình đã được phát triển bằng cách sử dụng lý thuyết lợi ích ngẫu nhiên
(Ben-Akiva & Lerman 1985). Sự phát triển của lý thuyết tiện ích ngẫu nhiên và mô
hình tách biệt theo giới đã trở thành điểm chuẩn cho việc sử dụng các kỹ thuật lựa
chọn trong các tài liệu kinh tế vì nó cung cấp các liên kết cần thiết giữa các quan sát
hành vi của người tiêu dùng và lý thuyết kinh tế. Lý thuyết tiện ích ngẫu nhiên cung
cấp một cách toàn diện để xác định và mô hình hóa hành vi thị trường. Để chỉ rõ
rằng những phương pháp tiếp cận lựa chọn được thành lập trong lý thuyết kinh tế
(so với các phương pháp được sử dụng trong tiếp thị), “phân tích kết hợp” không
còn được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu kinh tế. Louviere lập luận rằng "phân
tích kết hợp" nên được thay thế bằng một thuật ngữ thích hợp hơn để chỉ ra rằng kỹ
thuật này được dựa trên lý thuyết tiện ích ngẫu nhiên (Louviere và đồng nghiệp
2000, Louviere 2000, Louviere 2001a). Ryan & Wordsworth (2000) lưu ý rằng sự
lựa chọn không sử dụng thuật ngữ phân tích kết hợp giúp phân biệt sự lựa chọn dựa
trên các thí nghiệm được sử dụng trong kinh tế từ các hình thức khác của phân tích
kết hợp mà không xuất phát từ lý thuyết kinh tế. Trong các tài liệu kinh tế môi
trường, sự lựa chọn kỹ thuật được thành lập trong lý thuyết kinh tế được nhóm lại
theo các thuật ngữ lựa chọn theo mô hình (‘choice modelling’) hoặc sự lựa chọn
thử nghiệm (choice experiments). Các kỹ thuật lựa chọn được phân chia thành ba
loại để phản ánh sự khác biệt đối với những giả định lý thuyết, phương pháp phân
tích và thủ tục thử nghiệm (Bateman 2002; Blamey 2002; Louviere 2000.), đó là:
• Lựa chọn thử nghiệm rời rạc (Discrete choice experiment)
• Xếp hạng ngẫu nhiên (Contingent ranking)
• Đánh giá ngẫu nhiên (Contingent rating)
Ba kỹ thuật này có nhiều điểm chung (xem Hộp 2.1 cho một ví dụ minh họa của
mỗi kỹ thuật lựa chọn). Việc thiết kế các phương án lựa chọn thay thế là cơ bản
giống nhau trong mỗi phương pháp tiếp cận và hỏi phải quyết định lựa chọn một
phương án ưa thích trong số những phương án thay thế loại trừ lẫn nhau. Hơn nữa,
tất cả ba kỹ thuật - với các giả định đúng - có thể được chỉ ra là phù hợp với lý
19
thuyết phúc lợi kinh tế. Trong DCE người được hỏi phải lựa chọn một phương án
trong số các phươnng án lựa chọn thay thế được đưa ra (có thể là hai phương án
hoặc nhiều hơn). Như DCE chỉ chứa thông tin về phương án được ưa thích, các dữ
liệu có thể được đưa ra một cách định tính, tương đối. Ngược lại, Xếp hạng ngẫu
nhiên yêu cầu tất cả các lựa chọn thay thế được đánh giá và xếp hạng, do đó các dữ
liệu phải cho biết sở thích theo thứ tự ưu tiên (yêu cầu cao hơn về độ chính xác và
đánh giá về các lựa chọn). Trong khi một thực hành xếp hạng ngẫu nhiên có nhiều
thông tin về sở thích hơn so với một thực hành lựa chọn rời rạc tương tự, nó cũng
đòi hỏi nhiều hơn về nhận thức, kinh nghiệm. Người được hỏi theo kỹ thuật đánh
giá ngẫu nhiên còn khó khăn hơn trong việc đánh giá mỗi phương án lựa chọn được
đưa ra (Louviere 2000). Đánh giá ngẫu nhiên (so với xếp hạng ngẫu nhiên và DCE)
cung cấp cho người trả lời với các cơ hội để đánh giá các phương án lựa chọn một
cách ngang bằng nhau và qua đó thể hiện sự bang quan giữa các phương án lựa
chọn. Việc lập mô hình cho số liệu lấy theo các kỹ thuật xếp hạng và đánh giá ngẫu
nhiên là khác so với cho số liệu lấy theo DCE do việc xếp thứ tự các phương án lựa
chọn rõ ràng hơn. Các mô hình được sử dụng cho Sếp hạng ngẫu nhiên và Đánh giá
ngẫu nhiên gồm có rank- ordered logit và ordered probit. Việc sử dụng các kỹ thuật
đánh giá và đặc biệt là kỹ thuật xếp hạng gặp khó khăn cả về lý thuyêt và thực
hành. Các vấn đề gặp phải là các cá nhân gặp khó khăn trong việc xếp hạng hoặc
đánh giá các phương án lựa chọn; hơn nữa, trong khi thực hiện đánh giá, người tiêu
dùng sẽ có những so sánh với người khác dẫn đến lựa chọn lạc hướng, không theo
chủ kiến của mình. Bateman và các đồng nghiệp (2002) cũng lập luận rằng các
phương pháp khác nhau về khả năng ước lượng WTP, là đại lượng có thể được chỉ
ra là thống nhất với các đo lường thông thường của sự thay đổi phúc lợi, và do đó
có thể được sử dụng như là một phần của phương pháp phân tích lợi ích - chi phí
(CBA). Ngày nay DCE là tiếp cận mô hình lựa chọn được ứng dụng nhiều nhất
trong các tài liệu kinh tế, trong khi đánh giá ngẫu nhiên (contingent rating) hầu như
không bao giờ được sử dụng.
20
Hộp 2.1. Ví dụ về các kỹ thuật lựa chọn
Hãy tưởng tượng một tình huống mà các phương thức vận tải để làm việc đã được quyết định.
1. Sự lựa chọn rời rạc: (lựa chọn một trong những lựa chọn từ một tập hợp các tùy chọn cạnh tranh) Chọn trong các phương thức vận chuyển sau đây bạn thích nhất (đánh dấu vào một ô).
Phương tiện vận tải Thời gian vận chuyển
Chế độ 1 Ô tô 20 phút 0 phút Chế độ 2 Xe buýt 25 phút 3 phút Chế độ 3 Tàu hỏa 15 phút 10 phút Đi bộ đến / từ phương tiện giao thông
10000 15000 25000 Giá
Tôi chọn phương thức vận tải X
Các thông tin thu được bằng cách sử dụng DCE này: Chế độ Giao thông 2> Chế độ Giao thông 1 và Chế độ Giao thông 3
2. Xếp hạng ngẫu nhiên: (một sự xếp hạng hoàn chỉnh từ các lựa chọn được ưa thích nhất đến ít được ưa thích nhất) Xếp hạng (A, B và C) cho các chế độ lựa chọn: ‘A’ là chế độ được ưa thích nhất, ‘B’ được thích hơn ‘C’ nhừng không thích bằng ‘A’, và ‘C’ là chế độ ít được ưa thích nhất.
Phương tiện vận tải Thời gian vận chuyển
Chế độ 1 Ô tô 20 phút 0 phút Chế độ 2 Xe buýt 25 phút 3 phút Chế độ 3 Tàu hỏa 15 phút 10 phút Đi bộ đến / từ phương tiện giao thông
10000 15000 25000 Giá
Tôi đánh giá phương thức vận tải A B
C Các thông tin thu được bằng cách sử dụng xếp hạng ngẫu nhiên này: Chế độ Giao thông 2 > Chế độ Giao thông 1 > Chế độ Giao thông 3
3. Đánh giá ngẫu nhiên (Contingent rating): (thể hiện mức độ ưu tiên bởi các tùy chọn xếp hạng trên một quy mô)
21
Đánh giá các chế độ giao thông từ 1 đến 10, '1' là chế độ bạn tưởng tượng là tồi nhất và '10' là tốt nhất.
Phương tiện vận tải Thời gian vận chuyển
Chế độ 1 Ô tô 20 phút 0 phút Chế độ 2 Xe buýt 25 phút 3 phút Chế độ 3 Tàu hỏa 15 phút 10 phút
10.000 15.000 25.000 Đi bộ đến / từ phương tiện giao thông Giá (đồng)
Tôi đánh giá phương thức vận tải 8 3 7
Các thông tin thu được bằng cách sử dụng đánh giá này: Lựa chọn 2 là tốt hơn 1/10 so với lựa chọn 1 và 5/10 so với lựa chọn 3
DCE là kỹ thuật lựa chọn đơn giản nhất và do đó lợi thế lớn nhất của nó là yêu
cầu thấp trong trình độ nhận thức và kinh nghiệm – độ khó và phức tạp của công
việc phát sinh từ thực nghiệm (Louviere và đồng nghiệp 2000). Như đã đề cập trước
đó, DCE có liên quan chặt chẽ đến phương pháp lựa chọn riêng lẽ CVM, cả hai
phương pháp liên quan đến việc người tiêu dùng lựa chọn loại trừ lẫn nhau từ một
tập hợp của hàng hóa thay thế được. Các phương pháp này dựa trên cùng nền một
tảng kinh tế, lý thuyết lợi ích ngẫu nhiên. Cách tiếp cận DCE ngày nay đã được phát
triển vào đầu những năm 1980, với Louviere & Woodworth (1983) là người đầu
tiên sử dụng thuật ngữ “lựa chọn thử nghiệm” –“choice experiment” (Hanley và
động nghiệp 2002).
Trong khi CVM được áp dụng trước và rộng rãi trong kinh tế môi trường, kỹ
thuật lựa chọn đã được giới thiệu trong các tài liệu kinh tế môi trường trong cùng
thời gian, đầu những năm 1990 (Hanley 2003; Hundley 2001; Johnson 2000).
Vương quốc Anh bây giờ đang dẫn đầu trong việc đóng góp các bài báo về DCE,
trong khi các nước như Australia và Hoa Kỳ cũng đóng một vai trò quan trọng trong
việc phổ biến các phương pháp tiếp cận DCE. Tại Đan Mạch và các nước Bắc Âu
khác cũng đã có một sự quan tâm ngày càng tăng về DCE (ví dụ Bech năm 2003;
22
Carlsson & Martinsson 2003; Gyrd-Hansen & Slothuus 2002; Skjoldborg Gyrd-
Hansen 2003). Sự quan tâm gia tăng đến DCE có thể có một sự phản ánh của công
nhận ngày càng tăng rằng DCE cung cấp nhiều khả năng khác nhau trong bối cảnh
của việc ra quyết định, khi so sánh với việc sử dụng các đánh giá tiêu chuẩn như
phân tích lợi ích - chi phí.
2.1.1 Lựa chọn thử nghiệm rời rạc
Thuật ngữ “lựa chọn rời rạc" bắt nguồn từ sự khác biệt giữa các biến liên tục
và biến rời rạc để biểu thị tập hợp các lựa chọn thay thế. Từ 'Rời rạc' chỉ ra rằng sự
lựa chọn là riêng biệt trong bản chất của nó, có nghĩa là chỉ có thể chọn một giải
pháp thay thế duy nhất. Một tình huống lựa chọn rời rạc được định nghĩa là một
người trả lời phỏng vấn phải đưa ra lựa chọn giữa tập hợp các lựa chọn thay thế đáp
ứng các tiêu chí sau (Train 1993):
• Số lựa chọn thay thế trong bộ này là hữu hạn
• Các lựa chọn thay thế là loại trừ lẫn nhau
• Tập hợp các lựa chọn thay thế là đầy đủ (bao gồm tất cả các lựa chọn thay
thế có thể)
Trong khi hầu hết các bảng câu hỏi CVM yêu cầu người trả lời chỉ có một câu
hỏi liên quan đến một trạng thái đề xuất, DCE thường yêu cầu trả lời để đưa ra một
chuỗi các sự lựa chọn. DCE được mô tả như là một phương pháp trong đó những
hang hóa trong câu hỏi được mô tả bởi một số thuộc tính. Do vậy, lựa chọn thử
nghiệm có thể được sử dụng để kiểm tra phản ứng của các cá nhân về sự thay đổi
của các thuộc tính kịch bản. Thay vì kiểm tra toàn bộ kịch bản như là một gói, lựa
chọn thử nghiệm cho phép các nhà nghiên cứu để phá vỡ các thuộc tính liên quan
của trạng thái và xác định sự ưu tiên cho các thuộc tính khác nhau (Garrod & Willis
1999). Các lựa chọn thay thế đề xuất trong mỗi sự lựa chọn là khác nhau về trạng
thái hàng hóa mô tả cho người trả lời. Những mô tả này được biết đến như là thuộc
tính của các lựa chọn thay thế. Sự biến động trên các lựa chọn thay thế trong bộ lựa
23
chọn được thực hiện bằng cách chỉ định các cấp độ khác nhau cho các thuộc tính,
theo một quá trình có hệ thống được gọi là thiết kế thử nghiệm.
Các thuộc tính và mức độ của chúng phải được xây dựng để buộc người trả lời
cân nhắc và đưa ra lựa chọn. Ví dụ, một ngườicó thể thich lái một chiếc xe đi làm
hơn là đi xe buýt hoặc xe lửa, sử dụng phương tiện giao thông công cộng lại có chi
phí thấp hơn, điều này làm cho anh ta có sự lựa chọn khác hẳn (xem hình 3.1). Điều
quan trọng là cần lưu ý rằng thời gian di chuyển của mỗi phương án là khác nhau,
phát sinh một tình huống mới (tức là một gói hàng hóa khác).
Ô tô 20 phút 0 phút
Phương tiện vận tải Thời gian vận chuyển Đi bộ đến / từ phương tiện giao thông Giá Chế độ 1 Chế độ 2 Chế độ 3 Tàu hỏa Xe buýt 15 phút 25 phút 10 phút 3 phút 15000 10000
Tôi đánh giá phương thức vận tải A C 25000 B
Thuộc tính Lựa chọn thay thế Cấp độ
Hình 2.1: Một tập lựa chọn
Bằng cách đảm bảo một biến đổi nhất định trong kịch bản, sẽ trở nên có thể quan
sát mức độ mà mỗi thuộc tính ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người trả lời, có
nghĩa là, ước lượng được tỷ lệ thay thế cận biên của các thuộc tính (Louviere và
đồng nghiệp 2000).
2.1.2 Sự bao gồm một thuộc tính chi phí
Các thuộc tính chi phí đóng một vai trò quan trọng và khác biệt trong DCE. Sự
bao gồm một thuộc tính chi phí cung cấp các DCE với một chất lượng đặc biệt khi
nó trở thành một phương pháp tìm sẵn lòng trả (WTP). Điều này ngụ ý rằng các lợi
ích được ước tính về tiền tệ và làm cho DCE phù hợp với kinh tế học phúc lợi (tức
là điều kiện cải thiện Pareto tiềm năng). Kết quả từ các nghiên cứu khác nhau sau
24
đó có thể được so sánh và - trên cơ sở hiệu quả kinh tế - được sử dụng trong việc
thiết lập ưu tiên. Sự bao gồm một thuộc tính chi phí làm cho có thể gián tiếp thu
được WTP của người trả lời cho các hàng hóa trong bộ hang hóa (một lựa chọn thay
thế) hoặc WTP của người trả lời cho thuộc tính tương ứng, tức là WTP biên (cũng
được gọi là phần giá trị hoặc giá tiềm ẩn) (Bennett & Blamey 2001). Phương pháp
này là gián tiếp trong trường hợp người trả lời không được hỏi trực tiếpWTP của họ
như trong phương pháp CVM, nhưng thay vào đó, phải có chi phí giao dịch cho cải
tiến trong các thuộc tính có giá trị tích cực (hoặc giảm trong các thuộc tính có giá trị
tiêu cực). WTP biên chỉ đơn giản là tỷ lệ thay thế cận biên trong đó đơn vị tính toán
là thuộc tính chi phí. Việc ước lượng phúc lợi được dựa trên sự sử dụng các hệ số
của các thuộc tính chi phí như là một sự đại diện cho tiện ích cận biên của thu nhập
(tiền). Cách tiếp cận gián tiếp ước tính WTP thường được coi là một lợi thế hơn
CVM vì nó làm giảm đáng kể tập trung vào các khía cạnh giá.
Chi phí có thể có nhiều hình thức khác nhau trong DCE, bao gồm các tùy chọn
như giá tiêu dùng, chi phí vận chuyển, tiền lương, sự cho tặng, nộp thuế… Hình
thức trong đó chi phí (thanh toán) được quy định cụ thể trong cuộc khảo sát, các
điều kiện theo đó nó là cần thiết và liên kết giữa các phản ứng và thanh toán tiềm
năng được gọi là “phương tiện thanh toán” (Green 1998b). Việc lựa chọn phương
tiện thanh toán phụ thuộc vào bối cảnh của sự lựa chọn nhiệm vụ và điều kiện lựa
chọn
2.2. Nền tảng của lựa chọn thử nghiệm rời rạc
Các nền tảng lý thuyết của DCE là kết hợp một số lý thuyết kinh tế khác
nhau. DCE được dựa trên lý thuyết lựa chọn xác suất và đặt tên theo lý thuyết lợi
ích ngẫu nhiên và phù hợp với lý thuyết kinh tế của Lancaster về giá trị và kinh tế
tân cổ điển (Lancaster 1966; Manski 1977). Lý thuyết lợi ích ngẫu nhiên cho phép
các nhà nghiên cứu để gợi ra những ưu đãi đối với hàng hoá phức tạp đa chiều, từ
các mô hình ưu đãi có thể được ước tính. Các cơ sở của lý thuyết lựa chọn xác suất
và việc mô hình hóa này có một số bất định xung quanh sự lựa chọn của một cá
25
nhân - chúng ta có thể không hoàn toàn dự đoán sự lựa chọn của cá nhân. Một đặc
tính quan trọng của các mô hình giải quyết sự bất định là, thay vì xác định một giải
pháp thay thế như các tùy chọn đã chọn, họ gán cho mỗi một xác suất được lựa
chọn thay thế. Nhiều mô hình lựa chọn rời rạc đã được sử dụng trong một loạt các
lĩnh vực nghiên cứu như tâm lý học, sinh học và kinh tế. Tất cả các mô hình lựa
chọn xác suất được đặc trưng bởi phương trình sau đây (cho một thay thế cho i),
(2.1) Ui = Vi +εi
Điều khác nhau giữa các mô hình là cách giải thích các biến (các thuật
ngữ). Mô hình hóa sự lựa chọn xác suất có thể được chia thành hai dạng chính:
(1) quy tắc quyết định được giả định là ngẫu nhiên và các tiện ích đã xác định
(2) Các quy tắc quyết định được giả định là xác định và tiện ích ngẫu nhiên
Sự khác biệt giữa hai cách giải thích của mô hình xác suất là rất quan trọng, vì
nó liên quan đến các yếu tố xác định xác suất. Dạng đầu tiên của mô hình xem hành
vi của cá nhân như bản chất xác suất, mà ngụ ý rằng hành vi cá nhân có thể thay đổi
theo các yếu tố bên trong và bên ngoài. Dạng thứ hai của mô hình xem xác suất là
không có khả năng của nhà nghiên cứu để xây dựng một cách chính xác hành vi cá
nhân. Đối với một tổng quan về các dạng khác nhau của sự lựa chọn lý thuyết xác
suất, xem Hình 2.2.
26
Hình 2.2: Các nhánh của lý thuyết sự lựa chọn xác suất
(cũng được gọi là lý thuyết lựa chọn rời rạc).Ý tưởng từ Anderson và đồng nghiệp.
1991
Lý thuyết xác suất lựa chọn
Quy tắc quyết định ngẫu nhiên Lợi ích ngẫu nhiên
Mô hình Tversky (1972) Mô hình Thurstone (1927) Diễn giải kinh tế về lợi ích ngẫu nhiên (ví dụ. Manski 1977) Mô hình Luce (1959)
27
2.2.1 Quy tắc quyết định ngẫu nhiên
Mô hình hóa sự lựa chọn xác suất với một quy tắc quyết định ngẫu nhiên
bao gồm các lý thuyết tiên đề của Luce (1959) và loại bỏ Tversky khía cạnh lý
thuyết (Tversky 1972).Cách tiếp cận này giả định rằng các lợi ích (Vi) của các lựa
chọn thay thế là cố định (xác định). Thay vì lựa chọn thay thế với các lợi ích cao
nhất, cá nhân được giả định cư xử với xác suất lựa chọn được xác định bởi một hàm
phân bố xác suất trên các lựa chọn thay thế bao gồm các tiện ích như các thông số
(Ben-Akiva & Lerman 1985). Điều này ngụ ý rằng các cá nhân không nhất thiết
phải chọn giải pháp thay thế mang lại mức độ cao nhất của lợi ích, nhưng thay vì có
một xác suất của việc lựa chọn từng phương án. Theo ghi nhận của Tversky (1972),
mọi người thường cảm thấy không chắc chắn và không thống nhất khi phải lựa chọn
giữa các lựa chọn thay thế, cá nhân thường không chắc chắn lựa chọn thay thế để
lựa chọn, cũng không làm họ luôn luôn có cùng một sự lựa chọn trong điều kiện có
vẻ như giống hệt nhau.
Việc sử dụng phổ biến của thuật ngữ “hành vi hợp lý” được dựa trên niềm tin
của một quan sát viên về những gì các kết quả của một quyết định nên và đứng trái
ngược với tính bốc đồng, trong đó các cá nhân đáp ứng với các tình huống của sự
lựa chọn theo những cách khác nhau tùy thuộc vào trạng thái tâm lý của họ tại thời
điểm thực hiện quyết định (Ben-Akiva Lerman 1985). Kinh tế và tâm lý học có
quan điểm hoàn toàn khác nhau của quá trình ra quyết định. Trọng tâm chính của
nhà tâm lý học là để hiểu được bản chất của các yếu tố quyết định, trong khi các nhà
kinh tế tập trung chủ yếu vào các bản đồ từ các đầu vào thông tin để lựa chọn, dựa
trên hành vi hợp lý và tối đa hóa lợi ích. Quan điểm tâm lý của quá trình ra quyết
định được chi phối bởi ý tưởng rằng hành vi của địa phương, thích nghi, học thức,
phụ thuộc vào bối cảnh, thay đổi và chịu ảnh hưởng bởi các tương tác phức tạp của
nhận thức, động cơ, thái độ. Kinh tế, mặt khác, coi các sở thích (giá trị) như là khởi
nguồn của các phân tích và quá trình quyết định như một hộp đen. Tâm lý học có
những lý thuyết khác nhau và kỹ thuật để nghiên cứu quá trình ra quyết định. Các
28
mô hình hàng đầu đã được nghiên cứu của Tversky và Kahneman trên nghiên cứu
thực nghiệm về các điều bất thường về nhận thức (còn gọi là phương pháp tiếp cận
đánh giá theo kinh nghiệm và độ lệch): trường hợp trong đó một cá nhân thể hiện độ
lệch đáng ngạc nhiên so với sự hợp lý (Ben-Akiva et al 1999; Gilovich et al. 2002;
McFadden 1999).
Thành phần tạo nên ngẫu nhiên trong tiện ích là gì? Nhà nghiên cứu biết rằng
không phải tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn cũng không phải hàm lợi
ích chính xác, hơn nữa, nó dường như là mức độ ưa thích khác nhau giữa các cá
nhân (Train 2003). Những giải thích về sự lựa chọn của người tiêu dùng là phù hợp
với lý thuyết tân cổ điển (giả định của một cá nhân tối đa hóa lợi ích hợp lý), nhưng
giải thích cũng tồn tại vượt quá phạm vi của lý thuyết kinh tế chuẩn tắc. Người tiêu
dùng có thể không được hoàn toàn hợp lý trong sự lựa chọn của họ, tức là họ có thể
không có một hàm ưa thích đầy đủ. Herbert Simon đã đề xuất các tiêu chí để thực
hiện liên kết kinh tế với tâm lý học, bằng cách phân biệt “hợp lý hoàn hảo” với “hợp
lý không hoàn hảo”, được gọi là hợp lý bị giới hạn. Hợp lý bị giới hạn ngụ ý rằng
mọi người suy đoán và lựa chọn một cách hợp lý, nhưng chỉ trong các ràng buộc
bởi việc hạn chế tìm kiếm thông tin (chi phí thông tin) và năng lực tính toán (hạn
chế khả năng nhận thức). Do đó họ không nhất thiết phải kết thúc việc lựa chọn
những gì là tốt nhất cho họ. Hợp lý bị giới hạn công nhận các khó khăn về quá trình
ra quyết định phát sinh từ những hạn chế của con người như là người giải quyết vấn
đề, với khả năng xử lý thông tin hạn chế. Để có thể ứng phó hiệu quả với những hạn
chế này, Simon đã trình bày các chẩn đoán đơn giản hóa mà người ta có thể sử
dụng, chẳng hạn như chẩn đoán nhanh chóng và nhất thời, phương pháp tiếp cận
của ông trong nhiều khía cạnh phù hợp với cách tiếp cận tâm lý đánh giá theo kinh
nghiệm và độ lệch.
Các tài liệu Kinh tế thực nghiệm đã bắt đầu nhận ra rằng việc giải thích hành
vi của con người vượt ra khỏi cơ sở lý thuyết truyền thống (xem hình 2.3). Như
McFadden đã nêu (2001): “Vai trò tiềm năng quan trọng của nhận thức, khác nhau,
từ nhận thức tâm vật lý cổ điển của các thuộc tính, thông qua việc hình thành tâm lý
29
của nhận thức để giảm sự bất hòa, tính toán về mặt tinh thần cho thời gian và chi
phí, phần lớn vẫn chưa được khai thác trong nghiên cứu thực nghiệm vào sự lựa
chọn kinh tế. Cuối cùng, các thông tin phản hồi từ các nghiên cứu thực nghiệm của
hành vi lựa chọn lý thuyết kinh tế của người tiêu dùng đã bắt đầu, thông qua kinh tế
hành vi và thử nghiệm, nhưng vẫn mới chỉ là bắt đầu” (McFadden năm 2001).
Các nhà kinh tế có thể học hỏi được rất nhiều từ các tài liệu tâm lý có thể giúp
giải thích một số hiện tượng quan sát thấy trong kinh tế thực nghiệm không phù hợp
với lý thuyết kinh tế chuẩn tắc. Một vài nỗ lực đã được thực hiện để áp dụng kiến
thức của các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến phán đoán và ra quyết định khi thực hiện
DCE. Đặc biệt quan trọng là một thực tế rằng DCE chính nó đặt ra nhiều mối quan
tâm khi nó được xem xét về các xu hướng và lối tắt có thể ảnh hưởng đến sự phán
đoán và ra quyết định (Lloyd 2003). Swait Adamowicz (2001a) lập luận rằng có hai
lý do cho việc thiếu các nghiên cứu về việc ra quyết định, trước hết, các tài liệu lý
thuyết quyết định tâm lý và hành vi chưa được dịch vào phân tích kinh tế thực
nghiệm, và thứ hai là các dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế có xu
hướng khác nhau. Trong một nghiên cứu về hành vi của người tiêu dùng, Swait
Adamowicz (2001a) đã tìm thấy dẫn chứng cho giả thuyết rằng hành vi lựa chọn có
thể bị ảnh hưởng bởi bối cảnh phức tạp. Họ đề xuất nghiên cứu sâu hơn để kiểm tra
xem mức độ phức tạp gây ra các chiến lược lựa chọn khác nhau và do đó các mô
hình đền bù được sử dụng bởi các nhà kinh tế có thích hợp hay không. Trong một
bài báo bổ sung, Swait (2002) đã thảo luận làm thế nào để tạo mô hình một cách bất
hợp lý, chẳng hạn như phụ thuộc vào bối cảnh, khung có hiệu lực, vv Điều này là
hiển nhiên, khi sự lựa chọn mô hình trở nên tiên tiến, xu hướng khám phá và giải
thích hành vi của con người sẽ tăng lên.
30
Lợi ích ngẫu nhiên
Quy tắc quyết định ngẫu nhiên
Lý thuyết xác suất lựa chọn
Hình 2.3: Các nhà kinh tế đã bắt đầu nhận ra việc giải thích hành vi của con
người vượt ra ngoài những cơ sở lý thuyết truyền thống
2.2.2 Lý thuyết lợi ích ngẫu nhiên
Nguồn gốc của mô hình lựa chọn rời rạc theo xác suất xuất phát từ các nghiên
cứu của Thurstone (1927) trong ngành tâm lý lượng học (Quy tắc đánh giá tương
đối - Law of Comparative Judgment), trong đó một lựa chọn i với mức độ kích
thích kinh tế thực được nhận biết với một sai số của Vi + εi. Thurstone đề xuất việc
mô hình hóa sự lựa chọn cá nhân như là kết quả của một quá trình trong đó các
biến ngẫu nhiên được kết hợp với từng phương án, và phương án với sự nhận thức
cao nhất là một trong phương án được lựa chọn (do đó thuộc về dạng thứ hai của
các mô hình lựa chọn). Khi kích thích nhận thức được hiểu là mức độ thỏa mãn,
hoặc lợi ích, điều này có thể được hiểu như là một mô hình lựa chọn kinh tế trong
đó các cá nhân lựa chọn các tùy chọn tuân theo sự nhận thức lớn nhất về lợi ích
(Anderson 1991; McFadden 2001). Marchak giới thiệu nghiên cứu của Thurstone
về kinh tế vào năm 1960, bằng cách khám phá những ý nghĩa lý thuyết của xác suất
lựa chọn cho tối đa hóa các lợi ích có chứa các yếu tố ngẫu nhiên (có tên là Mô hình
lợi ích ngẫu nhiên, RUM). Ý tưởng này sau đó được đưa lên và tiếp tục phát triển
bời các nhà kinh tế khác bao gồm Manski và McFadden (Manski 1977; McFadden
năm 1974).
Hãy xem xét một cá nhân để lựa chọn một giải pháp thay thế từ một tập hợp
lựa chọn các lựa chọn thay thế. Lý thuyết kinh tế tân cổ điển cho rằng các cá nhân
có năng lực phán đoán hoàn hảo và khả năng xử lý thông tin không giới hạn, cho
phép các cá nhân xếp hạng các lựa chọn thay thế một cách rõ ràng và nhất quán. Cá
31
nhân do đó có thể xác định lựa chọn tốt nhất của mình và sẽ lặp lại sự lựa chọn này
trong trường hợp giống hệt nhau (Anderson, 1991). Sự liên kết với lý thuyết lựa
chọn theo xác suất phát sinh từ sự thiếu thông tin về hàm lợi ích cá nhân thực của
nhà nghiên cứu. Như vậy, lý thuyết lựa chọn theo xác suất được giới thiệu không
phải để phản ánh một sự thiếu hợp lý trong từng cá nhân, nhưng để phản ánh một sự
thiếu thông tin về các đặc tính của các lựa chọn thay thế và các đặc tính của cá nhân
từ phía các nhà nghiên cứu (εi) (Manski 1977). Các nhà nghiên cứu chỉ quan sát
thấy một phần của lợi ích tạo nên các lựa chọn thay thế. Điều này ngụ ý rằng hàm
lợi ích là xác định từ quan điểm của cá nhân và do đó là phù hợp với kinh tế tân cổ
điển. Các hàm lợi ích gián tiếp được chia ra thành một hàm lợi ích mà phụ thuộc
hoàn toàn vào yếu tố được quan sát bởi các nhà nghiên cứu và hàm lợi ích khác đại
diện cho tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người tiêu dùng. Ta có
(2.1) Ui = Vi + εi
và đối với cá nhân n, lợi ích sẽ trở thành
(2.2) Uin = Vin + εin
Ui là lợi ích thực nhưng không quan sát được (tiềm ẩn) của lựa chọn i, Vi là thành
phần lợi ích có thể quan sát được, và εi là yếu tố không quan sát được đối với nhà
nghiên cứu và được sử lý như là một thành phần ngẫu nhiên (Hanemann 1984). Vi
do đó trở thành phần có thể giải thích được của phương sai trong sự lựa chọn và εi là
thành phần không giải thích được. Lý thuyết lợi ích ngẫu nhiên (Random Utility
Theory - RUT) giả định rằng các cá nhân hoạt động hợp lý và chọn thay thế với
mức cao nhất của lợi ích - tức là các cá nhân là người tối đa hóa lợi ích. Khi nhà
nghiên cứu không thể quan sát hàm lợi ích thực của cá nhân, một hàm lợi ích xác
suất được sử dụng trong ước lượng. Mô hình lựa chọn xác suất thích hợp nhất để áp
dụng phụ thuộc vào các giả định về các tham số ngẫu nhiên. Giả sử rằng các cá
nhân có thể lựa chọn giữa hai lựa chọn thay thế, i và j, xác suất mà thay thế i được
lựa chọn được cho bởi:
Pi = Prob(U i> U j ) = Prob(Vi + εi> V j + ε j ) = Prob(Vi − V j> ε j − εi ) ∀ i ≠ j (2.3)
32
Từ đây có thể thấy rằng xác suất lựa chọn một sự thay thế càng cao, thì sự khác biệt
trong lợi ích quan sát được càng lớn. Do vậy xác suất được xác định trên phạm vi
chủ yếu, cũng là mức lợi ích được ước lượng (đó là lý do tại sao chúng ta có được
ước lượng WTP có ý nghĩa). Các đầu vào của mô hình là sự lựa chọn quan sát,
trong khi đầu ra, tức là những gì được ước tính là sự khác biệt trong lợi ích cho hai
lựa chọn thay thế (Vi-Vj), đặc trưng bởi các lợi ích cho mỗi thuộc tính. Người trả lời
đều thực hiện một sự lựa chọn rời rạc và đã chọn phương án i hoặc phương án j. Khi
lựa chọn được tổng hợp qua các cá nhân (thống kê các đặc tính của các cá nhân, nếu
có thể), tổng số phần trăm của mẫu quan sát chọn phương án i được hiểu là xác suất
mà một cá nhân với các đặc tính cá nhân cụ thể lựa chọn phương án i. Vì vậy, sự
lựa chọn được chuyển thành một đường cong liên tục (sigmoid) đặc trưng cho sự
đánh đổi giữa hai lựa chọn thay thế. Khi chất lượng của các thuộc tính thay thế i
tăng so với thay thế j, xác suất hội tụ về 1. Điều này giống như nói rằng xác suất của
các lựa chọn thay thế i làm tăng sự khác biệt trong lợi ích ước lượng giữa hai lựa
chọn thay thế gia tăng. Hình dạng của đường cong sigmoid đảm bảo rằng những
thay đổi trong sự khác biệt về lợi ích khi các cá nhân là rất không chắc chắn về việc
lựa chọn phương án, tạo ra thay đổi lớn trong các xác suất, tức là mô hình là rất
nhạy cảm với thay đổi với xác suất khoảng 50%. Mặt khác, những thay đổi trong sự
khác biệt về lợi ích ít ảnh hưởng đến xác suất tổng thể khi các cá nhân chắc chắn
hơn về lựa chọn của mình. Do đó xác suất có thể được giải thích như mức độ ưu
tiên cho từng phương án. Xem xét một tình huống trong đó xác suất của các lựa
chọn thay thế là 50%. Trong trường hợp này, các lợi ích cho từng phương án sẽ là
như nhau, tức là sự khác biệt trong lợi ích này sẽ là 0, và nó không thể quyết định
các phương án cá nhân n sẽ chọn. Không có thông tin được nêu ra trong tình huống
này khi đó sự lựa chọn được hiểu như là ngẫu nhiên. Tóm lại, giải thích của các xác
suất là những gì làm cho nó có thể để đạt được một tỷ lệ lợi ích chủ yếu. Một tỷ lệ
như vậy là cần thiết để so sánh những lợi ích đạt được, tức là chuyển đổi các lợi ích
vào các đơn vị đo lường phúc lợi tiền tệ.
33
Phương pháp tiếp cận lý thuyết lợi ích ngẫu nhiên, chính thức hóa bởi Manski
(Manski 1977) và tiếp tục mở rộng khuôn khổ mô hình hóa bởi McFadden
(McFadden 1974; McFadden1980; McFadden 1986; McFadden & Train 2000), là
phù hợp với lý thuyết người tiêu dùng tân cổ điển. Manski (1973) xác định có bốn
nguồn ngẫu nhiên khác nhau:
• Lỗi Đo lường và các thông tin không hoàn hảo (khi dữ liệu được sử dụng
để ước tính các thông số mô hình không phải là sự đo lường đúng theo lý thuyết)
• Biến công cụ (hay biến đại diện) (sử dụng các biến liên quan chặt chẽ)
• Các thuộc tính không quan sát được (sự lựa chọn thay thế không chỉ được
xác định bởi các thuộc tính đã biết, mà còn bởi một số thuộc tính tiềm ẩn)
• Sự thay đổi sở thích không quan sát được (tính không đồng nhất trong các
sở thích). Tính không đồng nhất là một yếu tố then chốt xác định sự ngẫu nhiên và
ngụ ý rằng sở thích khác nhau giữa các cá nhân; nhà nghiên cứu không biết sở thích
của các cá nhân và do đó có thể không hoàn toàn dự đoán các lựa chọn.
Lý thuyết tân cổ điển được xây dựng dựa trên một số tiên đề cung cấp cho các
thuộc tính mong muốn mối quan hệ sở thích của người tiêu dùng, tức là họ đảm bảo
rằng sở thích có thể được đại diện bởi một quy mô số (lợi ích). Các tiên đề đảm bảo
rằng các gói hàng hoá (các lựa chọn thay thế) được sắp xếp theo hàm sở thích của
cá nhân và cá nhân cư xử hợp lý. Giả định rằng các cá nhân có sở thích đầy đủ, ổn
định và nhất quán và đường bàng quan là liên tục (Deaton & Muellbauer
1989). Nếu sở thích không đầy đủ, ổn định và phù hợp thì chúng phải được xây
dựng tại thời điểm chúng được gợi ra, cho thấy quá trình có thể được điều khiển
bằng phương pháp kinh nghiệm và bị ảnh hưởng bởi bối cảnh (Swait và đồng
nghiệp 2002). Tiên đề liên tục loại trừ các thứ tự về ngôn ngữ, ví dụ như sở thích
chiếm ưu thế (mặc dù điều này đại diện cho một hệ thống lựa chọn hoàn toàn hợp
lý) và đảm bảo các khái niệm về đánh đổi là một trong những nguyên tắc cốt lõi của
DCE. Việc vi phạm của một hoặc nhiều các tiên đề này ảnh hưởng đáng kể đến việc
34
giải thích của DCE. Vì vậy, nghiên cứu các vi phạm tiên đề và những nguyên nhân
tiềm ẩn của chúng (ví dụ như vấn đề thiết kế) là khá quan trọng.
DCE rút ra từ lý thuyết kinh tế về giá trị của Lancaster (Lancaster 1966). Đây
là một phần mở rộng của các lý thuyết tiêu dùng tân cổ điển trong đó “hàng hóa sở
hữu hoặc được gán cho các thuộc tính đa dạng trong một tỷ lệ nhất định và những
thuộc tính này không phải cho bản thân hang hóa, mà trong đó sở thích của người
tiêu dùng là thực thi” (Lancaster 1966). Phương pháp tiếp cận của Lancaster coi một
đơn vị hàng hóa bất kỳ nào như là một gói cho các thuộc tính của các đặc tính (ví
dụ, một loại thực phẩm sẽ bao gồm các hương vị cụ thể, năng lượng, vitamin, v.v.)
và một sự kết hợp của hàng hoá sẽ tạo ra một vector số lượng những đặc điểm
này. Sở thích của người tiêu dùng được xác định trên gói đặc tính và cầu hàng hoá
là cầu thứ phát. Tiêu dùng là hoạt động khai thác các đặc tính từ hàng hoá. Do đó
cách tiếp cận của Lancaster rất thích hợp để xử lý với DCE. Số lượng của một thuộc
tính sinh ra bởi một đơn vị hàng hóa là cố định, bất kể mức tiêu thụ hàng hóa này
hoặc bất kỳ hàng hóa nào khác. Đằng sau giả định này là sự công nhận rằng các
thuộc tính được đo lường khách quan và nhận biết đầy đủ. Kết luận của lý thuyết
Lancaster không vi phạm các nền tảng tân cổ điển. Thay vì mô tả mối quan hệ giữa
hai hàng hóa, MRS mô tả mối quan hệ giữa hai thuộc tính.
2.2.3 Hàm lợi ích
Để phân tích một DCE, mỗi hồ sơ cá nhân của người trả lời có thể quy vào
một con số lợi ích duy nhất đại diện cho giá trị tổng thể của người đó. Điều này
được thực hiện bằng cách chỉ định trọng số từng thuộc tính sau khi tiêu chuẩn hóa
tất cả các giá trị trong mỗi thuộc tính với một giá trị trung bình bằng 0 với một đơn
vị độ lệch chuẩn. Các trọng số của mỗi thuộc tính sau đó có thể được sử dụng để
nhận được một sự kết hợp tuyến tính. Cách tiếp cận này có hiệu lực chuyển đổi mỗi
hồ sơ cá nhân đa thuộc tính vào một điểm duy nhất trên trục số thực. Mô hình dựa
trên cách tiếp cận này được gọi là các mô hình đền bù. Mô hình đền bù nổi tiếng
nhất là mô hình lợi ích cộng tính tác động cơ bản, trong đó trọng số biểu thị tầm
35
quan trọng được giao cho các giá trị trên từng thuộc tính. Các trọng số có thể được
xem như các phần giá trị mà làm cho tất cả các thang lợi ích tương xứng với nhau,
để giá trị từng phần (part-worths) (β) có thể được tổng kết để mang lại một lợi ích
duy nhất (tổng thể). Điều này là giống như nói rằng lợi ích của một phương án lựa
chọn bằng tổng của lợi ích của các bộ phận (thuộc tính) của nó. Coi Vi như một
hàm lợi ích gián tiếp có điều kiện và giả định rằng tiện ích là tuyến tính cộng tính,
các tiện ích quan sát được thay thế tôi có thể được viết là
(2.4) Vi = β xi Ui = βxi+ εi
Với xi = (x1i, x2i, ..., xpi) là vector các thuộc tính của phương án lựa chọn i bao gồm
một thuộc tính giá cả có thể được, và β là vector các trọng số (tham số) của các
thuộc tính. Đó là tiêu chuẩn thực hành trong một DCE để đảm nhận một hàm lợi ích
cộng tính tuyến tính (tuyến tính trong tham số và các biến giải thích). Thuộc tính
định lượng được mã hóa như chúng thể hiện, trong khi các thuộc tính chất lượng là
một thuộc tính giả hoặc mã tác dụng (Louviere 2000).Trong khi hai phương pháp
tiếp cận là tương đương, việc sử dụng mã hóa các hiệu ứng tạo điều kiện giải thích
là mức độ tác động cơ bản được tạo ra bằng với tổng trái dấu của các giá trị tham số
cho các loại khác; mặt khác, mã hóa giả hợp nhất các loại mức độ cơ sở vào trong
hệ số chặn (Mark & Swait 2004).
Khi so sánh (phân loại) hai thuộc tính, tỷ lệ thay thế biên (MRS) được ước
tính. MRS cho thấy sự đánh đổi giữa hai thuộc tính đặc trưng cho hàng hóa và do
đó là tầm quan trọng tương hỗ của các thuộc tính trong vấn đề. Cố định tổng lợi
ích,
(2.5)
và MRS sẽ trở thành
(2.6)
Khi một trong các thuộc tính là một thuộc tính chi phí, MRS cho biết sẵn sàng chi
trả (WTP) cho một sự thay đổi trong các thuộc tính chất lượng, tức là sẵn sàng chi
36
trả cận biên (MWTP), cũng được biết đến như là giá trị từng phần (part-worths).
Ký hiệu thuộc tính chi phí là p. Khi biến thu nhập được loại bỏ ra khỏi các mô hình
giá tuyến tính (Vì thế biến giá mang dấu âm trong phương trình 2.7), sẵn sàng chi
trả cận biên trở thành
(2.7)
Việc áp dụng một dạng hàm khác đối với giá, chẳng hạn như một hàm loga-tuyến
tính, sẽ làm cho các tính toán của MRS thay đổi cũng như các ước lượng MRS khi
đó sẽ phụ thuộc vào mức độ cần thiết của các biến được đưa vào. Điều này ngụ ý
rằng MWTP phụ thuộc vào mức độ xác thực của thu nhập.
Sự bao gồm các đại lượng tương tác
Đôi khi mang lại lợi ích bao gồm các đại lượng (các biến) tương tác trong các
hàm lợi ích. Các đại lượng tương tác có thể là tương tác giữa hai biến thuộc tính (ví
dụ x1 × x2) hoặc tương tác với các biến bổ sung, chẳng hạn như biến người cụ thể
(ví dụ s1 × x2, S biểu thị vector của các đặc tính cá nhân). Bao gồm các biến cá nhân
cụ thể (sociodemographics) trong mô hình làm cho nó có thể giải thích cho một số
tính không đồng nhất trong các sở thích giữa các cá nhân, mà có thể mang lại thông
tin rất quan trọng, và thực hiện phân tích phân nhóm. Khi tương tác, ký hiệu là Z,
lợi ích quan sát được của cá nhân n cho phương án thay thế i được đưa ra là
Vi = β xi + β zn (2.8)
Với Zn = (z1, z2, ..., Zr) biểu thị vector của các tương tác. Khi các thuộc tính cá nhân
cụ thể không thay đổi theo lựa chọn thay thế, họ chỉ có thể nhập vào mô hình theo
cách tạo ra sự khác biệt về lợi ích trong các phương án lựa chọn thay thế (xác suất
và do đó là ước lượng của các lợi ích được quy định như sự khác biệt trong các
thuộc tính lợi ích trong số các lựa chọn thay thế) (Train 2003). Các thuộc tính cá
nhân cụ thể do đó nhân với các biến thuộc tính riêng có lien quan. Việc bao gồm
các biến tương tác cần thiết làm tăng nhu cầu về dữ liệu (số quan sát). Đặc biệt, điều
37
quan trọng cần lưu ý là sự bao gồm thuộc tính tương tác hai chiều làm gia tăng yêu
cầu của thiết kế thử nghiệm. Hơn nữa, các biến tương tác cần phải được đưa vào
tính toán trong ước lượng MRS và các đo lường phúc lợi.
2.2.4 Mô hình hóa lựa chọn rời rạc
Ngược lại với CVM, mô hình là một yếu tố rất quan trọng trong ứng dụng của
DCE. Mô hình hóa sự lựa chọn liên quan rất chặt chẽ đến lý thuyết lợi ích ngẫu
nhiên (Random Utility Theory - RUT), mà có thể rất khó khăn để tách biệt hai khái
niệm. RUT được phát triển đồng thời với mô hình hóa sự lựa chọn như một cách để
giải thích hành vi quan sát thấy trong các thiết lập của lý thuyết kinh tế. Liên kết
RUT quan sát thấy sự lựa chọn hành vi giả định và phát triển một mô hình lựa chọn
thống kê giải thích sự lựa chọn quan sát. Các vấn đề tổng thể với các mô hình lựa
chọn được những khó khăn vốn có của toán học và thống kê, đặc biệt là trong
những năm 1970 và 1980, khi nhiều mô hình phát triển đã diễn ra. Sự sẵn có của
máy tính kỹ thuật số nhanh hơn trong vòng 30 năm trước đó, cùng với những tiến
bộ quan trọng trong công nghệ ước lượng, ước lượng của các mô hình lựa chọn dễ
dàng hơn và việc sử dụng các mô hình phức tạp hơn có thể (Keane, 1997).
Có rất nhiều mô hình có sẵn mà có thể được sử dụng trong ước lượng
DCE. Việc lựa chọn mô hình, trong số những mô hình khác, phụ thuộc vào thiết kế
của DCE. Các phương pháp DCE có thể được chia thành hai nhóm, tùy thuộc vào
việc lựa chọn các thiết lập bao gồm:
• Hai lựa chọn thay thế - làm phát sinh các mô hình lựa chọn nhị phân rời rạc
• Ba lựa chọn thay thế - làm phát sinh nhiều sự lựa chọn mô hình rời rạc
Từ quan điểm của nhà nghiên cứu, xác suất mà một cá nhân được lựa chọn một sự
thay thế trong khoảng giữa 0-1 (0-100%). Đối với mỗi tập lựa chọn, kết quả của
quyết định được đặc trưng bởi y. Khi lợi ích quan sát được cho một lựa chọn gia
tăng tới vô cùng, xác suất hội tụ tới 1, khi giảm lợi ích quan sát được, xác suất hội
tụ đến 0 (Greene 2003):
38
(2.9)
Như đã đề cập trước đó, các yếu tố quyết định sự lựa chọn của người trả lời có thể
được chia thành các yếu tố được quan sát bởi các nhà nghiên cứu (đã tỏ ra có), và
các yếu tố không được quan sát bởi các nhà nghiên cứu (Ký hiệu là ε). Những yếu
tố này liên quan đến sự lựa chọn của người trả lời, như sau:
y=h (x, ε) (2.10)
với hàm h[⋅] được gọi là hàm quá trình hành vi. Xác suất người trả lời chọn một
kết quả cụ thể, xác định bởi lựa chọn thay thế i, là xác suất mà thành phần sai số sao
cho quá trình hành vi dẫn đến kết quả đó
P(y/x) = prob[ε s.t. h(x, ε ) = y] (2.11)
Để hiểu điều này, chúng ta định nghĩa một hàm chỉ báo I[h (α, ε) = y] mà nhận
giá trị bằng 1 nếu tuyên bố về kết quả là đúng sự thật và 0 nếu sai. Điều này là
giống như nói rằng I[⋅] = 1 nếu giá trị ε kết hợp với α làm cho người trả lời lựa
chọn kết quả y, và I[⋅]= 0 nếu khác. Sau đó, xác suất mà người trả lời chọn y là giá
trị kỳ vọng của hàm chỉ thị này, với kỳ vọng là những giá trị dương của các yếu tố
không quan sát được, tức là tích phân của chỉ số về kết quả của quá trình hành vi
Pi =(I[ε s.t. h(x, ε ) = y]f(ε)d ε)
(2.12)
Xác suất cho các lựa chọn thay thế được cho là tích phân của tích của hàm chỉ số
với hàm mật độ f(ε), hàm xác định các hàm phân phối lũy tích. Xác suất của lựa
chọn thay thế j do đó trở thành
(2.13) Pj = Pi – 1
Để xác định xác suất lựa chọn chính xác, phân phối của biến ngẫu nhiên phải được
chỉ định, tức là tích phân phải được xác định. Tùy thuộc vào mô hình đang được áp
dụng, tích phân có thể có dạng đóng, đóng một phần hoặc dạng mở. Trong trường
39
hợp tích phân dạng mở, các mô hình trong câu hỏi là mô hình mô phỏng, xem Bảng
2.1.
Bảng 2.1: Mô hình được sử dụng để ước lượng các thí nghiệm lựa chọn rời rạc.
Mô hình lựa chọn rời rạc nhị phân
Mô hình lựa chọn rời rạc đa thức
2 lựa chọn thay thế
3 hoặc nhiều lựa chọn thay thế
Số lựa chọn thay thế trong tập lựa chọn Loại mô hình:
Dạng đóng hoàn toàn
Logit Nhị phân
Logit đa thức (MNL) logit lồng nhau (NL)
Logit hỗn hợp (ML)
Dạng đóng một phần/mô phỏng một phần
Mô phỏng hoàn toàn
Probit nhị phân
Probit đa thức (MNP) Hiệp phương sai không đồng nhất cạc trị (Heteroscedastic extreme value - HEV)
(Nguồn: Louviere 2000;Train 2003)
Tất cả các mô hình quy định trong bảng có một đường cong hình chữ s (hàm
phân phối lũy tích) biến thiên giữa 0 và 1, điều này làm cho chúng rất thích hợp để
làm việc với xác suất (trái ngược với một hàm xác suất tuyến tính). Đối với một
minh hoạ của đường cong hình chữ s-(logit và probit) và một hàm mật độ (chuẩn).
40
Hình 2.4: Các hàm phân phối lũy tích logit và probit
Hình 2.5: Hàm mật độ chuẩn
Với các hàm mật độ chung f(εn), các nhà nghiên cứu có thể làm cho xác suất
thể hiện lên sự lựa chọn của người trả lời. Giả sử rằng thay thế i khác thay thế j, xác
suất mà người trả lời lựa chọn thay thế i bây giờ có thể được viết như là một hàm
xác suất lũy tích:
41
(2.14)
trong đó I(⋅) là hàm chỉ số như được định nghĩa trước. Bằng cách kết hợp tất cả các
giá trị có thể có của εn, tổng xác suất thay thế lựa chọn được đưa ra. Các mô hình
lựa chọn rời rạc khác nhau được lấy từ các chi tiết kỹ thuật khác nhau của mật độ
này, có nghĩa là, từ các giả định khác nhau về sự phân bố của các phần không quan
sát được của lợi ích. Tích phân có thể nhận một dạng đóng, đóng một phần hay
dạng mở tùy thuộc vào các đặc điểm kỹ thuật của f(⋅). Logit (nhị phân cũng như đa
thức) và logit lồng nhau đã đóng các dạng biểu thức. Chúng là thứ phát theo các giả
thiết là các thành phần sai số này là độc lập và phân phối giống nhau (independent
and identically distributed - IID) là và phân phối cực trị (ví dụ phân phối
Gumbel/logistic). Các mô hình probit (nhị phân cũng như đa thức), mặt khác, là thứ
phát theo giả định rằng phần lợi ích không quan sát được có phân phối chuẩn. Logit
hỗn hợp được dựa trên giả định rằng các phần lợi ích không quan sát được bao gồm
một phần theo bất kỳ phân phối theo quy định của các nhà nghiên cứu cộng với một
phần là IID cực trị. Với probit và logit hỗn hợp, tích phân không có hình thức đóng
và được đánh giá số lượng thông qua mô phỏng.
2.2.4.1 Mô hình lựa chọn rời rạc nhị phân
Mô hình lựa chọn rời rạc nhị phân là mô hình rời rạc đơn giản nhất và áp dụng
và giải thích nhất. Điều đó có thể giải thích tại sao chúng là mô hình lựa chọn rời
rạc được ứng dụng phổ biến nhất. Mô hình lựa chọn rời rạc nhị phân được mô tả
như là mô hình giải thích biến phụ thuộc nhị phân (0/1) rời rạc. Hai Mô hình lựa
chọn rời rạc nhị phân nổi tiếng nhất là logit nhị phân và các mô hình probit nhị
phân. Sự khác biệt giữa hai mô hình là không đáng kể và nằm chủ yếu ở các đuôi,
(hình 2.4.)
Gọi hai lựa chọn thay thế trong các tập lựa chọn tương ứng là i và j, thành
phần không quan sát được, ε, được giả định là ngẫu nhiên với hàm mật độ f(ε) với
ε ≡ εj - εi
42
Xét trường hợp ε phân phối chuẩn, xác suất để phương án i được lựa chọn là
(2.15)
với Φ(⋅) biểu thị phân phối chuẩn chuẩn hóa lũy tích. Trong trường hợp của mô
hình logit, tham số ngẫu nhiên ε ≡ εj - εi có phân phối logistic, xác suất cho phương
án i có thể được lựa chọn là
(2.16)
Vì mô hình probit không có dạng đóng, hệ số được ước lượng thông qua một
loạt các mô phỏng. Trước đây điều đó được xem như là một bất lợi về phân tích, và
vì thế mô hình logit nhị phân, với dạng đóng của nó, thường được ưa chuộng do dễ
thao tác. Tuy nhiên, khi máy tính hiện đại giải quyết được hết các mô hình mô
phỏng thì lập luận này là không còn giá trị. (Greene 2003) lập luận rằng có thể có lý
do thực tế để thích một mô hình hơn các mô hình khác, nhưng khó xác định sự lựa
chọn của một phân bố dựa trên cơ sở lý thuyết. Ông cũng lưu ý rằng sự lựa chọn
của mô hình không xuất hiện để tạo ra nhiều sự khác biệt trong hầu hết các ứng
dụng. (Ohler 2000) đồng ý với điều này và thêm vào giả thiết của một phân phối
chuẩn (probit) hoặc phân phối một Gumbel (logit) là không quan trọng, cũng như
nhà nghiên cứu cần hàng ngàn đuôi quan sát để phát hiện sự khác biệt giữa 2 phân
phối.
Một vấn đề mà nhà nghiên cứu không cần phải nhận thức được, là probit và
các mô hình logit khác nhau về quy mô của các hệ số. Các mô hình logit có phương sai là var (εj - εi) = π 2/6, trong khi mô hình probit có một phương sai là var (ε j - ε i) = 1. Điều này ngụ ý rằng hệ số logit lớn hơn ≈ 1,3 lần so với các hệ số probit (xấp
xỉ hoạt động tốt nhất tại trung tâm phân phối). Do đó điều quan trọng là nhận thức
được về quy mô khi so sánh các ước lượng tuyệt đối từ hai mô hình.
43
2.2.4.2 Mở rộng các mô hình nhị phân: tác động ngẫu nhiên
Người trả lời thường được hỏi một loạt các bộ lựa chọn, có nghĩa là nhiều hơn
một quan sát được thu thập từ mỗi cá nhân trong các quan sát theo kiểu dữ liệu bảng
(panel data). Một số vấn đề có thể phát sinh bằng cách sử dụng dữ liệu bảng, khi mô
hình nhị phân “chuẩn” không thể xử lý các loại tình huống mà trong đó yếu tố
không quan sát được là tương quan (Train 2003). Vì người trả lời được yêu cầu thực
hiện nhiều hơn một sự lựa chọn, sự thay đổi trong phạm vi cá nhân qua sự lựa chọn
rời rạc không thể là ngẫu nhiên. Vì vậy, một tham số ngẫu nhiên được tự do tương
quan bên trong một cá nhân nhưng không tương quan chéo giữa các cá nhân là thích
hợp hơn. Mô hình các hiệu ứng ngẫu nhiên kết hợp như một tham số và do đó làm
tăng dữ liệu phù hợp. Đối với cá nhân n điều này ngụ ý rằng lợi ích được cho bởi
U = Vin + ε + μn (2.17)
Thành phần sai số εin là sai số ngẫu nhiên bao gồm sự thay đổi ngẫu nhiên qua các
lựa chọn rời rạc, trong khi μn là sai số ngẫu nhiên trên người trả lời và liên tục cho
mỗi cá nhân. Điều này có nghĩa rằng εin là sai số do sự khác biệt giữa các quan sát
và μn là sai do sự khác biệt giữa các người trả lời - gọi là sự biến động cá nhân cụ
thể. Biến động cá nhân cụ thể xuất hiện khi có một số tham số sở thích không quan
sát được làm cho 2 cá nhân nếu không giống hệt nhau trả lời khác nhau cho cùng
một sự lựa chọn. Do đó μn nắm bắt được độ biến thiên giữa các chủ đề - còn được
gọi là tính không đồng nhất giữa các cá nhân (Greene 2003).
Mô hình tác động ngẫu nhiên có thể được áp dụng cho mô hình logit và mô
hình probit. Một xem xét các tài liệu đã cho thấy rằng Mô hình tác động ngẫu nhiên
probit đến nay là mô hình nhị phân được áp dụng phổ biến nhất trong các mô hình
DCE. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là μn được giả định là phân phối
chuẩn và các Mô hình tác động ngẫu nhiên probit như vậy, dường như trực giác
chính xác như hai thành phần sai số có phân bố đồng nhất, tuy nhiên điều này
không ngăn cản việc sử dụng một đặc điểm kỹ thuật logit. (Wooldridge 2002) chỉ ra
rằng tác động ngẫu nhiên logit là không hấp dẫn như tác động ngẫu nhiên probit bởi
44
vì không có các ước lượng đơn giản tích hợp sẵn các phản ứng logit đối với mật độ
chuẩn không mang lại dạng hàm đơn giản
2.2.4.3 Mô hình lựa chọn rời rạc đa thức
Trong trường hợp lựa chọn đa thức, nguồn gốc của mô hình lựa chọn hữu ích
và phương pháp ước lượng phù hợp trở nên phức tạp hơn đối với phân tích lựa chọn
rời rạc nhị phân. Đặc biệt, nó không đơn giản để xác định phân phối đơn biến của
sự khác biệt trong các nhiễu. Thay vào đó, phân phối kết hợp hoàn chỉnh của tất cả
các sai số ngẫu nhiên phải được mô tả đặc điểm (Ben-Akiva Lerman 1985).
Mô hình logit đa thức (MNL-Multinomial logit), phát triển bởi McFadden
(1974), là mô hình đa thức được sử dụng nhiều nhất cho đến nay và với lý do chính
đáng có thể được coi là nguồn gốc của các mô hình đa thức. Mức độ phức tạp trong
ức lượng tăng lên nhanh chóng là một trong những lý do từ bỏ MNL và nới lỏng các
giả thiết cho các ma trận phương sai, hiệp phương sai. Các mô hình MNL có một
thuộc tính đặc biệt vì nó giả định về tính độc lập của các lựa chọn thay thế không
thích hợp (Independence of Irrelevant Alternatives -IIA). Điều này ngụ ý rằng xác
suất của việc lựa chọn một giải pháp thay thế là không bị ảnh hưởng bởi sự hiện
diện hay vắng mặt của bất kỳ lựa chọn thay thế được thêm vào nào khác trong tập
các phương án lựa chọn. Các giả thiết IIA cung cấp một số thuận lợi rõ ràng là nó
làm cho các mô hình MNL rất đơn giản để hoạt động. Tuy nhiên, các giả thiết IIA
cũng có một số thiếu sót nghiêm trọng. Đây là trường hợp khi các thuộc tính quan
sát được và không quan sát được của lợi ích không phải là độc lập với nhau hoặc
nếu các thành phần không quan sát được của lợi ích tương quan giữa các lựa chọn
thay thế, dẫn đến các thông số lợi ích bị chệch và các lỗi dự báo. Hộp 2.2 minh họa
các vấn đề liên quan đến thuộc tính IIA. Như mô tả ở trên, hạn chế IIA ngụ ý rằng
tỷ lệ chênh của Đơn giản để chứng minh rằng IIA giữ cho các mô hình MNL (Haan
2004):
(2.18)
45
Louviere (Bennett & Blamey năm 2001) lập luận rằng ngay cả với giả thiết chặt
chẽ của IIA, mô hình MNL vẫn còn rất hữu ích và mạnh, các hành vi vi phạm của
IIA có thể tránh được bằng cách bao gồm các biến tương tác như biến cá nhân
(nhân khẩu học xã hội- sociodemographics). Giả định của IIA có thể tránh được
bằng cách sử dụng một mô hình phức tạp hơn như logit lồng nhau, probit và logit đa
thức hỗn hợp. Do tăng công suất máy tính và sự phát triển của các mô hình mới để
giải quyết vấn đề của IIA, các mô hình này (đặc biệt là mô hình logit hỗn hợp) đang
được lợi thế, mặc dù MNL vẫn còn là một khung mô hình lựa chọn phổ biến. Xem
Bảng 2.2 cho một cái nhìn tổng quan về mô hình lựa chọn rời rạc nổi bật nhất được
áp dụng trong các tài liệu DCE.
46
Hộp 2.2. Một minh họa cho thuộc tính IIA
Giả sử rằng sở thích với việc chiếu phim được kiểm tra. Bên cạnh các
chương trình chiếu phim khác nhau (sự thay đổi ở các cấp thuộc tính), nó là rõ ràng
bao gồm một tùy chọn "opt-out", tức là trả lời có thể không muốn tham gia trong
chương trình phim (có lợi ích âm cho các chương trình nhất định). Để đơn giản ta
giả định rằng các lợi ích tượng trưng của việc tham dự / không tham dự là như nhau,
chẳng hạn xác suất lựa chọn là bằng nhau: PA = PN = ½ (xác suất tương đối = 1:1),
số người trả lời được thiết lập tại 60 cá nhân. Xét trường hợp trong đó nó được
quyết định bao gồm hai chương trình chiếu phim tập các phương án lựa chọn, như
vậy người trả lời có thể chọn giữa hai chương trình chiếu phim và không có chương
trình chiếu phim. Do xác suất lựa chọn được giả định (PA = PN = ½), chúng ta sẽ
thực hiện các kiểu mẫu xác suất sau đây:
chiếu phim 2 không chiếu
chiếu phim 1 P=1/4 n=15 P=1/4 n=15 P=1/ phim n=30 2 trong đó các xác suất tương đối: chiếu phim 1/chiếu phim 2/không chiếu phim =
01:01:02.
Rõ ràng là chiếu phim 1 và 2 có một số thuộc tính làm cho chúng giống nhau hơn là
lựa chọn không chiếu phim (tức là chúng có mối tương quan). Đây là những gì gây
ra vấn đề: mô hình MNL không tính đến các kiểu xác xuất như vậy. Giả thiết IIA
ngụ ý rằng mô hình MNL sẽ xử lý tất cả các lựa chọn thay thế giống nhau và do đó
buộc các kiểu mẫu xác suất sau đây vào sự lựa chọn quan sát:
chiếu phim 1 P=1/3 n=20
không chiếu P=1/3 phim chương n=20 trình chiếu phim chiếu phim 2 P=1/4 N=2 3 0
Xác suất tương đối: chiếu phim 1/chiếu phim 2/không chiếu phim = 01:01:01
47
Bảng 2.2: Tổng quan các mô hình đa thức
Mô hình lựa Ghi chú: Xác suất lựa chọn, Pni = chọn rời rạc
Logit đa thức Mô hình sơ cấp và được
(Multinomial sử dụng nhiều nhất. Ưu
logit -MNL) – điểm là ước lượng đơn
còn gọi là logit giản, dạng đóng và tính
có điều kiện bền vững.
(conditional Giả thiết IID:Các yếu tố
logit) không quan sát được
không tương quan trong
các phương án lựa chọn
và phương sai đồng nhất
cho tất cả các lự chọn,
được gọi là IIA. Vi phạm
IIA gây ra độ chệch. Có
một số kiểm định có thể
kiểm tra độ chính xác của
IIA (e.g. Train 2003 pp.
53). Không giải thích cho
sự tương quan trong chuỗi
lựa chọn của mỗi người
trả lời.
Probit đa thức ~N(0,Ω). Các ma trận
(Multinomial hiệp phương sai Ω chứa
probit -MNP) mọi kiểu tương quan và
hiệp phương sai không
đồng nhất và do đó làm
cho nó có thể xử lý mối
48
tương quan trên lựa chọn
thay thế và thời gian. Đây
là lợi thế chính của việc sử
dụng các probit.Chức năng
hạn chế phát sinh từ giả
định phân phối chuẩn (mật
độ ở cả hai bên bằng
không).
Logit lồng nhau λk (được gọi là đại lượng
(Nested logit - giá trị toàn diện = thước đo
NL) của mức độ độc lập trong
lợi ích không quan sát
được trong số các lựa chọn
thay thế trong tổ hợp k
NL cho phép sự tương
quan của các sai số trong
một tổ hợp nhưng không
phải cho bất kỳ hai lựa
chọn thay thế trong các tổ
hợp khác nhau (tức là giả
định của IIA trong một tổ
hợp)
Phương sai Cho phép phương sai của
không đồng các yếu tố không quan sát
nhất cực trị được khác nhau trong các
(Heteroscedastic lựa chọn thay thế, tức là
extreme value - phương sai (tham số quy
HEV) mô) có một dạng hàm
49
Logit hỗn hợp - Không chịu ảnh hưởng
mô hình các IIA, đặt các tương quan
tham số ngẫu giữa các quan sát theo
nhiên (Mixed bảng và giải thích cho tính
logi – Random không đồng nhất không
parameters kiểm soát được trong thị
model) hiếu người trả lời.Cho
phép các yếu tố không
quan sát được theo phân
phối bất kỳ. Các yếu tố
không quan sát được phân
tách thành hai phần: một
phần theo phân phối bất kỳ
và do đó chứa tất cả các
tương quan và hiệp
phương sai không đồng
nhất, và một phần khác
tuân theo phân phối IID
cực trị loại 1. Trong các tài
liệu thống kê, trung bình
có trọng số của một số
hàm được gọi là phân phối
hỗn hợp, hay logit hỗn hợp
.Giả sử rằng việc phân
phối hỗn hợp rời rạc trong
tự nhiên gây ra các lớp mô
hình tiềm tàng
Nguồn: (Ben-Akiva & Lerman 1985; Bennett & Blamey năm 2001; Louviere 2000;
Train 1993; Train 2003.)
50
Các mô hình logit lồng nhau
Mô hình logit lồng nhau là một sự tổng quát của mô hình logit đa thức cho
phép một dạng cụ thể của tương quan trong lợi ích không quan sát được(tức là sự
khác biệt trong độ co giãn chéo thay thế qua các lựa chọn thay thế). Do đó các mô
hình logit lồng nhau là thích hợp khi tập các lựa chọn thay thế phải đối mặt với một
người ra quyết định có thể được chia ra thành các tập con, được gọi là tổ (Train
2003). Một cấu trúc lồng nhau cho thấy rằng người trả lời ban đầu chọn giữa ví dụ
như Làm gì đó, và 'không Làm gì' (mô hình trên xác suất cận biên) và rồi sau đó lựa
chọn giữa lựa chọn thay thế khác nhau nếu nhánh “làm gì đó” được lựa chọn (mô
hình thấp hơn / có điều kiện xác suất)
Các tính chất của mô hình logit lồng nhau trong một tổ tuân theo IIA, trong khi IIA
không rang buộc giữa các tổ. Mô hình logit lồng nhau do đó cung cấp một cách để
liên kết các quyết định khác nhau nhưng phụ thuộc lẫn nhau, và để phân tích một
quyết định duy nhất để giảm thiểu những hạn chế của lựa chọn chéo thay thế tương
đương. Các mô hình logit lồng nhau cung cấp một cách để xác định các mối quan
hệ giữa sự lựa chọn hành vi ở mỗi cấp độ của tổ, và cũng cho phép các nhà nghiên
cứu để kiểm tra sự thống nhất của cấu trúc (lồng nhau) phân vùng với điều kiện tối
đa hóa lợi ích ngẫu nhiên (Louviere 2000).
Cấu trúc lồng nhau Cấu trúc MNL
Lựa chọn Lựa chọn
Xem phim Phim 1 Phim 2 Không xem phim Không xem phim
Phim 1 Phim 2
Hình 2.6: Một so sánh các mô hình cấu trúc lồng nhau logit và cơ cấu đa thức
51
Một tính chất đặc biệt của mô hình logit lồng nhau là phương trình sau đây bắt
nguồn từ xác suất có điều kiện:
(2.19)
Sắp xếp lại đối với λk
(2.20)
Bk biểu thị tập hợp con các lựa chọn thay thế trong tổ thứ k. Chỉ số này thường
được gọi là giá trị toàn diện (IV), hoặc cách khác, tiện ích tối đa dự kiến hoặc
logsum, trong khi λk là hệ số giá trị toàn diện. Các giá trị toàn diện xác định một chỉ
số lợi ích liên kết với một tập được phân chia các lựa chọn thay thế và có thể được
hiểu là lợi ích dự kiến mà người trả lời n nhận từ sự lựa chọn trong số các lựa chọn
thay thế trong tổ Bk. Hơn nữa, λk phản ánh mức độ độc lập giữa các phần không
quan sát của lợi ích cho các lựa chọn thay thế trong tổ Bk. Để được phù hợp với tối
đa hóa lợi ích, λk phải nằm giữa đoạn [0;1]. Khi hệ số có xu hướng hướng tới 1,
tương quan giữa các thành phần không quan sát được của lợi ích cho các lựa chọn
thay thế trong tổ giảm; và khi λk = 1, tương quan không tồn tại và xác suất lựa chọn
trở thành một MNL. Do vậy, kiểm định rang buộc λk = 1 (bằng kiểm định log-
likelihood) là giống như kiểm định liệu mô hình MNL chuẩn có phải là một kỹ
thuật tốt hơn so với mô hình logit lồng nhau thông thường hay không. Ngược lại,
nếu λk = 0, không có sự độc lập tồn tại giữa hai tổ và việc ra quyết định có thể được
được tách ra thành hai chiến lược khác biệt. Điều này ngụ ý rằng giao dịch không
xảy ra giữa hai tổ, và theo kinh nghiệm hành vi này được tiết lộ là mỗi người trả lời
thống nhất lựa chọn một trong hai hai lựa chọn thay thế xem phim hay lựa chọn
không xem phim. Hơn nữa, (Train 2003) lưu ý rằng, khi λk → 0, mô hình logit lồng
nhau tiếp cận đến mô hình “loại bỏ bởi các mặt” (elimination by aspects) của
Tversky (1972).
Mô hình Logit tham số ngẫu nhiên
52
Các mô hình các tham số ngẫu nhiên (random parameters model - RPL) là một
kỹ thuật của logit hỗn hợp trong đó các hệ số được giả định là ngẫu nhiên (trái
ngược với các đặc điểm kỹ thuật các thành phần sai số, trong đó giải thích của mô
hình khác với mô hình các thông số ngẫu nhiên). Tiến bộ đáng kể đang được thực
hiện trong việc áp dụng các mô hình phức tạp hơn như mô hình RPL và tính năng tố
hơn của các gói máy tính bao gồm các tquy trình chuẩn cho các mô hình như
vậy. Mặc dù mô hình RPL chưa được hiểu rõ, có khả năng là số lượng các nghiên
cứu DCE áp dụng RPL sẽ tăng đáng kể trong những năm tiếp theo. RPL xuất hiện
có một số lợi thế hơn các mô hình lựa chọn rời rạc khác vì nó cung cấp cho các nhà
nghiên cứu thông tin quý báu liên quan đến việc giải thích một phần không quan sát
được của lợi ích, và cung cấp các ước lượng không chệch thậm chí nếu tính không
đồng nhất không quan sát được được thể hiện trong các dữ liệu. Train (1998) lưu ý
rằng các chi tiết kỹ thuật logit và logit lồng nhau có nhiều lợi thế, bao gồm cả tính
đơn giản trong ước lượng, nhưng các mô hình tương tự cũng áp đặt một số hạn chế
riêng biệt nổi tiếng không phải luôn luôn được mong muốn. Trong số này có:
Hệ số của các biến vào mô hình được giả định là giống nhau cho tất cả
người trả lời, tức là trả lời có sở thích đồng nhất. Điều này ngụ ý rằng
người trả lời với đặc điểm quan sát được giống nhau (khi tính toán cho
các ước lượng) đánh giá các thuộc tính như nhau.
Các giả định IIA logit và logit lồng nhau, điều này ngụ ý rằng các mô
hình đổi xác suất của các lựa chọn thay thế khác tương ứng.
Mô hình logit (bao gồm cả logit lồng nhau) giả định rằng các yếu tố
không quan sát độc lập về thời gian đối với mỗi người trả lời. Trong một
thiết lập thử nghiệm lựa chọn rời rạc, điều này ngụ ý rằng yếu tố không
quan sát độc lập trên tập lựa chọn của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, có thể
những yếu tố không quan sát ảnh hưởng đến người trả lời lựa chọn là liên
tục (tương quan) trong tập lựa chọn. Giả định này cùng với giả định các
yếu tố quan sát được không đổi cho mỗi cá nhân đưa, đến giả định về sở
thích ổn định cho mỗi cá nhân, tức là thị hiếu tương tự được sử dụng bởi
53
người trả lời để đánh giá mỗi tập lựa chọn (thay thế). Giả định này là phù
hợp với lý thuyết hành vi kinh tế hợp lý.
Một tham số được tìm thấy là không có ý nghĩa có thể được hiểu theo hai cách:
1. Đó là biến (thuộc tính) kết hợp với tham số không ảnh hưởng đến sự lựa
chọn của người trả lời. Điều này ngụ ý rằng thuộc tính này (như xuất hiện
trong các thử nghiệm với mức độ gán) không được xem là quan trọng cho
người trả lời.
2. Đó là các sở thích không đồng nhất tồn tại. Trong trường hợp này, thuộc
tính không ảnh hưởng đến lựa chọn của người trả lời, nhưng với một số
người trả lời thích một cấp thuộc tính và một số thích một mức thuộc tính
khác hơn (và v.v tùy thuộc vào số lượng cấp độ). Mức độ Thuộc tính ảnh
hưởng bù cho nhau và cho kết quả của ước lượng tham số không ý nghĩa.
Ưu điểm của mô hình các tham số ngẫu nhiên là khả năng tách những hiệu ứng
này và do đó cho phép giải thích chính xác các thông số không ý nghĩa (ví dụ như
Train 1998).
Làm việc thông qua RPL từng bước (dựa trên Hensher & Greene 2002; Train
2003), chúng ta biết từ phương trình2.1, lợi ích có thể được chia thành hai phần:
một quan sát và một phần không quan sát được,
Uni = Vni + εni = βxni + εni (2.21)
Thay vì giả thiết β cố định, β được giả định khác nhau giữa những người trả lời, do
đó đặt βn = β + θn với β là giá trị trung bình của hệ số và θn một thành phần ngẫu
nhiên để phản ánh các tác động cá nhân không quan sát được, chẳng hạn như thị
hiếu. Các hàm lợi ích bây giờ trở thành
Uni = Vni + εni = βn xni + εni = (β + θn) xni + εni (2.22)
Giả sử rằng εni là IID cực trị loại 1, xác suất lựa chọn thay thế i trở thành
(2.23)
54
Nếu θn =0, khi đó βn sẽ được biết đầy đủ và mô hình các tham số ngẫu nhiên sẽ suy
biến thành mô hình logit chuẩn. Tuy nhiên, nếu các nhà nghiên cứu không biết thị
hiếu cá nhân của người trả lời, khi đó các hệ số khác nhau trong tổng thể với mật độ
ký hiệu là f(βn | β, θ) với β biểu thị giá trị trung bình và θ là các tham số của phân
phối này (thường đại diện độ lệch chuẩn của thị hiếu trong tổng thể). Khi nhà
nghiên cứu không quan sát được thị hiếu thực tế, xác suất trở thành tích phân của Lni
trên tất cả các giá trị có thể của β, được tính theo mật độ của β. Xác suất sự lựa
chọn vô điều kiện do đó là tích phân của các đặc điểm kỹ thuật logit trên tất cả các
giá trị có thể có của βn:
(2.24)
Xác suất được xấp xỉ thông qua sự mô phỏng cho bất kỳ giá trị của θ, tức là cho một
giá trị của các tham số θ, một giá trị của β được rút ra với phân phối của nó (gọi là βr, r cho biết lần rút thứ r). Thủ tục này được lặp đi lặp lại đối với nhiều lần rút, và
được kết luận bằng cách lấy trung bình các kết quả. Khi đó, giá trị trung bình chính
là xác suất mô phỏng (simulated probability - SP)
(2.25)
với R là số lần rút ngẫu nhiên. Các xác suất mô phỏng được đưa vào hàm log-
likelihood. Trong trường hợp mỗi người trả lời được yêu cầu nhiều hơn một sự lựa
chọn - đó là trường hợp nhiều DCEs - đó là tiêu chuẩn để sử lý các hệ số khác nhau
trên người trả lời nhưng không đổi theo tình huống lựa chọn (số lượng các tình
huống sự lựa chọn ký hiệu là t) cho mỗi người trả lời . Điều này tương tự như giả
thiết rằng người trả lời có sở thích ổn định và ngụ ý rằng hàm lời ích và xác suất vô
điều kiện cho một chuỗi các sự lựa chọn trở thành (Revelt & Train 1998)
55
(2.26)
(2.27)
Một yếu tố quan trọng trong việc sử dụng mô hình RPL là giả định về phân
phối của mỗi hệ số ngẫu nhiên. Điều này không dễ dàng, nhưng liên quan đến việc
xem xét để các phương pháp tiếp cận trực quan nhất. Hơn nữa, theo ghi nhận của
Carlsson (2003), sự lựa chọn thường được giới hạn bởi những khó khăn của mô
hình ước lượng và sự sẵn có của phần mềm kinh tế. Các dạng hàm phổ biến nhất là
Hensher & Greene (2002):
Chuẩn
Logarit tự nhiên
Phân phối tam giác (triangular distribution)
Đồng nhất
Phân phối chuẩn và Logarit tự nhiên đặc biệt phổ biến. Phân phối Logarit tự nhiên
đặc biệt thích hợp cho các thuộc tính có xu hướng để có một dấu hiệu cụ thể - chẳng
hạn như thuộc tính chi phí - khi phân phối này có giá trị dương (việc sử dụng của
một phân phối chuẩn đối với một hệ số giá sẽ hàm ý rằng một số tỷ lệ dân số thích
giá cao hơn). Phân phối đồng nhất là một cách tiếp cận hợp lý cho biến giả, trong
khi phân phối hình tam giác (đáy nằm trên) và phân phối chuẩn là thích hợp cho các
thuộc tính, với kỳ vọng người trả lời sẽ có sở thích âm hoặc dương khác nhau về các
thuộc tính (với phân phối hình tam giác, có tỷ lệ phần trăm cao hơn là âm).
Trong thực tế, các nhà nghiên cứu thấy rằng phân phối nào cũng có những
điểm mạnh và điểm yếu. Ví dụ, một vấn đề đặc biệt liên quan đến ứng dụng của
Phân phối Logarit tự nhiên là đuôi không bị ràng buộc (so với phối chuẩn). Áp dụng
một phân phốinhư vậy cho các thuộc tính chi phí sẽ cho kết quả trong một số cá
nhân được giả định có WTP không giới hạn. Khía cạnh này là không mong muốn vì
56
nó là hành vi không thực tế và xung đột với các ý tưởng về việc ra quyết định
bù. Một giải pháp có thể cho vấn đề này (và hạn chế liên quan đến các phân phối
khác) là áp đặt những hạn chế về phân phối, tức là đặt giới hạn. Ví dụ như việc giới
hạn phân phối chuẩn trong một cách mà nó chỉ có thể nhận giá trị một dấu làm cho
nó phù hợp với các thuộc tính trong đó sở thích chỉ là âm hay dương, phân phối
chuẩn bị chặn trong trường hợp này có lợi thế hơn so với phân phối logarit tự nhiên,
nhưng tại cùng một thời gian giới hạn. Quy trình hạn chế phân phối dẫn đến các khó
khăn về số học mà cho đến nay đã hạn chế việc áp dụng các phương pháp như vậy
(Train & Sonnier năm 2003).
McFadden & Train (2000) chỉ ra rằng bất kỳ mô hình tối đa hóa lơi ích ngẫu
nhiên đều có thể được xấp xỉ bởi các mô hình logit hỗn hợp với một sự lựa chọn
thích hợp của các biến và kết hợp phân phối. Tính chất này của logit hỗn hợp có thể
là một lý do để lựa chọn một mô hình như vậy - ví dụ như so sánh với logit lồng
nhau. Train (2003) cảnh báo rằng thay việc thế mô hình như vậy nên được thực hiện
cẩn thận vì nó làm giảm độ chính xác. Trong trường hợp bằng cách sử dụng một
logit hỗn hợp để đại diện cho mô hình thay thế của một logit lồng nhau, không tách
rời hình thức đóng của logit lồng nhau được thay thế bằng một tích phân cần phải
được mô phỏng. Train cho thấy rằng lợi thế duy nhất của logit hỗn hợp là trong tình
huống mà rất nhiều cấu trúc lồng nhau là để được kiểm tra và một số hệ số được giả
định là ngẫu nhiên. McFadden & Train (2000) đã phát triển một kiểm định xác định
sự cần thiết để trộn lẫn. Kiểm định được thực hiện hoàn toàn vào mô hình ước
lượng MNL. Hai mô hình MNL được so sánh: Mô hình 1 có chứa các biến thuộc
tính và mô hình 2 có chứa các biến thuộc tính và biến giả, zi, cho các thành phần
được chọn của xi
(2.28)
sau đó một chỉ số kiểm định Likelihood hoặc Khi bình phương được sử dụng cho
giả thuyết rằng các biến nhân tạo nên được bỏ qua từ các mô hình MNL. Nếu giả
thuyết bị bác bỏ, việc kết hợp là cần thiết.
57
2.2.4.4 Phương pháp ước lượng – hàm likelihood
Việc ước lượng các mô hình lựa chọn thường dựa vào phương pháp tối đa hóa
hàm likelihood. Phương pháp ước lượng maximum likelihood là rất nặng nề và hầu
như không thể áp dụng mà không có một máy vi tính. Phương pháp này dựa trên ý
tưởng là một mẫu nhất định có thể được tạo ra bởi các tổng thể khác nhau, và có
nhiều khả năng đến từ một tổng thể hơn so với tổng thể khác. Như vậy, các ước
lượng maximum likelihood là tập các thông số của tổng thể mà tạo ra các mẫu quan
sát thường xuyên nhất (Louviere et al. 2000). Hãy xem xét hàm likelihood của mẫu
quan sát bất kỳ. Từ chúng, theo giả thiết, được rút ra một cách ngẫu nhiên từ toàn
bộ tổng thể, likelihood của toàn bộ mẫu là tổng của các khả năng của các quan sát
cá nhân (Ben-Akiva & Lerman 1985). Các hệ số được ước tính bằng cách tối đa hóa
hàm likelihood.
Có rất nhiều phần mềm máy tính có chứa các chương trình ước lượng các mô
hình lựa chọn rời rạc với lợi ích biểu diễn tuyến tính theo tham số. Trong số này có
SAS, Stata, Gauss và Limdep.
Chỉ số kiểm định likelihood (The likelihood ratio test)
Với hồi quy, thống kê t chuẩn (standard t-statistics) được sử dụng để kiểm tra
các giả thuyết về các tham số cá nhân trong các mô hình lựa chọn rời rạc. Tuy
nhiên, đối với các giả thuyết phức tạp hơn, Chỉ số kiểm định likelihood (LL-test) có
thể được sử dụng. LL-test được sử dụng trong cùng một cách mà một F-test được sử
dụng trong ước lượng bình phương tối thiểu thong thường. Ví dụ như việc kiểm
định có thể được sử dụng để kiểm định giả thuyết không rằng tất cả các tham số đều
bằng 0; tuy nhiên, kiểm định này là không hữu ích cho mục đích này, bởi vì các giả
thuyết không hầu như luôn luôn bị bác bỏ ở mức ý nghĩa thấp. Ứng dụng hữu ích
nhất của LL-test là cho các giả thuyết cụ thể hơn như kiểm định giả thuyết không
rằng một vài thông số bằng 0, hai hoặc nhiều tham số bằng nhau hoặc như là một
tiêu chí lựa chọn mô hình (bằng cách sử dụng cùng một dữ liệu).
Thống kê kiểm định là:
58
(2.29)
Với biểu thị giá trị tối đa giới hạn của hàm likelihood dưới giả thuyết không và
biểu thị giá trị tối đa không giới hạn của hàm likelihood. Thống kê được sử dụng
là phân phối Khi bình phương với (KU -KR) bậc tự do, trong đó K là số lượng
các tham số ước lượng. Nếu giá trị của LL-test vượt quá giá trị Khi bình phương tới
hạn thì giả thuyết không bị bác bỏ. Lưu ý rằng chỉ có thể so sánh ước lượng log-
likelihood cho các mô hình chia sẻ giả định phân phố phổ biến, ví dụ như mô hình
MNL so với mô hình RPL tổng quát hơn.
Mức độ phù hợp
Ngược lại với mô hình hồi quy tuyến tính, không có tiêu chuẩn đánh giá đơn
nào cho mức độ phù hợp trong các mô hình lựa chọn rời rạc. Một trong những biện
pháp đánh giá mức độ phù hợp nổi tiếng nhất tốt đẹp của phù hợp nổi tiếng là McFadden R2 (cũng được gọi là pseudo R2). Nó được định nghĩa như sau:
(2.30)
Tử số là giá trị của các hàm log-likelihood tại các tham số ước lượng và mẫu số là
giá trị của nó khi tất cả các tham số được đặt bằng 0. Nếu các tham số ước lượng được là không thích hợp thì tử số bằng mẫu số và R2 = 0. Tương tự như vậy, R2 = 1
khi sự lựa chọn của người trả lời có thể được hoàn toàn dự đoán. Chênh lệch giữa
hai giá trị log-likelihood càng lớn, mô hình mở rộng càng thêm vào mô hình rất hạn chế (Verbeek 2000). Điều quan trọng cần lưu ý rằng McFadden R2 (và các phương
pháp khác đánh giá mức độ phù hợp của các mô hình lựa chọn rời rạc) không thể so sánh với OLS R2 trong việc giải thích của nó. OLS R2 giải thích mức độ mà biến phụ thuộc được giải thích bởi mô hình ước lượng. McFadden R2 không có ý nghĩa
trực quan cho các giá trị nằm giữa hai thái cực (ρ = 0, 1). Đó là tỷ lệ gia tăng trong
log-likelihood ở trên giá trị được thực hiện tại tham số 0. Tuy nhiên, ý nghĩa của sự
thay đổi tỷ lệ phần trăm như vậy không phải là khá chắc chắn. Một ứng dụng hợp lệ
và có thể có của biện pháp này là sự so sánh của một số mô hình với cùng một dữ
59
liệu và với cùng một lựa chọn thay thế. Trong trường hợp này, các mô hình với R2
cao nhất phù hợp với các dữ liệu tốt nhất và do đó là được ưa thích hơn những mô
hình khác (Train 1993). Trong một số trường hợp, nó là thích hợp để áp dụng các
phowng pháp đánh giá mức độ phù hợp điều chỉnh, xử lý lợi cho giảm bậc tự do
xảy ra khi một mô hình được mở rộng. Tiêu chuẩn thông tin Akaike (Akaike
information criterion - AIC) và (Bayesian information criterion - BIC) là hai biện
pháp như vậy (Greene 2003).
Một mực độ phù hợp thống kê là phần trăm dự báo chính xác. Lựa chọn thay
thế với xác suất cao nhất được xác định cho mỗi người trả lời và sau đó xác định
phải hay không phải là thay thế được lựa chọn. tuy nhiên, Train (1993) và Verbeek
(2000) tranh luận con số thống kê này cung cấp thông tin thậm chí còn ít hơn về mô hình hơn McFadden R2 và, ngoài ra, nó giải thích sai bản chất của xác suất.
60
CHƯƠNG III
ĐÁNH GIÁ SẴN SÀNG CHI TRẢ CỦA HỘ GIA ĐÌNH
CHO GIẢM THIỆT HẠI LŨ Ở NGHỆ AN
3.1 Các câu hỏi Nghiên cứu
Mục tiêu chính là để ước tính các hộ gia đình Việt giảm giá trị nguy cơ lũ lụt.
Trong đoạn này, chúng ta xác định chính xác hơn “giảm nguy cơ lũ lụt" tốt, sđánh
giá bằng tiền.
3.1.1 Xác định " sự giảm nguy cơ lũ lụt" tốt
Mục tiêu chính của đề tài là để đo lường việc làm giảm giá trị thiệt hại do lũ
lụt ở Việt Nam. Cách đầu tiên sẽ được xem như danh mục đầu tư chiến lược có thể
được thực hiện để giảm nguy cơ của lũ lụt. Khó khăn chính với cách tiếp cận này là
có khả năng một số lượng lớn các biện pháp có thể được thực hiện để giảm nguy cơ
lũ lụt và tác động của lũ. Như thường thấy trong các tài liệu quản lý lũ lụt, các biện
pháp có thể được chia thành ba loại.
Đầu tiên là các biện pháp sống chung với lũ, có nghĩa là điều chỉnh lối sống
của người dân để tận dụng được hầu hết những lợi ích của lũ lụt trong khi hạn chế
thiệt hại. Các biện pháp này thường liên quan đến các chính sách như: kiểm soát đất
lâm nghiệp (chính sách trồng rừng, phát triển rừng ngập mặn, vv), kiểm soát đồng
cỏ (đồng cỏ ngăn chặn lũ lụt thông qua khả năng tăng lượng nước thấm, giảm tốc độ
dòng chảy và giảm xói mòn), kiểm soát đất canh tác (luân canh, canh tác trên đất
dốc, vv) và kiểm soát đất nói chung (tất cả các biện pháp giảm xói mòn hoặc giữ
cho lưu lượng nước trong các kênh sông và lưu vực thoát nước ở mức tối đa).
Các biện pháp phi công trình làm giảm tác động của lũ lụt bằng cách điều
chỉnh hiệu quả hơn lũ lụt vùng đồng bằng hoặc bằng cách phản ứng thích hợp hơn
khi các cơn bão đang đến gần. Các biện pháp này là dotính phức tạp của các hiện
tượng tự nhiên, chúng bao gồm các chính sách sau đây: quy hoạch vùng lũ (hạn chế
61
các khu định cư tại các khu vực có nguy cơ cao), đặt ra các quy định (hướng dẫn
xây dựng để hạn chế thiệt hại lũ lụt), giáo dục và chuẩn bị ứng phó cho dân cư, đê
chịu ngập (cấu trúc nhỏ ngăn chặn lũ lụt gây thiệt hại cho mùa màng), dự báo lũ và
cảnh báo lũ, kế hoạch sơ tán, bảo vệ tạm thời (đắp bao cát chẳng hạn), bảo hiểm
(nguy cơ lũ lụt chuyển giao cho một bên thứ ba).
Cuối cùng, các biện pháp công trình tương ứng với tất cả các công trình sử
dụng nhiều vốn đạt tiêu như đê điều, hồ chứa. Các biện pháp này thường bao gồm
đê sông và đê bao (vật liệu tự nhiên hoặc nhân tạo có tác dụng như rào cản chống
lại lũ lụt), đê biển (tường đất nhân tạo được xây dựng để ngăn chặn lũ lụt vào vùng
phía sau), tường ngăn lũ (phục vụ các chức năng tương tự như đê, đê bao nhưng
kích thước nhỏ hơn mà làm cho chúng thích hợp khi không gian bị giới hạn), đập và
hồ chứa, kênh nhánh (hoạt động để thay đổi độ dốc của lòng sông), kênh dẫn dòng
(các kênh kết nối các hồ chứa hoặc lưu vực tới hệ thống sông ngòi).
Thay vì ước lượng WTP cho một chính sách quản lý lũ lụt cụ thể, đề xuất được
đưa ra là đánh giá trực tiếp các mục tiêu của một chính sách lũ mà không cần xác
định nó một cách chính thức. Theo chiến lược quốc gia của Việt Nam về phòng
chống thiên tai, ứng phó và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020, mục tiêu chính của
chính sách lũ lụt tại Việt Nam là “huy động các nguồn lực để thực hiện có hiệu quả
phòng chống thiên tai, ứng phó và giảm nhẹ thiên tai từ nay đến năm 2020 để giảm
thiểu thiệt hại của về người và tài sản, thiệt hại tài nguyên thiên nhiên và di sản văn
hóa, và sự xuống cấp của môi trường, góp phần đáng kể để đảm bảo sự phát triển
quốc gia bền vững, quốc phòng và an ninh”. Giảm tổn thất về người rõ ràng là mục
tiêu chính của chính sách quản lý lũ lụt tại Việt Nam. Mục tiêu thứ hai là để giảm
thiệt hại kinh tế do xảy ra lũ lụt. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét hai loại thiệt hại kinh
tế cho các hộ gia đình: thiệt hại nhà do lũ lụt và thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp.
Để tóm tắt, một chính sách quản lý lũ lụt sẽ được đặc trưng bởi khả năng giảm nguy
cơ mất mát của con người , nguy cơ sức khỏe đối với các hộ gia đình (tất cả các loại
chi phí liên quan đến sức khỏe do lũ lụt), nguy cơ thiệt hại cho nhà ở và nguy cơ
62
thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Chúng tôi muốn đánh giá WTP của hộ gia đình
Việt Nam cho các tiêu chí này của một chính sách quản lý lũ lụt.
3.1.2 WTP và các tổ chức phụ trách quản lý lũ lụt
Phỏng đoán của chúng ta là WTP cho một chính sách quản lý đặc biệt là lũ lụt
có thể bị ảnh hưởng bởi các tổ chức chính trị (nhà nước, tỉnh, huyện, làng xã) phụ
trách nó thực hiện. Một số lý do có thể biện minh cho dự đoán này. Đầu tiên, mỗi
cấp độ thể chế phụ trách một số chính sách quản lý lũ lụt cụ thể và có một số trách
nhiệm cụ thể, thậm chí có thể thấy rõ ràng là tất cả các chính sách quản lý lũ lụt
được phối hợp ở cấp trung ương do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tiếp
đó, một hộ gia đình có thể có một WTP cao hơn cho một chương trình được thực
hiện bởi một tổ chức nhất định bởi vì tổ chức này phụ trách một số chính sách quản
lý lũ lụt ảnh hưởng đến phúc lợi của mình. Một lý do khác là các hộ gia đình có thể
có sở thích cụ thể cho một cấp độ cung cấp bảo vệ lũ tập trung hay phi tập trung.
Wandschneider (1984) lập luận rằng việc thiếu các nguồn lực địa phương (kỹ thuật
và tài chính), sự tồn tại tính phi kinh tế theo quy mô, và ảnh hưởng của các nhóm
lợi ích địa phương có thể dẫn đến một phân cấp quản lý không hiệu quả trong cung
cấp hàng hóa công cộng. Besley và Coate (2003) đã chỉ ra rằng sự tham gia của các
bên liên quan địa phương trong quá trình ra quyết định trong nhiều trường hợp làm
cho chính phủ trung ương đáp ứng hiệu quả và công bằng hơn các nhu cầu địa
phương, và do đó dẫn đến tăng hiệu quả.
Các cấp độ thể chế chính sách quản lý lũ lụt được thực hiện như là một yếu tố
quyết định tiềm năng của WTP các hộ gia đình để giảm nguy cơ lũ lụt và đánh giá
sở thích vượt trội cụ thể của gia đình nếu có.
3.2 Thiết kế lựa chọn thử nghiệm
3.2.1 Phát triển Bảng câu hỏi
Sẵn sàng chi trả của hộ gia đình Việt Nam cho các chương trình giảm thiểu
nguy cơ lũ lụt được kiểm tra bằng cách sử dụng một cuộc khảo sát được cấu trúc
thành 7 phần. Bảng câu hỏi bắt đầu với câu hỏi nhân khẩu học - xã hội thông
63
thường để lấy thông tin về thu nhập của hộ gia đình, hoặc cấu trúc gia đình. Một số
câu hỏi cụ thể cho các hộ gia đình tham gia vào các hoạt động canh tác được bao
gồm trong phần này. Phần B của bảng câu hỏi đề cập đến kinh nghiệm ứng phó với
lũ lụt của người trả lời, thiệt hại lũ lụt và việc sơ tán do các mối đe dọa từ lũ lụt.
Phần tiếp theo nhằm mục đích đào tạo người trả lời với các nguy cơ lũ lụt trong các
phần tiếp theo. Truyền đạt những rủi ro và giảm mức độ rủi ro đối với người trả lời
khảo sát là một công việc đầy thách thức trong các cuộc điều tra CE, đặc biệt là ở
một đất nước đang phát triển như Việt Nam. Các loại viện trợ trực quan đã được sử
dụng bao gồm cả các nấc thang rủi ro và mạng lưới nguy cơ. Hơn nữa,phải đưa ra
sự giải thích về xác suất của lũ lụt và các tiêu chuẩn an toàn tại Việt Nam để giúp
người trả lời hiểu được những rủi ro mà họ phải đối mặt. Phần D và E trình bày hai
phương án lựa chọn làm giảm nguy cơ lũ lụt. Phần D nhằm mục đích đánh giá sự
sẵn sàng chi trả của hộ gia đình Việt Nam cho việc giảm rủi ro lũ lụt. Nó bắt đầu
với một mô tả ngắn gọn về rủi ro lũ lụt và chính sách lũ lụt ở các tỉnh Nghệ An. Sau
đó, các thuộc tính của chương trình giảm thiểu nguy cơ lũ lụt được thể hiện ra và
một ví dụ về tập hợp các sự lựa chọn được trình bày. Cuối cùng, người trả lời được
yêu cầu hoàn thành tập lựa chọn với những mức độ đánh giá khác nhau đối với các
phương án. Phần D kết thúc với một câu hỏi phỏng vấn được thiết kế đặc biệt để
xác định câu trả lời chống đối của người trả lời. Mục E tương ứng với một CE đánh
giá sự sẵn sàng trả tiền cho bảo hiểm lũ lụt.
Việc thiết kế các bảng hỏi được thực hiện theo một quá trình lặp đi lặp lại
nhiều lần với sự đóng góp của nhiều chuyên gia sau nhiều lần phỏng vấn khảo sát
thử nghiệm. Cuộc khảo sát cuối cùng đã diễn ra từ ngày 4 tháng 4 đến ngày 10
tháng 6 năm 2012.
3.2.2 Các thuộc tính cho các chương trình giảm thiểu nguy cơ lũ lụt
Bước đầu tiên trong thiết kế CE là xác định hàng hóa được đánh giá về các các
thuộc tính mức độ của chúng, Hoyos (2010). Hàng hóa được đánh giá trong nghiên
cứu CE này là chính sách quản lý lũ lụt được thực hiện bởi các cấp chính quyền.
64
Bước tiếp theo là chọn một tập hợp các thuộc tính đặc trưng trong một chính sách
quản lý lũ lụt chặt chẽ tại Việt Nam. Cấp độ của mỗi thuộc tính đã được xác định để
người trả lời có thể hiểu được các cải tiến trong việc bảo vệ lũ như là một kết quả
của những thay đổi ở mức độ thuộc tính. Các thuộc tính lựa chọn một mặt được dựa
trên các tài liệu hiện có về CE liên quan với rủi ro lũ, mặt khác dựa trên một số cuộc
họp được tổ chức ở tỉnh Nghệ An với các chuyên gia, đại diện địa phương phụ trách
chính sách quản lý lũ lụt và hộ gia đình hoặc đại diện nông dân. Trong giai đoạn
thiết kế, mục tiêu chính được giao cho các cuộc họp với đại diện địa phương là
khám phá những thuộc tính liên quan của chính sách quản lý lũ lụt, sự hiểu biết về
phương tiện thanh toán, và sử dụng các hỗ trợ thông tin rủi ro khác nhau.
Các nghiên cứu thăm dò dẫn đến sự lựa chọn ra năm thuộc tính để mô tả các
chương trình phòng chống lũ lụt:
(1) Xác suất nhà của hộ gia đình sẽ bị ngập và hư hại đáng kể bởi lũ lụt;
(2) Xác suất mà sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình bị ngập nước và cơ bản
bị hư hỏng do lũ lụt;
(3) Tỷ lệ tử vong hàng năm do lũ lụt;
(4) Cấp chính quyền mà tại đó các chương trình lũ bảo vệ được thực hiện
(5) Thanh toán của hộ gia đình cho chương trình.
Bảng 3.1 báo cáo danh sách các thuộc tính với mức độ liên quan được lựa
chọn cho CE. Hình 3.1 trình bày và ví dụ của bộ lựa chọn sử dụng cho các CE.
Bảng 3.1: Các thuộc tính và mức độ sử dụng trong CE
Mô tả thuộc tính Cấp thuộc tính
Nguy cơ thiệt hại hàng năm về nhà ở 2, 1.5, 1, 0.5 (%)
20, 15, 10, 5 (%)
Nguy cơ thiệt hại hàng năm về sản xuất nông nghiệp Tỷ lệ tử vong hàng năm Cấp chính quyền quản lý chương trình
Chi phí chi trả (1000 VND)
12, 9 , 6 , 3 (phần triệu) Nhà nước, tỉnh, huyện, xã Nông dân: 5.5, 16.5, 33, 49.5, 66 Khác: 11, 33, 66, 99, 132 Mức thuộc tính được gạch chân tương ứng với tình trạng hiện tại.
65
Thuộc tính (1) mô tả các lợi ích của các chương trình phòng chống lũ lụt về
giảm tỉ lệ thiệt hại lớn hàng năm đến nhà ở của người trả lời. Theo số liệu được
cung cấp bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguy cơ hiện nay được ước
tính là 2% mỗi năm. Mức giảm nguy cơ vì vậy được lựa chọn ở mức 1,5%, 1% và
0,5%.
Thuộc tính (2) mô tả các lợi ích của các chương trình phòng chống lũ lụt về
giảm tỉ lệ hàng năm của một thiệt hại đáng kể cho sản xuất nông nghiệp (cây trồng,
gia súc, cá, vv) của người trả lời. Theo số liệu được cung cấp bởi Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, nguy cơ hiện nay được ước tính là 20% mỗi năm. Mức
giảm nguy cơ vì vậy được lựa chọn ở mức 15%, 10% và 5%.
Thuộc tính (3) mô tả các lợi ích của các chương trình phòng chống lũ lụt về
giảm tỷ lệ tử vong hàng năm do lũ. Theo số liệu được cung cấp bởi Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, nguy cơ hiện nay được ước tính là 12 phần triệu mỗi năm.
Mức giảm nguy cơ vì vậy được lựa chọn 9, 6 và 3 phần triệu.
Thuộc tính (4) mô tả cấp chính quyền chịu trách nhiệm về thực hiện chương
trình phòng chống lũ lụt. Việt Nam có một khuôn khổ thể chế phức tạp nhằm thiết
kế và thực hiện việc bảo vệ lũ lụt, trong đó các cấp hành chính khác nhau (Nhà
nước, tỉnh, huyện, xã) có đặc quyền cụ thể. Các giả thuyết được đưa ra cho rằng các
ưu đãi cho một chương trình bảo vệ cho lũ lụt có thể khác nhau tùy thuộc mà tổ
chức phụ trách thực hiện các chương trình bảo vệ lũ lụt. Một số đối số có thể hỗ trợ
dự đoán này. Thuộc tính này có thể đặt ở bốn cấp độ: Nhà nước, tỉnh, huyện và
thành xã.
Thuộc tính (5) tương ứng với các phương tiện thanh toán cho chương trình
giảm thiểu nguy cơ lũ lụt. Việc lựa chọn một phương tiện thanh toán phù hợp
thường tỏ ra khó khăn trong các ứng dụng của CE trong nước phát triển vì chính
phủ thường có ở nơi chỉ có một số hạn chế của công cụ thuế và bởi vì tuân thủ thấp,
Whittington (2010). Một trong những khó khăn cụ thể với đánh giá chi phí hộ gia
đình để bảo vệ lũ lụt là chi phí này là khá khuếch tán. Ví dụ, nó có thể là trường hợp
ở cấp xã, nông dân phải cung cấp một số lượng đáng kể lao động và vật liệu để
66
kiểm soát lũ lụt như củng cố đê điều, công tác giám sát và trồng tre, vv. Tuy nhiên,
chi phí này không được báo cáo chính thức. Hy vọng rằng, các hộ gia đình tại Việt
Nam đã phải đối mặt với một hệ thống thuế đặc biệt dành riêng để tài trợ cho phòng
chống lũ lụt. Tất cả các hộ gia đình phải trả khoản tiền tương đương 2 kg thóc
(5.500 đồng) cho mỗi thành viên trong gia đình từ 18 đến 60 tuổi. Nông dân sẽ được
giảm giá và được yêu cầu trả khoản tiền tương đương với 1 kg lúa gạo trên đầu
người. Lệ phí quản lý lũ lụt này sẽ được sử dụng như phương tiện thanh toán của
chúng tôi. Chúng tôi đã xem xét mức độ khác nhau: 5,5, 16,5, 33, 49,5 và 66 nghìn
đồng tương ứng lần lượt là 1, 3, 6, 9 và 12 kg thóc bình quân đầu người cho nông
dân và 11, 33, 66, 99, 132,000 đồng tương ứng tương ứng với 2, 6, 12, 18, 24 kg
thóc bình quân đầu người cho các hộ không phải nông dân. Cần nhấn mạnh ở giai
đoạn này rằng chi phí của một chương trình quản lý cho một hộ gia đình sẽ không
chỉ phụ thuộc vào các thuộc tính giá cả, mà còn phụ thuộc vào hai đặc điểm cụ thể
của hộ gia đình cụ thể là thực tế người đứng đầu của gia đình là một nông dân hay
không, và số người có độ tuổi từ 18 đến 60. Điều này sẽ đòi hỏi một phương pháp
xử lý đặc biệt trong ứng dụng thực nghiệm.
67
Hình 3.1: Một bộ lựa chọn mẫu
Bộ lựa chọn 1
Hiện trạng
Chương trình A
Chương trình B
Khả năng có thể xảy ra việc nhà của anh/chị sẽ bị ngập và hư hỏng đáng kể do lũ lụt trong một năm
1%
2%
2%
Khả năng có thể xảy ra việc lúa và đất nông nghiệp bị ngập và hư hại đáng kể do lũ lụt một năm
20%
20%
20%
Khả năng có thể xảy ra trường hợp một thành viên trong gia đình anh/chị thiệt mạng trong lũ lụt
12 phần triệu
12 phần triệu
12 phần triệu
Cấp chính quyền mà tại đó các chính sách phòng chống lũ lụt nên được thiết lập và thi hành
Cấp tỉnh
Cấp Nhà nước
Cấp Nhà nước
Phí phòng chống lũ lụt
3kg thóc nếu là nông dân (16,500 đồng) 6kg thóc với thành phần khác (33,000 đồng)
12 kg thóc nếu là nông dân (66,000 đồng) 24kg thóc với thành phần khác (132,000 đồng)
1kg thóc nếu là nông dân (5,500 đồng) 2kg thóc với thành phần khác (11,000 đồng)
Tôi sẽ chọn (Chỉ chọn một)
□
□
□
68
3.2.3 Các mô hình kinh tế và thiết kế thử nghiệm
3.2.3.1 Mô hình logit có điều kiện
Giả định rằng các tiện ích không quan sát của một chương trình bảo vệ lũ lụt j
có thể chia thành hai thành phần. Thành phần đầu tiên, là thành phần xác định, được
thể hiện bởi hàm lợi ích gián tiếp V được định nghĩa như là một hàm của các thuộc
tính của lựa chọn thay thế, đặc điểm của các cá nhân, và thiết lập các thông số chưa
biết. Hợp phần thứ hai, đó là ngẫu nhiên, được đại diện bởi một thành phần ngẫu
nhiên , đó là một thành phần sai số nắm bắt các yếu tố ảnh hưởng đến tiện ích,
nhưng không được quan sát bởi các nhà nghiên cứu. Sau đó, lợi ích ngẫu nhiên đã
đạt được của cá nhân i từ việc lựa chọn chương trình j trong nhiệm vụ lựa chọn k cụ
thể (trong bộ lựa chọn k) có thể được viết là:
(3.1) `
Với Xijk biểu thị một vector của các biến giải thích mô tả chương trình j và trả
lời i, và β biểu thị vector tương ứng của hệ số. Người trả lời được giả định để lựa
chọn chương trình j nếu các tiện ích kéo theo bởi chương trình này là lớn hơn của
bất kỳ chương trình thay thế j’ Bởi vì kết quả quan sát của mỗi nhiệm vụ lựa chọn k
là việc lựa chọn một trong các chương trình J, mô hình kinh tế thích hợp là một mô
hình lựa chọn rời rạc thể hiện khả năng chương trình j được lựa chọn trên bất kỳ
chương trình khác j’ trong nhiệm vụ lựa chọn k. Khi các thành phần ngẫu nhiên
được giả định là độc lập và giống nhau rút ra từ một loại cực trị phân phối, xác suất
người trả lời i chọn chương trình j trong nhiệm vụ lựa chọn k có thể được thể hiện
bởi các mô hình logit đa thức điều kiện bình thường:
(3.2)
λ là các tham số quy mô của các thành phần ngẫu nhiên không quan sát được. Hàm
Log-likelihood của mô hình logit đa thức có điều kiện được cho bởi:
69
(3.3)
δijk = 1 nếu chương trình j được lựa chọn của cá nhân i cho nhiệm vụ lựa chọn k, và
bằng 0 cho các trường hợp khác.
3.2.3.2 Mô hình tham số ngẫu nhiên (RPL)
Mô hình logit đa thức có điều kiện đã được chứng minh là bị hạn chế, trước
hết vì lựa chọn thay thế không độc lập, tức là các mô hình không thể hiện sự độc lập
của thuộc tính thay thế không thích hợp; và thứ hai, bởi tính không đồng nhất cá
nhân không quan sát được không được tính đến. Sau đó, đặc biệt là vấn đề từ yếu tố
không quan sát được ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn một nhiệm vụ có thể ảnh
hưởng đến sự lựa chọn trong một nhiệm vụ lựa chọn tiếp theo, gây ra sự phụ thuộc
giữa các quyết định về nhiệm vụ lựa chọn. Giả sử rằng người trả lời có thể có sự
khác biệt về thị hiếu, các lợi ích không quan sát của một chương trình bảo vệ lũ lụt
j là:
(3.4)
là thành phần ngẫu nhiên của các lợi ích không thể được quan sát bởi các nhà
nghiên cứu, βi là vector các giá trị sở thích cá nhân với mật độ f(β|θ), trong đó θ là
một vector của các tham số thực của phân phối taste. Nếu là phân phối cực trị
độc lập và giống nhau Loại I, đặc điểm kỹ thuật sẽ dẫn đến mô hình logit tham số
ngẫu nhiên (RPL), hoặc mô hình logit hỗn hợp (McFadden và Train 2000). Xác suất
có điều kiện của chương trình j cho cá nhân i trong việc lựa chọn k bây giờ là:
(3.5)
Biểu thị chuỗi các chương trình được lựa chọn bởi một cá nhân trong K nhiệm
vụ lựa chọn, s = (j1, ..., jK). Sau đó, điều kiện là các giả thiết phân phối về βi, xác
suất người trả lời i thực hiện sự lựa chọn có trình tự cụ thể này là:
70
(3.6)
Do đó, chúng ta không biết βi chúng ta không thể đặt điều kiện cho nó. Vì vậy, để
có được xác suất vô điều kiện, chúng ta lấy tích phân của xác suất logit chuẩn trên
tất cả các giá trị có thể của βi. Như vậy, xác suất logit hỗn hợp là:
(3.7)
trong đó f (β|θ) đại diện cho mật độ kết hợp (joint density) của phân phối hỗn hợp
có điều kiện trên các thông số của phân phối này được biểu thị bởi θ. Trong dạng
đơn giản này, các hệ số lợi ích là khác nhau giữa các cá nhân, nhưng không đổi
trong những lựa chọn của mỗi cá nhân. Điều này phản ánh một giả định cơ bản của
các cấu trúc sở thích ổn định cho tất cả các cá nhân. Trong trường hợp tổng quát,
tích phân trong phương trình (3.7) không thể được đánh giá theo giải tích, và do đó
xác suất phải được xấp xỉ bằng cách sử dụng phương pháp mô phỏng. Ở đây một
ước lượng maximum likelihood sẽ được sử dụng, sử dụng Halton rút ra, để ước tính
mô hình. Cũng cần đặt ra một giả thiết về phân phối của mỗi hệ số ngẫu nhiên.
3.2.3.3 Mô hình lớp tiềm ẩn (Latent class model - LCM)
Gần đây nhất, nhà thực hành CE đã bắt đầu sử dụng mô hình lớp tiềm ẩn
(LCM) như là một mô hình thay thế cho việc tính đến sở thích không đồng nhất. Mô
hình này coi tính không đồng nhất như là một phân phối rời rạc, một đặc điểm kỹ
thuật dựa trên các khái niệm về sự phân khúc sở thích nội sinh (hoặc tiềm ẩn)
(Swait 1994). Phương pháp tiếp cận này mô tả một tổng thể bao gồm một số hữu
hạn và có thể xác định các phân đoạn hay nhóm cá nhân. Sở thích là tương đối đồng
nhất trong các phân đoạn, nhưng khác biệt đáng kể giữa các phân đoạn. Số lượng
của các phân đoạn được xác định nội sinh bởi các dữ liệu. Các khía cạnh của một cá
nhân trong một phân khúc cụ thể là xác suất, và phụ thuộc vào các đặc điểm xã hội,
71
nhân khẩu học, và kinh tế của người được hỏi, cũng như lượng kiến thức hồ, nhận
thức và thái độ của họ. Hơn nữa, tính cách người trả lời gián tiếp ảnh hưởng đến sự
lựa chọn thông qua ảnh hưởng của họ trên phân khúc thành viên.
Giả sử bây giờ lợi ích ngẫu nhiên đạt được của cá nhân i, trong phân khúc s
với s S, từ việc lựa chọn chương trình j trong nhiệm vụ lựa chọn cụ thể k có thể
được viết là:
(3.8)
Với βs biểu thị một vector của các phân đoạn, phụ thuộc vào hệ số được ước lượng.
Sự khác biệt trong βs cho phép nắm bắt được tính không đồng nhất trong các sở
thích của hộ gia đình cho các thuộc tính khác nhau của các chương trình quản lý lũ
lụt. Giả sử rằng các thành phần sai sô được phân phối giống nhau và độc lập (IID)
và theo một phân phối loại I (hoặc Gumbel), xác suất của chương trình j được chọn
bởi các cá nhân có thứ i với điều kiện là nằm ở phân khúc s này được cho bởi:
(3.9)
và xác suất kết hợp logit của một tập các lựa chọn T(i) được thực hiện bởi cá nhân i,
với điều kiện thuộc một phân khúc s đã cho là:
(3.10)
Bây giờ hãy xem xét M* là một hàm likelihood phân khúc thành viên phân
loại hộ gia đình thành một trong số S hữu hạn của các phân đoạn tiềm ẩn với một số
is = λsZi + ζis, với Zi đại diện cho các đặc điểm quan sát của các hộ gia
xác suất, Ps. Hàm likelihood thành phần cho hộ gia đình i và của phân khúc s được cho bởi M*
đình, chẳng hạn như đặc tính xã hội, kinh tế và nhân khẩu học của họ, cũng như
kiến thức, thái độ và nhận thức của người trả lợi. Giả sử rằng các thành phần sai số
hàm likelihood thành phần của người tiêu dùng là IID qua các hộ gia đình, các phân
72
đoạn, và theo một phân bố Gumbel, xác suất mà hộ gia đình i thuộc về phân khúc s
có thể được thể hiện như:
(3.11)
λs là các thông số phân khúc cụ thể được ước tính. Những thông số này biểu thị sự
đóng góp của các đặc điểm hộ gia đình khác nhau vào xác suất của các phân khúc
thành viên. Một hệ số dương (hoặc âm) và đáng kể ngụ ý rằng đặc điểm hộ gia đình
có liên quan, Zi, tăng (hoặc giảm) xác suất mà hộ gia đình i nằm ở phân khúc s. Đối
với một cá nhân, Ps dần đến 1 trên S phân đoạn tiềm ẩn, với 0 ≤ Ps ≤ 1.
Phương trình (3.10) cung cấp khả năng lựa chọn có điều kiện, có điều kiện về phân
đoạn thành viên của một phân khúc s cụ thể. Xác suất kết hợp không điều kiện của
một tập hợp các lựa chọn chương trình cho cá nhân i thu được bằng cách kết hợp
xác suất có điều kiện (10) với xác suất phân khúc thành viên (11) và lấy kỳ vọng
trên tất cả S phân đoạn. Xác suất kết hợp không điều kiện của hộ gia đình i thuộc
phân khúc s và chọn chương trình j trong các nhiệm vụ k khác nhau có thể được cho
bởi:
(3.12)
Phương trình (3.12) mô tả một mô hình logit hỗn hợp đồng thời giải thích cho
sự lựa chọn và phân khúc thành viên. Hàm log-likelihood phải được tối đa để có
được những λs các tham số và βs.
3.3. Kết quả thực nghiệm
3.3.1 Lấy mẫu chiến lược
Chiến lược lấy mẫu đã được hướng dẫn đầu tiên bởi một số đặc điểm địa lý
của các tỉnh Nghệ An và thứ hai, bởi một số đặc điểm riêng của lũ lụt ở khu vực đó.
Đầu tiên là địa hình của tỉnh Nghệ An khá phức tạp với đồi núi ở phía Đông và
73
sông, suối với độ dốc giảm dần từ phía tây bắc sang phía đông nam. Nghệ An nằm
trong vùng nhiệt đới và ôn đới, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi gió khô nóng (từ tháng
tư-tháng tám) và gió mùa đông bắc rất lạnh (từ tháng mười một đến tháng ba năm
sau). Thứ hai, ở Nghệ An, con người đang bị ảnh hưởng bởi ba hình thức lũ lụt
chính cụ thể là lũ quét (chủ yếu ở khu vực núi), lũ lụt do bão (chủ yếu là ở các vùng
ven biển) và lũ lụt do tràn sông (chủ yếu là ở đồng bằng do sông).
Chiến lược lấy mẫu chúng tôi đã được thực hiện như sau. Đầu tiên, 14 huyện
(trong số 17) đã được lựa chọn dựa trên hai tiêu chí: vị trí địa lý (khu vực ven biển,
khu vực đồng bằng, miền núi) và nguy cơ lũ lụt (rủi ro thấp, vừa phải nguy cơ, rủi
ro cao). Sau đó, dựa trên các cuộc thảo luận với các đại diện địa phương của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hai thôn đã được nhắm mục tiêu trong từng
quận, huyện (có 417 làng trong tỉnh Nghệ An). Cuối cùng, trong mỗi làng, 16 hộ gia
đình đã được lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách công dân đã đăng ký. Lấy mẫu phân
tầng dựa trên vị trí địa lý và nguy cơ lũ lụt cho phép chúng ta có trong dữ liệu của
tất cả các loại của lũ lụt ảnh hưởng đến dân số trong tỉnh Nghệ An. Hộ gia đình lựa
chọn ngẫu nhiên, bảo đảm mẫu được chọn là đại diện của người dân Nghệ An. Kết
quả thu được mẫu từ 448 hộ gia đình được quan sát tại 28 làng của 14 huyện trong
tỉnh Nghệ An
3.3.2 Đặc điểm mẫu
Cuộc khảo sát đã được triển khai tại tỉnh An vào mùa xuân năm 2012 Nghệ An
trên một mẫu gồm 448 hộ gia đình nằm trong 14 huyện khác nhau. Các cuộc phỏng
vấn trực tiếp đã được thực hiện. Thời gian trung bình cho toàn bộ câu hỏi đã được 1
giờ và 33 phút với tối đa là 3 giờ và 5 phút. Đối với hơn một nửa các hộ gia đình,
các câu hỏi kéo dài ít hơn một giờ 30 phút. Bảng 3 báo cáo một số thông tin về mẫu
hộ gia đình.
74
Bảng 3.2: Đặc điểm chính của các hộ gia đình
Biến Trung bình Độ lệch chuẩn
49,848 32,488 4,199 0,190 0,449 13,519 33,004 1,509 0,420 0,752
0,792 0,056 0,051 0,058 0,406 0,23 0,221 0,234
0,404 0,221 0,049 0,761 0,491 0,415 0,216 0,427
Đặc điểm kinh tế - xã hội Tuổi Thu nhập Kích thước hộ gia đình Số trẻ em trong hộ gia đình Số người trên 60 tuổi Nghề nghiệp chính của chủ gia đình Nông dân Công nhân Nghỉ hưu Kinh doanh nhỏ Lịch sử lũ lụt của hộ gia đình Nhà bị ngập Sơ tán Bị thương Lũ lớn Niềm tin vào các tổ chức Chính phủ Tỉnh Huyện Xã 0,533 0,393 0,359 0,395 0,499 0,489 0,480 0,489
Trong mẫu, tuổi trung bình của chủ hộ là 49,8 tuổi. Kích thước trung bình của
hộ gia đình là lớn hơn 4 người một chút. 16,7% hộ gia đình có ít nhất một nhỏ hơn
3 tuổi. Thu nhập hộ gia đình trung bình trong năm 2011 là 32.500.000 đồng mỗi
năm. Trong 79,2% các trường hợp, nghề nghiệp chính của chủ hộ là làm ruộng
(hoặc đánh cá). Công nhân chiếm 5,6% của mẫu. Hộ gia đình đã nghỉ hưu là nghề
nghiệp nhiều thứ hai trong mẫu với 26,7%.
Như đã đề cập trước đây, tỉnh Nghệ An chịu ảnh hưởng lớn bởi lũ lụt. Nhà ở bị
ngập lụt ít nhất một lần trong 5 năm gần nhất cho 40,4% hộ gia đình, 22,1% hộ gia
đình đã được sơ tán ít nhất một lần trong vòng 5 năm qua. Chỉ có 4,9% các hộ gia
đình báo cáo rằng một thành viên của hộ gia đình đã bị thương trong 5 năm qua do
75
lũ lụt. Tuy nhiên, 76,1% hộ gia đình xem xét rằng lũ lụt đã tạo ra một khoản chi phí
đáng kể trong vòng 5 năm qua.
Cuối cùng, bảng 3.2 báo cáo những chia sẻ của những người trả lời tin cậy vào
các tổ chức Việt Nam để quản lý có hiệu quả nguy cơ lũ lụt. Trong câu hỏi, mỗi
người trả lời được yêu cầu cho biết liệu họ có tin tưởng hay không rằng bốn tổ chức
(nhà nước, tỉnh, huyện, xã) có thể quản lý một cách hiệu quả nguy cơ lũ lụt. Trong
thực tế, người trả lời có vẻ tin tưởng hơn khi chương trình quản lý lũ lụt được thực
hiện ở một mức độ tập trung. Thật vậy, 53,3% số người trả lời rất tin tưởng hoặc tin
tưởng vào việc các chương trình quản lý lũ lụt được thực hiện bởi cấp nhà nước.
Con số này giảm xuống 39,3%, 35,9% và 39,5% nếu các chương trình quản lý lũ lụt
tương ứng thực hiện tại địa bàn tỉnh, ở cấp huyện hoặc tại cấp xã. Điều này có thể
tiết lộ một sở thích cho các chính sách quản lý các công trình ngăn lũ (đê, đê biển,
đập, vv) thực hiện ở cấp độ tập trung so với các biện pháp phi công trình (chương
trình giáo dục, thay đổi sử dụng đất, v.v.) được quản lý thường xuyên hơn ở cấp
huyện, cấp xã.
Để có một ý tưởng về chi phí thực tế của lũ lụt cho người trả lời, họ được yêu
cầu cung cấp một ước tính về chi phí trung bình hàng năm của lũ lụt cho hộ gia đình
của họ trong 5 năm qua, phân biệt giữa thiệt hại về nhà ở, thiệt hại sản xuất nông
nghiệp và thiệt hại sức khỏe (tất cả các chi phí y tế do lũ lụt đối với bất kỳ thành
viên nào trong gia đình). Vì các loại thiệt hại sau không được lấp đầy bởi người trả
lời (có thể bởi vì nếu quá khó khăn để cung cấp một đánh giá), Bảng 3.3 chỉ báo cáo
về chi phí cho hai loại đầu tiên.
76
Bảng 3.3: Chi phí hàng năm cho lũ
Biến Trung bình Độ lệch chuẩn Số người trả lời
Chi phí nông nghiệp (triệu đồng) Chi phí nhà ở (triệu đồng) Chi phí sức khỏe (triệu đồng) Chi phí nông nghiệp (% thu nhập) Chi phí nhà ở (% thu nhập) Chi phí sức khỏe (% thu nhập) 3,085 3,234 0,178 9,497 9,957 0,549 3,079 3,301 0,342 33,754 28,141 2,350 342 353 314 342 353 314
Chi phí trung bình hàng năm đối với các thiệt hại lũ lụt gây ra cho sản xuất
nông nghiệp (và thủy sản) là 3.085.000 đồng chiếm 9,5% thu nhập bình quân hộ gia
đình. Chi phí trung bình hàng năm đối với các thiệt hại lũ lụt gây ra cho nhà ở là cao
hơn một chút, trung bình khoảng trên 3,2 triệu đồng mỗi năm, chiếm 10% thu nhập
hàng năm của hộ gia đình. Chỉ xem xét hộ gia đình báo cáo thiệt hại lũ lụt thực sự
đến nhà của họ, thiệt hại trung bình nhà ở tăng lên 4,2 triệu đồng mỗi năm (12,8%
của thu nhập gia đình hàng năm). Thiệt hại cho sức khỏe xếp hạng 3 về chi phí.
Những chi phí này chỉ chiếm 0,5% thu nhập hộ gia đình hàng năm. Nếu chúng ta
hạn chế mẫu gồm các hộ gia đình, trong đó ít nhất một thành viên đã bị thương do
lũ lụt, tỷ lệ này tăng tới 1%. Nếu kết hợp thiệt hại nông nghiệp, nhà ở và sức khỏe
do lũ lụt, ta nhận được một chi phí trung bình hàng năm thiệt hại tương đương 7,5%
thu nhập trung bình hàng năm của hộ gia đình. Những con số này chỉ ra rằng nguy
cơ lũ lụt bao hàm tổn thất kinh tế đáng kể cho các hộ gia đình tại Việt Nam. Tuy
nhiên, một điều cần phải nhấn mạnh rằng chi phí của các hộ gia đình đưa ra tương
ứng với đánh giá chủ quan của họ có thể khác với các chi phí thực sự.
Trong bảng hỏi, người trả lời được yêu cầu xếp hạng theo thứ tự tầm quan
trọng của một số mục tiêu của chính sách quản lý lũ lụt. Bốn mục tiêu khả thi được
đưa ra, cụ thể là giảm số người bị thương, làm giảm diện tích đất bị ngập và hư
hỏng, giảm số lượng nhà bị ngập và hư hỏng và không nên chi phí quá nhiều. Có vẻ
như có một số không đồng nhất trong bảng xếp hạng. 38,4% số người trả lời đánh
giá mục tiêu quan trọng nhất của chính sách quản lý lũ lụt là giảm số người bị
77
thương và 35,8% số người được hỏi lựa chọn mục tiêu giảm diện tích đất bị ngập và
hư hỏng là quan trọng nhất. Giảm số lượng nhà bị ngập và hư hại được xếp hạng
đầu tiên của 13,1% hộ gia đình. Cuối cùng, 13,5% hộ gia đình xem xét rằng mục
tiêu quan trọng nhất của bất kỳ chính sách quản lý lũ lụt phải là một chi phí thực
hiện thấp.
3.3.3 Lựa chọn cá nhân và phản hồi nguyên trạng
Bảng 3.4 báo cáo tần số của sự lựa chọn chương trình trong thí nghiệm CE.
Các tùy hiện trạng chọn đứng thứ hai với 35,18%, mà không phải là bất thường là
loại phân tích ưu đãi đã nêu. Chỉ có 7,37% các đối tượng báo cáo rằng họ thích
những tùy chọn nguyên tình trạng trong tất cả các thiết lập lựa chọn. Chương trình
A và B được chọn tương ứng 36,66% và 28,15% số người được hỏi.
Bảng 3.4: Tần suất của các lựa chọn cá nhân
Lựa chọn Tần suất (%)
Chương trình A 36.66%
Chương trình B 28.15%
Tình trạng hiện tại 35.18%
Chương trình A Cho tất cả tập lựa chọn 2.01%
Chương trình B Cho tất cả tập lựa chọn 1.79%
Tình trạng hiện tại Cho tất cả tập lựa chọn 7.37%
Khi một tùy chọn hiện trạng có sẵn trong bộ lựa chọn trong một CE, nó thường
được lựa chọn bởi một tỷ lệ đáng kể số người trả lời. Trong trường hợp 33 hộ gia
đình của chúng ta (7,37% mẫu) đã lựa chọn các nguyên trạng trong tám bộ lựa chọn
đề xuất. Do đó, điều quan trọng là làm rõ sự khác biệt giữa những “trả giá bằng
không thực sự” tương ứng với người trả lời đã chỉ ra rằng họ không sẵn sàng trả bất
cứ điều gì bởi vì họ thực sự không thích hoặc không quan tâm đến hàng hóa được
trưng cầu WTP với “trả giá bằng không giả” tương ứng với người trả lời đã đưa ra
78
một WTP bằng không mặc dù giá trị thật của mình cho hàng hóa trong câu hỏi là
tích cực, Hanley, Wright, và Alvarez-Farizo (2006). “trả giá bằng không giả” có thể
được phân loại thành ba loại. Người đầu tiên là "trả giá chống đối", người trả lời
đưa ra giá bằng không vì những lý do khác hơn là đặt ra một giá trị số cho giá hàng
hóa trong câu hỏi. Người thứ hai là những người trả lời “không biết"”, người trả lời
chỉ đơn giản là không chắc chắn về số tiền mà họ sẵn sàng chi trả, lưu ý rằng số tiền
này tất nhiên có thể bằng không. Thứ ba, một số người đã tuyên bố một giá bằng
không vì nhiệm vụ lựa chọn tùy chọn là quá phức tạp (ví dụ, họ có khó khăn trong
việc hiểu hay trả lời các câu hỏi lựa chọn).
Trong CE được thực hiện, 33 người trả lời (chiếm 7,37%) đã chọn giải pháp
nguyên trạng trong tất cả các tập lựa chọn. Để xác định câu trả lời kháng nghị,
người trả lời đã được hỏi họ đồng ý hay không đồng ý với hai câu sau đây: "Tôi
phản đối bất kỳ sự tính thuế bổ sung nào cho các chương trình của chính phủ" và
"Tôi mất niềm tin vào chính phủ, tỉnh và xã quản lý hợp lý tiền bạc của tôi". Trong
số 33 người trả lời đã lựa chọn phương án nguyên trạng trong tất cả các bộ lựa
chọn, 18 đồng ý với ít nhất một trong những câu trước đó. Để xác định các hộ gia
đình có thể đã chọn hiện trạng chỉ đơn giản là vì họ đã không chắc chắn về số tiền
mà họ sẵn sàng chi trả hoặc vì những khó khăn cho sự hiểu biết các thí nghiệm, họ
đã được hỏi có đồng ý hay không đồng ý với ba câu sau đây: “Tôi cần biết nhiều
thông tin hơn là đã được cung cấp”, “cuộc khảo sát là không rõ rang”, “Các chương
trình quản lý lũ lụt thay thế là không thực tế”. 32 hộ gia đình đã trả lời có với ít nhất
một trong những câu trước đó. Sự chống đối và câu trả lời không chắc chắn, chúng
tôi nhận được 32 hộ gia đình có thể có đủ điều kiện là “trả giá bằng không giả”.
Chúng ta có thể chấp nhận một định nghĩa thứ hai và hạn chế về số không giả. Do
đó, 27 trong số 33 hộ gia đình đủ điều kiện là “trả giá bằng không giả” đã tích cực
trả lời câu “Với tình hình kinh tế hiện tại của tôi, tôi không thể trả nhiều tiền hơn
cho một chương trình giảm thiểu rủi ro lũ lụt”. Những hộ gia đình sau đó có thể
được coi là “trả giá bằng không thực sự”, thậm chí nếu có báo cáo kháng nghị hoặc
79
câu trả lời không chắc chắn. Thông qua định nghĩa hẹp hơn này chúng ta cuối cùng
chỉ có 5 hộ gia đình thuộc thể loại “trả giá bằng không thực sự”.
3.3.4 Hàm lợi ích gián tiếp chi tiết
Để ước tính mô hình lợi ích ngẫu nhiên - RUM (Random Utility Model),
chúng ta cần phải xác định các hàm lợi ích gián tiếp trong phương trình (3.1). Lợi
ích gián tiếp của chương trình quản lý lũ j cho hộ gia đình i phụ thuộc vào các thuộc
tính của chương trình này (bao gồm cả chi phí của nó) và đặc điểm của hộ gia đình.
(3.13)
Do đó ta xem xét dạng chi tiết sau đây của hàm lợi ích gián tiếp:
Với Ragrij, Rhousej và Rdeathj là ba thuộc tính của chương trình j tương với nguy
cơ thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, nguy cơ thiệt hại cho nhà ở và nguy cơ tử
vong do lũ lụt. Provj, Distj và Villagej là ba biến giả tương ứng với thực tế là
các chính sách quản lý lũ lụt được thực hiện tại các tỉnh, huyện và cấp làng (thể loại
tham chiếu là thực hiện ở cấp nhà nước). Những biến giả này nhằm mục đích nắm
bắt sự hiện diện một tác động phi tuyến của các mức độ của việc thực thi các lợi ích
gián tiếp. Cuối cùng Cij là chi phí của chương trình j cho hộ gia đình i. .Như đã thảo
luận trước đây, chi phí này phụ thuộc vào giá trị của thuộc tính giá của chương trình
j, trên thực tế là người đứng đầu của hộ gia đình có phải là một nông dân hay không
và số lượng thành viên hộ gia đình có tuổi từ 18 đến 60 tuổi. Chi phí của chương
trình j cho hộ gia đình ký hiệu là Cij sẽ được tính toán theo cách sau:
Với pj là đơn giá của chương trình j và sizei biểu thị số lượng thành viên trong hộ
gia đình có tuổi từ 18 đến 60. Trong công thức (3.13), Zi là một vector của các đặc
điểm hộ gia đình được giả định có ảnh hưởng đến hàm lợi ích gián tiếp. Cần phải
80
nói rằng khi các biến số không thay đổi theo sự lựa chọn lặp đi lặp lại của một cá
nhân, các vectơ của chúng có thể tương tác với các biến rủi ro, mức độ thực hiện
biến giả hoặc các biến chi phí. Cuối cùng farmeri là một biến giả bằng 1 nếu nghề
nghiệp chính của chủ hộ là nông nghiệp. Chi phí bình quân đầu người của một
chương trình là thấp hơn 50% cho nông dân.
Giải thích của các giá trị hệ số trong phương trình (3.13) không phải là đơn
giản, ngoại trừ ý nghĩa. Một cách thuận tiện hơn để trình bày các kết quả về sự sẵn
lòng chi trả cận biên (MWTP) cho một sự thay đổi trong các thuộc tính trong câu
hỏi. Đối với các thuộc tính nguy cơ, WTP được định nghĩa là:
với k { agri, house, death}, (3.14)
Trong đó τk là hệ số chuyển đổi để thể hiện mỗi WTP biên theo đơn vị triệu đồng.
Trong công thức (3.14), sự sẵn sàng chi trả cận biên được định nghĩa là giá trị trái
dấu của tỷ lệ thay thế cận biên giữa các thuộc tính rủi ro được xem xét và chi phí
của chương trình, nhân với hệ số chuyển đổi. Đối với các thuộc tính rủi ro liên quan
đến nhà ở và sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ biên thay thế giữa các thuộc tính và giá cả
phải được nhân với 100 (vì rủi ro nhà và nông nghiệp đã được mã hóa theo tỷ lệ
phần trăm) và chia cho 1000 (để có được giá trị trong triệu đồng vì giá của các
chương trình quản lý lũ lụt đã được thể hiện trong nghìn đồng). Đối với nguy cơ tử
vong, tỷ lệ thay thế cận biên phải được nhân 1.000.000 (vì rủi ro tử vong đã được
mã hoá trong số người chết đơn vị là một triệu) và chia cho 1000. WTP cận biên
liên quan đến các cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện quản lý chính sách lũ lụt là:
với l { State, Province, District}, (3.15)
tương ứng với tỷ lệ thay thế cận biên giữa các cấp chính quyền thực hiện các chính
sách và chi phí của chương trình. Các nhà nghiên cứu tham gia vào việc phân tích
phúc lợi xã hội ứng dụng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp các ước
lượng về độ chính xác của các biện pháp đo lường phúc lợi, ví dụ như độ lệch
81
chuẩn, khoảng tin cậy. Bảng 3.6 trình bày khoảng tin cậy bằng cách sử dụng
phương pháp Krinsky-Robb với 1000 lần lặp lại (khoảng thời gian tương tự như đã
có được với các phương pháp delta và Fieller).
3.3.5 Mô hình logit có điều kiện cơ bản
CE được thiết kế với giả định rằng các hàm lợi ích quan sát được là hàm cộng
tính. Chúng ta bắt đầu với một đặc điểm kỹ thuật cơ bản của các hàm lợi ích gián
tiếp sao cho xác suất lựa chọn một chương trình cụ thể chỉ đơn giản là một hàm
tuyến tính của tất cả các thuộc tính của chương trình đó và các hằng số cụ thể thay
thế (alternative specific constant - ASC), được quy định cụ thể bằng 1 khi một trong
hai chương trình A hoặc B được chọn, bằng 0 nếu hiện trạng được chọn. Hàm lợi
ích chi tiết trở thành:
· (3.16)
Bảng 3.5 cung cấp ước lượng của mô hình logit có điều kiện với một đặc điểm kỹ thuật của hàm lợi ích (dạng cộng tính). Pseudo R2 là 0,50 và ta từ chối ở mức 1%,
giả thuyết không rằng tất cả các hệ số bằng 0. Hầu hết các hệ số là rất quan trọng và
tất cả các dấu đều như dự kiến.
Các hệ số thu được là có ý nghĩa thống kê, với các giá trị thử nghiệm Wald (z)
đều khá lớn. Bởi vì các giá trị kiểm định Wald là có ý nghĩa thống kê, khoảng tin
cậy cho các hệ số không bao gồm 0. p_value cho các hệ số cũng có ý nghĩa khi nó
chỉ ra rằng xác suất để từng hệ số có giá trị bằng 0 đều sấp sỉ bằng 0.
82
clogit Choice ASC agri death house State Province District price2 , group(id)
Iteration 0: log likelihood = -5988.65332
Iteration 1: log likelihood = -5984.73547
Iteration 2: log likelihood = -5980.70334
Iteration 3: log likelihood = -5980.70228
Iteration 4: log likelihood = -5980.70228
Conditional (fixed-effects) logistic regression Number of obs = 10752
LR chi2(8) = 142.002
Prob > chi2 = 0.0000
Log likelihood = -5980.70228 Pseudo R2 = 0.5039
--------------------------------------------------------------------------------------------------
Choice | Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval]
--------------------------------------------------------------------------------------------------
ASC | -.0293529 .0592346 -0.49 0.217 -1.56002 -.149886
agri | -.0260296 .0042706 -6.09 0.000 -.1095022 .0734431
death | -.0331859 .0073344 -4.52 0.000 -.12636 .0199882
house | -.0524744 .046113 -1.13 0.004 -1.198751 -.0245978
State | .0793013 .0772676 1.03 0.108 -.1627145 1.650517
Province | -.1874306 .0823162 -2.28 0.014 -.0884707 1.931532
District | .0173726 .0797718 0.22 0.420 -1.542585 .6438401 price2 | -.0130157 .0011596 -11.31 0.001 -.0243225 -.0103689
Bảng 3.5: Kết quả ước lượng mô hình logit có điều kiện cơ bản
Hai thuộc tính nguy cơ của một chương trình quản lý lũ lụt (nguy cơ tổn thất
nông nghiệp, nguy cơ tử vong) là yếu tố quan trọng trong việc giải thích sự lựa chọn
của một chương trình quản lý lũ lụt, và giữ nguyên các đều kiện khác, một mức
nguy cơ thiệt hại nông nghiệp hoặc nguy cơ tử vong thấp hơn làm tăng xác suất một
chương trình lũ được chọn. Nói cách khác, người trả lời thích những chương trình
quản lý lũ lụt đem lại mức độ mất sản xuất nông nghiệp thấp hơn và nguy cơ tử
vong thấp hơn. Nguy cơ thiệt hại về nhà ở không xuất hiện đáng kể. Khi hơn 40%
83
hộ gia đình báo cáo rằng nhà của họ đã bị ngập lụt ít nhất một lần trong năm năm
qua, họ có thể xem xét các nguy cơ ngập lụt nhà như là một nguy cơ thông thường
mà họ có thể đối phó. Điều này là phù hợp với thực tế rằng chỉ có 13,1% hộ gia
đình đã báo cáo rằng việc giảm số lượng nhà bị ngập và hư hỏng nên là mục tiêu
chính của bất kỳ chính sách quản lý lũ lụt nào. Dấu của hệ số thanh toán chỉ ra rằng
ảnh hưởng trong lợi ích của việc lựa chọn một tập các lựa chọn với một mức độ
thanh toán cao hơn là bị giảm, đây là một kết quả mong đợi và trực quan. Cuối
cùng, bằng chứng liên quan đến WTP cung cấp chính sách quản lý lũ lụt ở cấp trung
ương (Nhà nước hoặc tỉnh) hoặc ở cấp độ phân cấp (huyện, xã) được trộn lẫn. Chỉ
có dấu liên quan đến thực hiện ở cấp tỉnh dường như là đáng kể. Việc thực hiện các
chính sách quản lý lũ lụt tại cấp tỉnh làm giảm xác suất mà một chương trình lũ
được chọn.
Bảng 3.6: WTP biên (triệu đồng) cho các thuộc tính của chương trình quản lý lũ lụt
Thuộc tính Ước lượng
0,405 0,203 2.538 0,006 -0,014 0,001 Khoảng tin cậy (95%) Cận dưới Cận trên -0,.275 0,136 1.510 -0,006 -0,027 -0,011 1,084 0,271 3.567 0,018 -0,002 0,013
Nguy cơ thiệt hại nhà cửa Nguy cơ thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp Nguy cơ tử vong Nhà nước Tỉnh Huyện
WTP biên để giảm nguy cơ thiệt hại nhà ở là 405.000 đồng. WTP cận biên này
chiếm 1,25% thu nhập trung bình hàng năm của hộ gia đình. Để so sánh, lưu ý rằng
người trả lời đưa ra chi phí trung bình cho thiệt hại lũ lụt cho nhà ở bằng 3.234..000
đồng. WTP biên để giảm nguy cơ thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp là 203.000
đồng (5,2 euro), tương ứng với 0,6% thu nhập hộ gia đình trung bình hàng năm.
Người trả lời báo cáo chi phí trung bình cho thiệt hại lũ lụt để sản xuất nông nghiệp
bằng 3.085.000 đồng. So sánh trực tiếp WTP để giảm thiểu rủi ro về nhà ở và sản
84
xuất nông nghiệp là khó khăn vì những con số kết hợp cả hai sự khác biệt về nguy
cơ rủi ro và về giá trị kinh tế.
Đối với thuộc tính rủi ro tử vong, WTP cận biên được tính bằng giá trị trái dấu
của hệ số của các thuộc tính nguy cơ chia cho hệ số của biến giá nhân với 1.000.000
(rủi ro tử vong đã được mã hoá trong số người chết tính bằng triệu) và chia bởi
1000 (để có được các giá trị trong triệu đồng khi giá các chương trình quản lý lũ lụt
đã được tính bằng nghìn đồng). WTP biên để giảm tỷ lệ tử vong, có thể được hiểu là
giá trị của cuộc sống về mặt thống kê (value of statistical life - VSL), được ước tính
là 2.538 triệu đồng (khoảng 65.000 €). Nó tương ứng với 78 lần thu nhập bình quân
hàng năm hộ gia đình trong mẫu của. VSL này là phù hợp với ước tính trước đây ở
các nước tương tự. Ví dụ, báo cáo Ngân hàng Phát triển châu Á (2005) cung cấp
một ước tính của VSL tại Malaysia bằng 1.200.000 ringgit (xấp xỉ 300.000 €) trong
bối cảnh xảy ra tai nạn đường bộ. Vassanadumrongdee và Matsuoka (2005) sử dụng
phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) khảo sát để đo lường WTP cá nhân để
giảm tỷ lệ tử vong trong bối cảnh ô nhiễm không khí và tai nạn giao thông ở Thái
Lan (Bangkok). Họ nhận thấy rằng VSL là giữa 0,74 và 1,48 triệu USD (600.000 và
1.200.000 €) và tương tự như ô nhiễm không khí và tai nạn giao thông. Đối với
Trung Quốc, Hammitt và Zhou (2006) cung cấp một ước tính VSL trong bối cảnh
sức khỏe và ô nhiễm không khí khác nhau, từ 33.080 nhân dân tệ đến 140.590 nhân
dân tệ (3.100 đến13.300 €). Tuy nhiên họ giải thích rằng VSL thấp này nên được
thực hiện thận trọng và nên được xem như là giới hạn dưới của VSL tại Trung
Quốc. Wang và Mullahy (2006) sử dụng phương pháp CVM và cung cấp một ước
tính của VSL tại Trung Quốc trong bối cảnh ô nhiễm không khí. Dựa trên các cuộc
phỏng vấn mặt đối mặt của 550 cá nhân trong năm 1998, họ có được một VSL trung
bình tương đương với 286.000 nhân dân tệ (27.000 €). Gần đây, Wang và He (2011)
trong bối cảnh các nguy cơ sức khỏe (ung thư) cung cấp một ước tính cao hơn nhiều
của VSL ở Trung Quốc. Sử dụng một CV để phòng ngừa nguy cơ ung thư, họ tìm ra
giá trị trung bình là 795.000 nhân dân tệ (99.000 €) tương ứng với khoảng 60 lần
thu nhập bình quân hộ gia đình hàng năm trong bộ dữ liệu của họ. Tuy nhiên, rất
85
khó để so sánh ước tính VSL của chúng đã đề cập ở trên khi ước lượng khác nhau
được thực hiện bởi các phương pháp khác nhau (CE so với CV chẳng hạn) hoặc
trong bối cảnh khác nhau (nguy cơ sức khỏe, rủi ro môi trường của nguy cơ lũ lụt
Bảng 3.7: VSL của một số quốc gia
trong trường hợp của chúng ta).
Nước
Thu nhập ×60 Năm Trung Quốc 2010 Bối cảnh Ung thư
VSL 0,8 triệu ND tệ (99.000 Euro) ×23 Trung Quốc 2006 Ô nhiễm không khí 0,3 triệu ND tệ(27.000 Euro)
×35 Malaysia 2005
Tai nạn đường bộ 1,2 triệu Ringgit (302.000 Euro)
0,6 đến 1,2 triệu Euro ×84 đến 168
Đa dạng
×124 ×45 Thailand USA Pháp 2005 Ô nhiễm không khí 2010 2005 Tai nạn đường bộ 6,3 triệu USD 1,5 triệu euros
Trung Quốc 2010: Wang and He (2011) Trung Quốc 2006: Wang and Mullahy (2006) Malaysia 2005: Ngân hàng pháp triển châu Á (2005) Thailand 2005: citeasnounVassanadumrongdee2005 USA 2010: Cục môi trường Hoa Kỳ Pháp 2005: Boiteux report
Mức độ thực hiện các chương trình quản lý lũ lụt xuất hiện chỉ có một tác động
hạn chế đến WTP của hộ gia đình. Thi hành của cấp tỉnh ảnh hưởng tiêu cực đến
WTP, xem Bảng 3.6. Thực hiện bởi Nhà nước, xã không có tác động cụ thể về
WTP.
3.3.6 Mô hình logit có điều kiện với các tương tác
Trong logit có điều kiện cơ bản, WTP biên được cho là không đổi trên người
trả lời. Mô hình này có thể dễ dàng sửa đổi để cho phép một số đặc điểm của người
trả lời (thu nhập, kinh nghiệm quá khứ với lũ lụt, nhận thức nguy cơ…) ảnh hưởng
đến lợi ích và dẫn đến những ước lượng có thể là khác nhau của WTP (và do đó,
VSL). Vì đặc tính của người trả lời là không thay đổi qua các lựa chọn lặp đi lặp lại
86
của người trả lời, họ phải được tương tác với ít nhất một trong năm thuộc tính của
các chương trình quản lý lũ lụt.
3.3.6.1 WTP và thu nhập hộ gia đình
Vector Z giới thiệu các logarit của thu nhập hàng năm của hộ gia đình. Biến
thu nhập hộ gia đình sau đó được tính chéo với ba biến số mô tả nguy cơ về nhà ở,
sản xuất nông nghiệp và tính mạng. Thành phần tương tác sau đó nắm bắt sự khác
biệt giữa bao nhiêu người giàu và người nghèo sẵn sàng trả tiền cho các thuộc tính
rủi ro được xem xét của chương trình quản lý lũ lụt, liên quan đến tình trạng tài sản
của họ.
Bảng 3.8: Mô hình logit có điều kiện- tương tác thu nhập
Phù hợp với kỳ vọng lý thuyết, chúng ta thấy rằng VSL tăng nhẹ với sự giàu có. Nói
cách khác, người trả lời giàu hơn sẵn sàng trả tiền tương ứng để giảm thiểu các rủi
ro liên quan đến quản lý lũ lụt hơn so với người trả lời nghèo. Sau đó chúng tôi đã
tính toán WTP biên cho việc giảm nguy cơ lũ lụt đối với ba mức thu nhập, cụ thể là
10, 30 và 60 triệu đồng. WTP cho việc giảm nguy cơ thiệt hại về sản xuất nông
nghiệp tương ứng 200.000, 210.000 và 220.000 đồng. WTP cho việc giảm nguy cơ
thiệt hại về nhà ở là 390.000, 410.000 và 430.000 đồng. VSL cũng làm tăng thu
87
nhập hộ gia đình từ 2.403 triệu đồng cho thu nhập hàng năm bằng 10 triệu đồng đến
2.686 triệu đồng nếu thu nhập hàng năm đạt 60 triệu đồng.
3.3.6.2 WTP và các đặc điểm hộ gia đình khác
Một số đặc điểm nhân khẩu học - xã hội của hộ gia đình cũng được quan sát.
Tuổi của người đứng đầu hộ gia đình dường như là quan trọng và chỉ âm khi chéo
với Rhouse. Hộ gia đình lớn tuổi có xu hướng định giá cao hơn để giảm nguy cơ về
nhà của họ. Những hộ gia đình này có thể dễ bị tổn thương với một nguy cơ lũ lụt
ảnh hưởng đến nhà của họ so với phần còn lại của dân số. Không có tác động đáng
kể nào được tìm thấy cho quy mô hộ gia đình và hộ gia đình có ít nhất một con nhỏ
hơn 3 tuổi. Một số đặc điểm của nhà ở xuất hiện đáng kể. Ví dụ, chúng tôi đã xem
xét một biến giả có giá trị bằng 1 độ cao của các tầng cao hơn là thấp hơn một mét
(từ mặt đất). Các hiệu ứng chéo với Rhouse và Rdeath là đáng kể và dương. WTP
cho việc giảm nguy cơ thiệt hại về nhà và nguy cơ tử vong là thấp hơn nếu độ cao
sàn tối đa là thấp hơn 1 mét. Những hộ gia đình có thể nằm trong các khu vực nơi
mà các nguy cơ lũ lụt thấp. Tác động chéo với Rhouse và Rdeath là đáng kể và
dương. Nông dân có WTP thấp hơn để giảm rủi ro sản xuất nông nghiệp và thiệt hại
về nhà.
3.3.6.3 WTP và kinh nghiệm quá khứ với lũ lụt.
Dựa trên những phản hồi phần B của bảng câu hỏi, một số biến đại diện cho
kinh nghiệm lũ của hộ gia đình đã đựơc tạo ra. Ta xem xét ba biến giả.
Houseflooded nhận giá trị bằng 1 nếu ngôi nhà của người trả lời đã bị ngập lụt ít
nhất một lần trong năm năm gần đây. Đây là trường hợp cho 40,4% hộ gia đình
trong mẫu của chúng tôi. Sơ tán (Evacuated) bằng 1 nếu người trả lời đã được sơ
tán do lũ lụt ít nhất một lần trong năm năm gần đây (22,1% hộ gia đình). Bị thương
(Injured) bằng một nếu một thành viên của hộ gia đình đã bị thương ít nhất một lần
trong năm năm gần đây. Trong mẫu của chúng tôi, 4,9% các hộ gia đình báo cáo
rằng một thành viên đã bị thương ít nhất một lần trong năm năm gần đây.
88
Bảng 3.9: Mô hình logit có điều kiện - kinh nghiệm với lũ lụt trong quá khứ
Bảng 3.9 báo cáo kết quả của mô hình giới thiệu sự tương tác với kinh nghiệm
quá khứ với các biến lũ lụt. Bị ngập không có tác động đáng kể đến WTP để giảm
thiểu rủi ro. Ngược lại, các tác động chéo giữa sơ tán (Evacuated) và hai thuộc tính
nguy cơ Ragri và Rhouse là âm và đáng kể. Một hộ gia đình đã được sơ tán do một
trận lụt ít nhất một lần trong năm năm gần đây có WTP cao hơn đáng kể để giảm
nguy cơ tử vong và nguy cơ thiệt hại về nhà. Kết quả thu được cho bị tổn thương
(Injured) ít trực quan hơn khi chúng ta tìm thấy rằng một hộ gia đình một thành
viên đã bị thương do lũ lụt ít nhất một lần trong năm năm gần đây WTP thấp hơn
đáng kể cho việc giảm rủi ro thiệt hại nông nghiệp và nhà ở.
89
3.3.6.4 WTP và kỳ vọng về các nguy cơ lũ lụt trong tương lai
WTP cho một thuộc tính chính sách quản lý lũ có thể phụ thuộc vào nhận thức
của ngừi trả lời về nguy cơ lũ lụt. Trong phần B của cuộc khảo sát, mỗi người trả lời
được hỏi, nếu so với 10 năm gần đây, họ mong đợi trong khu vực sinh sống của họ
trong 10 năm tiếp theo lũ lụt sẽ thường xuyên hơn hay ít thường xuyên hơn. Đối với
18% người trả lời, 10 năm tiếp theo sẽ được đặc trưng bởi tăng lượng lũ lụt. Chúng
tôi sau đó tạo ra một biến giả (MoreFlood) bằng 1 trong trường hợp chéo với các
biến house, agri và death. Không biến nào trong số này này xuất hiện là đáng kể.
3.3.6.5 WTP và rủi ro cá nhân và sở thích thời gian
Cuối cùng, chúng ta kiểm tra liệu các WTP cho các thuộc tính của chương
trình quản lý lũ lụt có khác nhau theo sở thích rủi ro cá nhân hoặc sở thích thời gian
hay không. Theo đó, một người trả lời sợ rủi ro hơn có thể có WTP cao hơn cho
một chương trình giảm rủi ro lũ hơn so với một người ít lo ngại rủi ro hơn.
Để đo sở thích rủi ro cá nhân của hộ gia đình, chúng tôi dựa trên việc sử dụng các
trò chơi xổ số (với các khuyến khích tiền tệ). Các loại trò chơi xổ số đã được đề
xuất trong các tài liệu về kinh tế thực nghiệm. Ở đây, cách tiếp cận được dựa trên
các nhiệm vụ ban đầu được đề xuất trong Eckel và Grossman (2002) (sau đây gọi là
EG) trong đó bao gồm sự lựa chọn của một canh bạc trong một tập hợp 6 canh bạc
khác nhau, tất cả với xác suất 0,5. Một lợi thế quan trọng của thiết kế trò chơi này là
nó đủ đơn giản để dễ dàng hiểu được đối với những đối tượng không phải các mẫu
bình thường của sinh viên đại học. Điều này là rất quan trọng trong bối cảnh của
chúng ta khi nhiều người tham gia ở trình độ thấp hoặc không có giáo dục. Giả sử
hàm lợi ích không thích mạo hiểm tương đối cố định (Constant Relative Risk
Aversion – CRRA), sự thích rủi ro này sau đó được ước lượng bằng maximum
likelihood theo Harrison và Rutström (2008). Điều này cung cấp một hệ số CRRA
duy nhất cho mỗi hộ gia đình trong mẫu.
Sở thích thời gian cá nhân được gợi ra trong những câu hỏi giả định sử dụng
hình thức hỏi kép. Trong câu hỏi đầu tiên, mỗi hộ gia đình được hỏi họ thích
90
1.000.000 đồng ngay bây gì hơn hay thích 1.400.000 đồng sau một năm. Nếu hộ gia
đình thích 1.000.000 đồng ngày hôm nay, anh ta được đề xuất 1.600.000 VNĐ sau
một năm. Nếu hộ gia đình vẫn thích 1.000.000 đồng ngày hôm nay, anh ta được yêu
cầu cung cấp số tiền tối thiểu (X triệu đồng) mà ông sẽ sẵn sàng để chấp nhận các
tùy chọn chậm. Nếu hộ gia đình đã chấp nhận lựa chọn bị trì hoãn trong câu hỏi đầu
tiên, bây giờ ông ta được yêu cầu để lựa chọn giữa 1.000.000 đồng hiện tại và
1.200.000 đồng sau một năm. Dạng hỏi kép này cho phép xác định bốn nhóm hộ gia
đình tùy thuộc vào tỷ lệ chiết khấu (0, 20%, 20%, 40%, 40%, 60% và X). Trong
thực tế, phần lớn đối tượng có tỷ lệ chiết khấu lớn hơn 60% (68% mẫu). Tỷ lệ chiết
khấu dưới 20%, chỉ chiếm 3,5% mẫu.
Bảng 3.10: Mô hình logit có điều kiện - Sự ưa thích rủi ro và thời gian
Chỉ có RRA C là đáng kể khi chéo với Ragri. Hộ gia đình có lo ngại rủi ro cao có
xu hướng có WTP thấp hơn cho nguy cơ thiệt hại nông nghiệp do lũ lụt.
3.3.7 Mô hình lớp tiềm ẩn (LCM)
Để ước lượng các LCM trình bày trong (3.12), trước tiên chúng ta cần xác
định các đặc điểm cấp độ hộ gia đình, mà chúng tôi đưa ra giả thuyết để xác định
91
các nhóm thành viên và lựa chọn các hộ gia đình đưa ra. Sau đó, chúng ta xây dựng
hàm log-likelihood theo quy định tại (3.12) và sử dụng maximum likelihood đầy đủ
thông tin để ước lượng mô hình cho một giá trị cụ thể của S (số lượng các phân
đoạn). Việc ước lượng mô hình cho một vài phân đoạn đực lặp lại nhiều lần cho đến
khi tìm được một số lượng hợp lý các phân đoạn. Chúng tôi sử dụng các tiêu chuẩn
thống kê để quyết định mô hình phù hợp với dữ liệu tốt nhất, tức là, chúng ta quyết
định số lượng tối ưu hoặc thích hợp nhất của các phân đoạn mẫu bao gồm.
Bảng 3.11: Các tiêu chí để xác định số lượng tối ưu của các phân đoạn
AIC Log likelihood
Số nhóm 1 2 3 4 5
BIC 6951.369 6910.618 2 6928.47 3 6974.601 6 7025.50 1 3 -3379.7699 6924.369 -3291.8989 6864.618 2 6863.47 -3233.3322 3 -3188.8992 6890.601 6 6922.50 -3146.8546 1 AIC for Bozdogan Akaike Information Criterion. 3 BIC for Bayesian Information Criterion.
Mô hình giới thiệu ở trên được ước tính cho đến năm nhóm. Các số liệu
thống kê cho các mô hình Log-likelihood, Tiêu chuẩn Thông tin Bozdogan Akaike
(AIC), và Tiêu chuẩn thông tin Bayesian (BIC) được trình bày trong Bảng 3.11.
Việc xác định số lượng tối ưu của các phân đoạn đòi hỏi một sự đánh giá cân đối
của các số liệu thống kê trong Bảng 12. Hàm log-likelihood giảm (hay tăng) BIC
được giảm thiểu ở đoạn 2 và AIC được giảm thiểu ở phân đoạn 2. Như dự kiến, bốn
tiêu chí cải thiện như phân đoạn được thêm vào, nhưng việc cải thiện cận biên giảm
dần theo mô hình phân đoạn thứ ba, chỉ ra rằng một mô hình với ba phân đoạn là
giải pháp tối ưu trong ứng dụng thực nghiệm.
Kết quả của LCM ba phân khúc được thể hiện trong Bảng 3.12. Phần đầu
tiên của Bảng 3.12 trình bày các hệ số lợi ích gắn liền với các thuộc tính chương
trình quản lý lũ lụt, trong khi bảng thứ hai cho các hệ số phân khúc cho các thành
viên. Các hệ số thành viên đối với phân khúc thứ ba được chuẩn hóa về không, cho
phép chúng ta xác định các hệ số còn lại của mô hình.
92
Bảng 3.12: Kết quả của ước lượng LCM
Hệ số gắn với các thuộc tính rủi ro khác nhau đáng kể giữa các phân đoạn.
Điều này ngụ ý rằng ưu đãi cho các chương trình quản lý lũ lụt là khác nhau đáng
kể qua các phân đoạn. Do đó tính không đồng nhất là quan trọng trong tập dữ liệu
của chúng ta.
93
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Việc đánh giá sẵn sàng chi trả (WTP) của các hộ gia đình cho việc giảm thiểu
rủi ro do lũ lụt là rất hữu ích cho công tác hoạch định các chính sách quản lý và ứng
phó với lũ lụt. Khi xác định được WTP của các hộ gia đình, sẽ tính toán được lợi
ích kinh tế của các biện pháp phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại lũ. Ngoài ra, nó
cũng rất hữu ích cho việc đặt ra mức phí bảo hiểm lũ lụt đối với sản xuất nông
nghiệp, nhà cửa …làm cơ sở cho việc phát triển các chính sách bảo hiểm lũ lụt.
Một thí nghiệm lựa chọn đã được sử dụng để ước tính WTP của các hộ gia
đình cho việc giảm thiểu rủi ro do lũ lụt. Đề tài đã thực hiện quan sát trên một mẫu
các hộ gia đình nằm ở Nghệ An, một trong những tỉnh bị ảnh hưởng do lũ lụt tại
Việt Nam. Kết quả cho thấy rằng có sự không đồng nhất ưu đãi đáng kể giữa các hộ
gia đình. WTP để giảm nguy cơ lũ lụt đã được ước tính, đồng thời mối quan hệ giữa
WTP và các thuộc tính khác nhau của các chính sách quản lý lũ lụt (giảm kinh tế,
giảm thiệt hại về người, cấp chính quyền chịu trách nhiệm thực hiện các chính sách
quản lý lũ lụt) cũng được xác định. WTP biên để giảm tỷ lệ tử vong, có thể được
hiểu là giá trị của cuộc sống theo thống kê (VSL), đã được ước tính khoảng 2.538
triệu đồng. Số tiền này tương đương với khoảng 78 lần thu nhập bình quân hộ gia
đình trong mẫu quan sát.
Khó khăn trong quá trình thực hiện việc xác định sẵn sàng chi trả bằng phương
pháp Lựa chọn thử nghiệm rời rạc (DCE) là vấn đề thiết kế bảng hỏi và thu thập số
liệu. Việc này đòi hỏi người thực hiện phải nắm vững lý thuyết của phương pháp,
có kỹ năng phỏng vấn và hiểu biết về văn hóa cũng như lối sống của người dân
trong khu vực quan sát mẫu.
Phương pháp Lựa chọn thử nghiệm là một phương pháp mới đối với Việt
Nam và là phương pháp rất hữu ích cho việc xác định WTP cho việc giảm thiểu rủi
ro thiên tai chứ không riêng rủi ro lũ lụt. Do vậy, thông qua đề tài này, tác giả cũng
muốn đề xuất các cơ quan quản lý tạo điều kiện triển khai thêm các đề tài nghiên
94
cứu và ứng dụng phương pháp này trong lĩnh vực kinh tế tài nguyên môi trường nói
chung, quản lý và giảm nhẹ thiên tai nói riêng trên các khu vực của Việt Nam.
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Trường Đại học Thủy lợi, Báo cáo đánh giá môi trường - Dự án quản lý giảm
nhẹ thiên tai, Tháng 3/2012
2. Lê Minh Hoàng, Giải thuật & Lập trình, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1999-2002;
3. GS. TSKH. Vũ Thiếu, TS. Nguyễn Quang Dong, TS. Nguyễn Khắc Minh, Kinh
tế lượng, Đại học Kinh tế Quốc dân
Tiếng Anh:
1. Arnaud Reynaud, Manh Hung Nguyen and Thanh Duy Nguyen, Valuing Flood
Risk Reduction: Preliminary Results From a Choice Experiment in Vietnam,
Presented at the CBA conference, Toulouse School of Economics, 01 Ferbruary
2012.
2. Anderson, S., Palma, A., & Thisse, J. 1991, Discrete Choice Theory of Product
Differentiation, The MIT Press, Cambridge, England.
3. Adger, N. (1999). Social Vulnerability to Climate Change and Extremes
in Coastal Vietnam. World Development, Vol. 27, No. 2 , pp. 249-269.
4. Asian Development Bank. (2009a). Asian Development Bank & Vietnam:
Fact Sheet. Mandaluyong City, The Philippines: Asian Development Bank.
5. Asian Development Bank. (2010a). Asia Economic Monitor. Mandaluyong
City, The Philippines: Asian Development Bank.
6. Asian Development Bank. (2010c). Key Indicators for Asia and the Pacific
2010, 41st edition. Mandaluyong City, The Philippines: Asian Development
Bank.
7. Asian Disaster Preparedness Center. (2003). Climate Change and
Development in Vietnam: Agriculture and Adaptation for the Mekong Delta
Region. Eschborn, Germany: Deutsche Gesellschaft für Technische
Zusammenarbeit (GTZ).
96
8. Chaudhry, P., & Ruysschaert, G. (2007). Climate Change and Human
Development in Viet Nam. United Nations Development Program, Human
Development Report Office.
9. Dasgupta, S., Laplante, B., Murray, S., & Wheeler, D. (2009). Sea-Level Rise
and Storm Surges: A Comparative Analysis of Impacts in Developing Countries.
Washington, DC: The World Bank, Policy Research Working Paper 4901. 10. Nick Haney, Robert E.Wright an Vic Adamowicz, Using Choice Experiments to Value the Environment, Environmental and Resource Economics 11(3–4):
413–428, 1998
11. Trine Kjær, , A review of the discrete choice experiment - with emphasis on its
application in health care, Health Economics University Of Southern Denmark
97
PHỤ LỤC
Mục lục, danh muc hinh ve, bang, trang 13,9,37,91,82,95,90 (in lại)