NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
tl



NHỮNG PHÁT HIỆN Mới XUNG QUANH SỬ THỊ NRONG
TÔ ĐÔNG HẢIP'


La -. và. `
Nghệ nhân Điều Kâu dân tọc M'nong (xa Đắk Rung, Đảk Song, Đảk Lắc)
œ thì nrong dược phát hiện vào đầu năm 1989! khi nhóm cán bộ nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian phối hợp với Sở Văn hoá- Thông tin tỉnh Dak Lăk tiến hành đọợt công tác điền dã trên địa bàn các huyện Dak Mi, Dak Nông, tỉnh Dak Lăk. Chín năm sau, năm 1997, khi trỏ lại địa bàn này, chúng tôi mới xác mình được rằng, đây là một bộ sử thi có cấu trúc kiểu liên hoàn với khối lượng khá đồ sộ các sử thi đơn uị. Ngay khi đó, chúng tôi đã ghi lại tên của trên 40 tác phẩm sử thị đơn uị của bộ sử thì liên hoàn đó. Sau này, trong những đợt
'}TS, Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian.
khảo sát tiếp theo, chúng tôi đã vô cùng ngạc nhiên vì số lượng các tác phẩm đơn uị của nrong đã lên tới hàng trăm tác phẩm, mỗi tác phẩm gồm từ bốn ngàn đến trên một vạn câu văn vần, nếu ghi âm liên tục, phải từ khoảng sáu đến ba mươi giờ băng. Mặc dù các tác phẩm đơn u¡ của bộ sử thì nrong đồ sộô này vân đang tiếp tục được sưu tầm và bước đầu được dịch ra tiếng Việt, hiệu đính và biên tập, chúng tôi đã có thể khẳng định, nrong là bộ sử thi liên hoàn có hhối lượng đồ SỐ UdO loại hàng đầu trong số các sử thi đã được phát hiện trên thế giới!
Tuy vậy, nhiều vấn để xung quanh bộ sử thi này vẫn đang còn là những câu hỏi lớn đối với những người làm công tác nghiên cứu. Chủ nhân dích thực của nmrong là ai? Quá trình sáng tạo ra bộ sử thi trường thiên này diễn ra như thế nào và vào thời điểm nào? Địa bàn hình thành và lưu truyền của bộ sử thi này? Trong cấu trúc của bộ sử thi liên hoàn gồm hàng trăm tác phẩm đơn U¡ này, có thể sắp xếp thứ tự các tác phẩm được không và thứ tự đó, nếu có, sẽ như thế nào? Nội dung của nrong để cập tới những vấn để gì? Số lượng nhân vật trong toàn bộ tác phẩm lên tới vài trăm người, họ có quan hệ gì với nhau và những quan hệ đó diễn biến ra sao qua từng tác phẩm đơn u¡? Thi pháp của tác phẩm? Quá trình học và lưu truyền bộ sử thi nrong của các nghệ nhân diễn ra như thế nào?...
Trong những năm qua, đặc biệt là trong hai năm 2000- 2001, chúng tôi may mắn được tiến hành khảo sát điền đã nhiều đợt trên địa bàn tỉnh Bình hiện)
TÔ ĐÔNG HẢI


Phước trong những khoảng thời gian tương đối dài. Qua những đợt khao sát và sưu tầm sử thi. chúng tôi phát hiện ra nhiều điều thú vị bất ngờ chung quanh bộ sử thi nrong. Có những điều có thể khăng định. Có những điều mới chỉ là những giả thuyết. Song, trong bài viết này, chúng tôi xin mạnh đạn trình bày một số vấn đề mới phát hiện liên quan đến bộ sử thi này, để có thể giúp những ai quan tâm đến 0uăn hoá sử thi có thể có những câu trả lời cho những vấn đề lớn liên quan đến sử thi nrong, một giá trị văn hoá lớn và là niềm tự hào của các dân tộc Việt Nam.
1. Chủ người nào?
nhân của nmrong là tộc
Đây là một vấn để không đơn giản như trước đây chúng ta đã tưởng. Cho đến nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng, chủ nhân của nmrong chỉ là người Mnông (hoặc Bưu Nong, theo cách tự gọi của đồng bào). Khi khảo sát trên địa bàn các huyện Phước Long, Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, chúng tôi mới được biết, nrong còn được lưu truyền trong một số tộc người khác ở nam Tây Nguyên.
Ở tỉnh Bình Phước, nrong không chỉ lưu truyền trong số người Mnông mới di cư từ các huyện Dak Rlâp, Dak Nông, Dak Mi], thuộc tỉnh Dak Lãk, sang Bình Phước (trước đây là tỉnh Sông Bé) vào những năm 1979 mà còn rất phổ biến ở những người Mnông (nhóm Bư Nong) bản địa, đã sống tại các làng cổ ở các huyện Phước Long, Bù Đăng ở Bình Phước từ rất lâu đời.
Điều đó chứng tỏ, sử thi nrong phổ biến trên một địa bàn khá rộng bao gồm phần đất của các huyện phía nam tỉnh Dak Lãk, phía bắc tỉnh Bình
Phước và một số địa bàn ở ven biên giới trên đất Campuchia. Trong các nhóm Mnông, sử thi nrong chỉ phổ biến ở các nhóm Mnông phía nam (phía nam sông Krông Knô), gồm các nhóm Bu Nong, Nong, Preh...Ngoài ra, nrong cũng được lưu truyền ở một số nhóm tộc người như Biat, R'ông...mà một số nhà nghiên cứu cho đó là những nhóm Mnông ở Campuchia. Trong khi đó, sử thì nrong không thấy lưu truyền trong các nhóm Mnông phía bắc (phía bắc sông Krông Knô) như nhóm Gøar, nhóm tâm, nhóm Kuênh...
Hơn nữa, điều đáng chú ý là, tại tỉnh Bình Phước, chúng tôi thấy sử thi nrong rất phổ biến ở người Stiêng, và chỉ ở người SHiêng nhóm Bu Lơ (Bu Lơ, trong tiếng Silêng, có nghĩa là uùng cao, Uùng trên).
Người Stiêng cư trú chủ yếu ở các tỉnh Bình Phước, một phần ở tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng. Khi khảo sát sử thi nrong của người Stiêng, chúng tôi nhận thấy, mặc dù, về cơ bản, sử thi nrong của người Stiêng có khá nhiều điểm tương đồng để có thể coi chúng là những tác phẩm có chung một nguồn gốc với sử thì nrong của người Mnông, song, trên một số phương diện, hai bộ sử thi này lại có những khác biệt về nội dung, hình thức diễn xướng, ngôn ngữ... để có thể nghĩ rằng, từ khá sớm trong lịch sử văn hoá tộc người, chúng đã tách thành hai dòng khác nhau.
Các nghệ nhân Stiêng và Mnông ở Bình Phước cho chúng tôi biết, từ xa xưa, cha ông họ cũng quan niệm rằng, Sử thi nrong có hai dòng khác nhau. Tại Bình Phước, đồng bào Stiêng phân biệt hai dòng sử thi nrong đó theo địa lý (người Stiêng gọi dòng là mab với ý nghĩa là phong cách, trường phú): NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
sb


- rong mah Giung (còn gọi là nrong bong” Giung): dòng nrong Sông Bé.
- Nrong mabk Rlâp ( còn gọi là nrong bong Riáp): dòng nrong Dab Riáp.
Dak Glung (sông Bé) và Dak Rlâp là hai con sông đều phát nguyên từ cùng khu vực gần suối Dak Huych. Dak Rlâp sau khi chảy qua huyện Dak Riâp tỉnh Dak Lăk, đã đi ngang qua các huyện Bù Đăng, Phước Long (tỉnh Bình Phước), còn Dak Glung, mà người Việt quen gọi là sông Bé, là eon sông chảy ngang qua tỉnh Bình Phước và trước đây, tên sông đã được lấy đặt cho tên tĩnh (tỉnh Sông Bé củ).
Chúng tôi đặt ra một giả thuyết: Phải chăng, trước đây, người Stiêng và người Mnông chỉ là một tộc người thống nhất. Quá trình tộc người này phân làm hai tộc người độc lập là Stiêng và Mnông, cũng đồng thời là quá trình sử thì nrong tách làm hai dòng. Dòng sử thì nrong đi theo nhóm Mnông, lan truyền dọc theo dòng sông Dak Rlâp để tạo thành dòng nrong Dah Riâp, còn dòng sử thì nrong đi theo nhóm Stiêng, lạ lan truyền dọc theo dòng Dak Glung, để trở thành dòng nrong Dah Giung. Từ đó, hai dòng nrong song song tổn tại và phát triển cho đến ngày nay.
Về số lượng bài bản, chúng tôi nhận thấy, bộ sử thi nrong của người Stiêng cũng phong phú, đồ sộ không kém sử thì nrong của người Mnông. Qua khảo sát bước đầu trên địa bàn của người Đtiêng Bu Lơ ở một vài bon của các xã Dak Ơ, Phú Nghĩa, Bù Gia Mập, Đức Hạnh... thuộc huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước, chúng tôi đã thống kê được 36 nghệ nhân (trong đó có 12 nghệ
nhân thuộc từ 7 đến 15 sử thi đơn 0ị, trong các sử thi đơn uị đó có những tác phâm dài từ 15 đến hơn 30 giờ băng cat-xet), một danh sách gồm 55 tác phẩm đơn u¡. Nếu khảo sát toàn bộ địa bàn cư trú của người Stiêng Bu Loợ, danh sách nghệ nhân và tác phẩm chắc chắn sẽ kéo dài hơn nhiều.
Theo chúng tôi, có (thể coi người SHêng (nhóm Bu Lở) cùng UỚI người Mnông (nhóm Bu Nong, Nong, Preh) uà các nhóm Nông Biat trên đất Campuchia (bhu uực gân biên giới) cùng là chủ nhân đích thực của sử thi nrong
2. Địa bàn hình thành và lưu truyền của sử thi nrong
Như vậy, chúng ta bước đầu có thể nhận định rằng, địa bàn xuất hiện ban đầu của sử thi này là khu vực thượng nguồn của Dak Glung (Sông Bé, trên địa bàn tỉnh Bình Phước) và Dak Riấp (sông Dak Riâp, trên địa bàn tỉnh Dak Lăk và vùng sát biên giới bên phía Campuchia. Cụ thể hơn, đó là vùng đất có suối Dak Huych chảy qua.
Theo truyền thuyết, nrong là những câu chuyện về lịch sử xa xưa của bon Tiăng, do ông Tiăng truyền lại cho tượng gỗ (kra#°”), trước khi bán tượng này cho người Khmer ở vùng Phnôm Pênh. Để tìm hiểu những câu chuyện đã xảy ra với tổ tiên người Bu Nong từ thời kỳ khai thiên lập địa, các thế hệ con cháu của ông Tiăng đã khăn gói đi tìm pho ứượng gô do ông Tiăng làm ra và đã dạy cho toàn bộ câu chuyện liên quan đến bon Tiếng thời cổ xưa. Mọi người yêu cầu tượng gỗ thuật lại cho họ những câu chuyện đã xảy ra với tổ tiên họ. Khi tượng gỗ kể lại những câu chuyện thời xa xưa, người thuộc các ¿4
TÔ ĐÔNG HẢI


nhóm Mnông vừa nghe chuyện vừa ăn cua, lại sống ngay phía dưới thác nước suốt ngày nước chảy ồn ào nên chỉ nghe lõm bõm, tiếng được tiếng mất, không thuộc được bao nhiêu. Riêng chỉ có người Stiêng và các nhóm thiểu số ở bên đất Campuchia do khôn ngoan mang theo chuối để ăn, nên nghe lời kể của tượng gỗ rõ ràng, rành rọt, không mất một lời nào. Bởi thế, người Stiêng Bu Lơ, các nhóm Biat, R ông, thuộc nhiều nrong hơn cả...
Như vậy, theo quan niệm của đồng bào, vùng thượng nguồn suối Dak Huych (nay thuộc xã Bù Gia Mập huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước) là một trong những trung tâm quan trọng của sử thi nrong. Người Mnông ở Dak Lăk cũng cho biết, các nghệ nhân giỏi nrong thường tập trung ở vùng Dak Huych, tức là vùng Quảng Trực, huyện Dak Rlâp ngày nay.
Hiện nay, tại khu vực suối Dak Huych, có khá nhiều địa điểm còn lưu lại dấu tích của những nhân vật trong sử thị nrong. Đó là khu vực thác Teœr Nhã ỏ Bù Gia Mập. Trên những bãi đất cạnh thác mọc rất nhiều cây gạo gai (cây bông gòn rừng). Dưới gốc gạo là bãi ngải (gun) mà nàng Lết, nàng Mai, con của dJjrl, (Jri là thần cây đa, một ác thần) thường xuất hiện trong sử thi nrong, hái về điều chế thành các loại bùa ngai có những công dụng khác nhau, để giúp đỡ hay hãm hại một người tuỳ việc hai nàng quý mến hay thù ghét người đó.
Từ Leng Tar Nhà dì dọc theo dòng Dak Huych, ngược về phía bắc chừng vài cây số, sẽ gặp Leng Hur (thác Hur). Theo truyền thuyết, dưới Leng Hur có một chiếc hang rộng và sâu. Đó là nơi
Tiäng, Yang ở. Theo người Mnông, Stiêng cư trú ở vùng này, những vị tổ tiên của họ như Tiăng, Yang, Ndu... trong sử thi nrong không bao giờ chết. Họ vẫn sống dưới lòng Leng Hur và luôn phù hộ, giúp đỡ con cháu của mình. Người ta đồn rằng, có những người Mnông, Stiêng đi qua Leng Huưr, tự nhiên mất tích vài ngày. Khi trỏ về, người đó dắt theo một con trâu hoặc vài con heo. Đó là những người may mắn được xuống nơi ở của Tiăng, Yang chơi vài hôm. Khi trở về, họ còn được Tiăng, Yang cho quà là những con cá. Cá lớn, lên bờ trở thành trâu, bò, cá nhỏ, lên bờ biến thành heo.
Chung quanh khu vực Dak Huych còn rất nhiều địa điểm như vậy. Chẳng hạn, cách đó không xa có một thác nước gọ1 là Leng Măng Hí(. Đây là thác nước các nàng tiên, các người đẹp thường đến gội đầu. Trên những bãi đất cạnh bên thác, mọc khá nhiều cây ncho. Đây là một loại cây dây leo. Thân cây khi vò nát, có bọt như xà phòng. Người Stiêng, Mnông thường lấy cây này gội đầu, rất sạch.
Địa danh Dak Huych (vùng tiếp giáp giữa Bình Phước, Dak Lăk và tỉnh Mondukii của Campuchia hiện nay) được nhắc khá nhiều trong sử thi nrong. Các nghệ nhân kể sử thì nrong người Stiêng, Mnông, đều khẳng dịnh: bhu uực quanh suối Dab Huych, thời xa xưa, chính là một địa bàn sinh tụ quan trọng của các nhóm Stiêng, Mnông uà đó cũng là địa bàn phút nguyên của sử thi nrong. Oác già làng người Stiêng, Mnông thường thuật lại rằng, theo lời tổ tiên họ kể lại, thuở xa xưa, vùng đất này rất sầm uất, đông người sinh sống chứ không vắng vẻ, hoang vu như hiện nay. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỐI



Không chỉ khẳng định khu vực Dak Huych là nơi phát xuất của sử thi nrong, người Stiêng, Bu Nong ở Bình Phước còn hình dung ra một vùng rộng lớn là địa bàn hoạt động của các nhân vật trong sử thi. Đó là những địa danh xuất hiện trong các lời nói vần kể về nơi ở của các nhân vật quan trọng trong sử thì nrong:
(ã)
Bnâm Pren, Bnâm Brah, mei Birh
mei Breh Bnâm Kong heh, mei Seh mei liêng Bnâm Biăng, Tăng hon Rong Grong Kuôit Teng, bon Briêng lìya. Dịch”? : Núi Pren, núi Brah là nơi ở của mẹ Brih, mẹ Breh
Núi Kong Reh là nơi ở của mẹ Sch, mẹ ¿Jiêng
Núi Biăng là nơi ở của Tiăng con mẹ Rong
Grong Kuôi Teng ở làng Briêng Rya Bnâm Pren là núi Bà Đen (bnám, tiếng Stiêng, có nghĩa là núi, Pren là tên núi. Người Việt trong vùng gọi chệch thành Bà Đen. Núi Bà Đen là ngọn núi cao, khá nổi tiếng ở tỉnh Tây Ninh ngày nay). Bnâm Brah là núi Bà Rá (brah tiếng Stiêng, Mnông có nghĩa là thần). Đây là ngọn núi cao nhất huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước ngày nay. Người Việt trong khu vực không đọc được chữ brưh, nên đổi thành Bà Rá. Bnâm Kong Reh là ngọn núi nằm trên quãng giữa đường từ Buôn Ma Thuật đến Bù Đăng (huyện ở phía tây bắc tỉnh Bình Phước ngày nay). Bnâm Biăng là tên của ngọn núi cao nổi tiếng vùng Lâm Đồng, sau này người Việt đọc thành Lâm Viên (tên
của cao nguyên Lâm Viên thuộc tỉnh Lâm Đồng ngày nay).
Bon Briêng Rya là một làng nằm ở bên đất Campuchia.
Mẹ Brih, mẹ Breh, mẹ Šch, mẹ jJiêng, Tiăng kon Rong, Grong Kuôi Teng là những nhân vật quan trọng trong sử thì nrong. Họ có quan hệ thân tộc với nhau, trong đó Tiăng con mẹ Rong, thủ lĩnh của bon Tiăng, nhân vật trung tâm của sử thị nrong, là một trong những người có công hình thành ra tộc người. Như vậy, chúng ta thấy, ngoài trung tâm Dak Huych, địa bàn hoạt động của các nhân vật trong sử thì nrong còn bao trùm lên một phạm vì đất đai rộng lớn, bao gồm địa bàn nhiều tỉnh, thậm chí cá địa bàn của nước khác như Campuchia. Với những địa danh cổ xuất hiện trong sử thi nrong, một giả thuyết đặt ra: Phải chăng, trong lịch sử xa xưa, đã có thời kỳ địa bàn cư trú của nhóm tộc người chủ nhân của sử thi nrong mở rộng đến như vậy? Và trên địa bàn đó, dân cư đã đông đúc, bon làng đã sầm uất, con người đã tạo dựng nên một đời sống văn hoá, văn minh phát triển khá cao? Còn khu vực Dak Huych, như chúng tôi đã nói ở trên, chỉ là địa bàn cư trú cuối cùng của Tiăng, một trong những thủ lĩnh của bon Tiăng và con cháu của ông, sau khi nhóm các thủ lĩnh của bon Tiăng mâu thuẫn, xung đột với nhau và bon làng huyền thoại này suy vong, tan rã?
Có khá nhiều địa danh cổ xuất hiện trong lời nói vần và trong sử thì nrong của người Mnông cũng như của người Stiêng. Chúng tôi chỉ đơn cử một số ví dụ:
Giung mpơi Jơ ndđap
Riâp ba ma J6
Bong da banh hĩah
Rhub bah dâm
Bnâm Brah bah lở
Nghĩa là: _
Sông Glung nằm bên cạnh sông Jøl
Sông Rlâp ở phía bên phải
Bong dJa ở bên trái
Rhak ở phía dưới
Bnâm Brah ở phía trên.
Đông Glung chính là sông Bé. Sông Đak Rlâp chảy từ phía nam tỉnh Dak lăk (huyện Dak Rlâp) qua huyện Bù Đăng và Phước Long của tình Bình Phước. Bnâm Brah là núi Bà Rá, ngọn núi cao nhất huyện Phước Long thuộc tĩnh Bình Phước ngày nay...
Căn cữ vào các địa danh này, chúng tôi có thể phác hoạ ra phạm vị lưu truyền của sử thì nrong: Với trung tâm Dak Huych, địa bàn này mở rộng lên phía Bắc với các dãy núi Bnâm Nung, Bnâm Ka, nay thường gọi là núi Nam Nung, Nam Ka thuộc huyện Krông Knô tính Dak Lăk, phía đông là dãy núi Bnâm Biăng, thường gọi là Lang Biăng, nay thuộc tỉnh Lâm Đồng, phía nam là Bnâm Pren (núi Bà Đen) nay thuộc tình Tây Ninh và phía tây là các làng Bu Huych, Bu Than, thuộc địa bàn các xã (hhum) Dă Dam, huyện (sruÈ) Orang tỉnh (¿hef) Mondukiri (Campuchia). Đó chính là địa bàn sinh tụ của các nhóm Mnông như Bu Nong, Preh, Prâng, nhóm Stiêng Bu Lơ và các nhóm Biat, Rông... hiện sinh sống ở phần đất thuộc Campuchia.
Nong,
3. Hệ thống thần linh trong sử thì nrong.
Các nghệ nhân giỏi sử thì nrong cho chúng tôi biết, trong nrong có khá
TÔ ĐÔNG HẢI


nhiều bon làng, được chia làm hai tầng, tầng dưới đất có 48 bon và tầng trên trời có 27 bon!?. Đứng đầu mỗi bon có một nhóm những người, bao gồm một vị thủ lĩnh và nhóm thân tộc của vị thủ lĩnh ấy. Thủ lĩnh của một bon có thể là thần, có thể là các bán thần. Họ có thể bay trên trời, vượt qua biến!”, xuống tận bon Phan (bon của thần âm phủ, nơi ở của những người đã chết). Mỗi nhóm thủ lĩnh có một tính cách khác nhau, có thủ lĩnh là thần thiện, có thủ lĩnh là thần ác””. Chúng tôi cho rằng, nội dung chính xuyên suốt bộ sử thi nrong chính là sự phún ánh mối quan hệ phức tạp giữa các thế giới thần linh UỚI bon Tăng.
Trong tư duy thân thoại độc đáo của đồng bào, thế giới thần linh đó được hình dung là một hệ thống các bon làng với tổ chức xã hội tương tự tổ chức xã hội truyền thống của người Mnông, Stiêng cổ xưa. Các bon làng có thủ lĩnh riêng, có cư dân riêng, độc lập với nhau. Thủ lĩnh của các bon làng là các vị thần, bán thần, là thần linh mang hình các con vật, thậm chí các đồ vật biết suy nghĩ, đi đứng, nói năng, và có nhiều quyền phép! Mỗi nhóm thủ lĩnh của các bon làng có thể được nhóm thần linh này ủng hộ, giúp đỡ, nhưng lại bị nhóm thần linh kia thù ghét, lập mưu kế hãm hại. Các bon làng và các nhóm thủ lnh của họ đều bình đẳng với nhau. Chưa có vị thần nào hoặc vị thủ lĩnh nào có quyền tối thượng, bắt các bon làng khác phải phục tòng mình. Thủ lĩnh của bon Phan (làng âm phủ, thế giới của những người chết)!” chỉ ca1 quản một bon trong 48 bon dưới mặt đất, cũng như thủ lĩnh của bon Kon Nar (làng Mặt Trời) cũng chỉ cai quản bon làng của mình mà không có quyền NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Jỉ


gì đối với các bon làng khác trên tầng trời! Các thủ lĩnh của bon Tiăng, bon của con người, đã dám xuống tận bon Phan (bon làng của thần âm phủ) để đánh nhau với Sơm, Sơ, con của Phan!
Thế giới thần linh đó được chia thành hai tầng, mỗi tầng gồm nhiều bon làng:
- Tầng dưới mặt đất (bah nch, bah tch hoặc bah deh!`'): Tảng này được hình dung gồm nhiều bon làng (bước đầu, chúng tôi thống kê được 48 bon). Các bon này đều mang tên các vị ác thần hoặc ma lai. Đứng đầu mỗi bon là một thủ lĩnh với nhóm người thuộc thân tộc của vị thủ lĩnh đó:
+ Bon Kon Luụ (làng của thần Đá) có các nhân vật thủ lĩnh là Bung, Brăm, Brau, Lăng, Lâr, Hâr, Pâr, Per, Briêm, HBrớøI...
+ Bon Kon Brliăng (làng của ma lai, một loài qui chuyên hút máu người, đặc biệt là trẻ em) gồm các nhân vật thủ lĩnh như Ruôc, Ruông, Tông, Điăng, Tung, Lon, Kênh, Kăng...
+ Bon Kon Klang (làng của thần Ó) gồm có: Bư, Bưi, Ving, Jrah, .Jrai...
+ Bon Kon Nghe (làng của thần độc dược) gồm: Sương, Dong, Tìng, Mbong, Ndu, đjJang, Kră, Puênh, Lêng, Kong, Sung, Trang, Sơm, BƠ, drah, dJrai...
+ Bon Kon Un (làng của thần Rắn) có Ndu, Yang...
+ Bon Kon Ủnh (làng của thần Lửa) gồm: Brot, Brong, Ot, Ntâng, Pang, jâng, Líuh...
Tiếp tục, chúng ta có thể kế thêm nhiều làng nữa như bon Kon Su (làng của thần Sóc), bon Kon Đe (làng của thần Chuột), bon Kon Suôp (làng của thần Chuồn Chuồn, là một con chuồn
chuồn lớn có thể ăn thịt người), bon Kon Văng (làng của thần Hòm chôn người chết, biết đi, biết ăn thịt người), bon Kon ŒGut (làng dưới chân núi Nâm Ping, ngọn núi cao ở khu vực của người Bri Drôn, nghĩa là người Khmer ở rừng), có các nhân vật là Tiăng, Tang, thường gọi là Tiăng Tang Kon €ur, cũng là con của Me Rong, người sinh ra Tiăng ở bon Tiăng, nhân vật trung tâm của sử thì nrong...
- Tầng trên trời (Bah Mặt Nar): gồm 327 bon, ở mỗi bon cũng có những nhân vật thủ lĩnh như:
+ Bon Jâng Trôk (làng ở chân trời) gồm có các nhân vật thủ lĩnh là Yui, Sral, RJal, Brai, Broil (trong đó Broi, Brai lại là eon của Rịa).
+ Bon Kon Bong (làng của bà Bong, người phụ nữ có trách nhiệm chăm sóc công việc trên mặt đất. Đó cũng là làng sinh ra Me Rong) gồm có các nhân vật: Yơng, Kong, Tìng, Mbong, Bung, Wing, Bìng, Yông, Kuah, Nơm, Yâng, Krong...
+ Bon Kon Kla (làng của thần Cọp, con cọp này rất lớn, song lại rất hiển lành, không ăn thịt người) gồm có: Tìng, Mbong, Ndu, Yang, Teh, Dong, Sơ, Vân, Ung, Ong, Jong...
+ Bon Kon Klêr (làng của thần Đá Thác) gồm các nhân vật thủ lĩnh: Tìing,
Mbong, Ndu, Yang...
+ Bon Kon Klan (làng của thần Trăn) gồm các nhân vật: Ndu, Yang, Tìng, Mbong, Lêng, Kong, Kră, Puênh, Brol, Brom...
+ Bon Kon Tôch, Kon Pa (làng của thần Rồng, thần Ba Ba) gồm các nhân vật chính: Ndu, Yang, Tìing, Mbong, Sung, Trang, Lêng, Kong, Yơng, Dong, Bình, Yông, Bung, Wing... 2Ó
TÔ ĐÔNG HẢI


+ Bon Kon 'Feh (hoặc Kon Deh, Kon Neh, làng của thần Đất) gồm có Tìing, Mbong, Buông, Yang, Sung, Krong, Yơng, Kong, Tiăng, Tang, ‹Jrah, ‹Jrai...
+ Bon Kon Plư, Kon Plâng, Kon Mplang (làng của thần Biển, thần Đảo) gồm có Klang, Gôi, Kong, Yang, Tìng, Mbong, Buông, Luông, Bung, Ving...
Giữa Trời và Đất là một khoảng ranh giới, tại đó diễn ra cuộc tranh chấp liên miên giữa Nước và Lửa. Lúc Lửa lên mạnh thì Nước rút. Lúc Nước lên mạnh thì Lửa rút. Người Mnông, Stiêng eó câu văn vần để nói về khu vực Nước, Lửa tranh giành nhau này:
Tât trôh ly nhất tơm sơr ma neh
Tât neh ly nhâr tơm sơr ma trôh
Nghĩa là:
Trời úp không còn đường đến với dất
Đất úp không còn đường lên tới trời
Tại vùng ranh giới đó có một con đường đá gập ghềnh để cho thần Mặt Trời (Me Nar) và các con của bà (Kênh, Kăng) qua lại.
Phía trên đường ranh giới đó là bon Tiăng, ngôi làng của những người đầu tiên, những vị bán thần (demai- dieu) đã có công khai thiên lập địa, sáng tạo nên con người, tạo dựng nên cuộc sống trên trái đất. Trong quá trình khai sáng đó, các thủ lĩnh của bon Tiăng đã có những mối quan hệ đặc biệt với các nhân vật ở 7B bon làng của các thần linh kia, trong đó hầu hết là những cuộc chiến tranh dữ dội để giành lại quyền sống cho bon làng của con người. Đó là những cuộc chiến tranh giành lại vợ bị những thủ lĩnh - những vị thần ác ở các bon làng khác bắt cóc, lấy lại những đồ vật quí, những vũng nước nhiều cá, những cây
thần... đã bị những thần linh ở các bon kia chiếm đoạt. Những cuộc giao tranh đó thường diễn ra rất quyết liệt, dai đăng và nhiều lúc những nhân vật của bon Tiăng bị rơi vào những hoàn cảnh bi đát, thủ lĩnh bị giết chết, linh hồn họ lang thang dưới địa ngục (bon Phan - bon làng của linh hồn những người đã chết). Song, cuối cùng những thủ lĩnh đó lại được hồi sinh, bon Tiăng lại được khôi phục, bởi họ được những thần linh bảo vệ, che chở...
Đó là nội dung chính xuyên suốt hàng trăm tác phẩm đơn 0ì của bộ sử thị nrong đồ sô uới sự tham gia của hàng trăm nhân uật chính là các Uị thần hoặc bán thần trong một thần điện (panthóon) đặc biệt đã hiện hưu trong tư dụy thần thoại của đồng bào từ xa xưa. Đây là một sáng tạo độc đáo đâng ngạc nhiên, được hình thành trong quá trình phát triển của văn hoá nghi lễ - tín ngưỡng Mnông, Stiêng. Thế giới thần linh đó, cho đến nay, chúng tôi mới chỉ thấy ở một số nhóm Mon- Khmer phía nam mà không thấy ở các tộc người khác. Tính hệ thống, với số lượng đông đảo các nhân vật của (thần điện trong sử thì nrong chứng tỏ sự phát triển của tín ngưỡng, của tư duy thần thoại ở đồng bào đã đạt tới trình độ rất cao. Sơ bộ, chúng tôi có một số nhận xét về tư duy thần thoại đó như sau:
- Theo quan niệm của đồng bào, toàn bộ vũ trụ được chia thành hai tầng, tầng dưới đất và tầng trên trời. Ở cả hai tầng đó đều có bon làng của các vị thần lành và bon làng của các vị thần ác (không phân thành tầng riêng cho những thần lành và tầng riêng cho những vị thần ác). NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
29


- Bon Tiăng là một bon làng của con người, với thủ lĩnh là những vị bán thần khai sáng nên eon người, tạo dựng nên cuộc sống. Bon Tiăng năm ở phía trên, sát đường chân trời, mà không nằm ở tầng dưới mặt đất (bah Deh).
- Tại phần dưới mặt đất, có cả bon làng của linh hồn những người đã chết (bon Phan). Đó chỉ là một bon làng trong số 48 bon làng nằm dưới mặt đất và thế giới nằm dưới mặt đất không phải là một thế giới riêng như trước đây chúng ta vẫn lầm tưởng. Các thủ lĩnh của bon Kon Phan cũng chỉ cai quản một bon làng này chứ không quản lý toàn bộ thế giới đưới mặt dất.
- Bon Kon Nar là bon của thần Mặt Trời. Đây cũng là một trong 27 bon làng ở phía trên trời chứ không phải là toàn bộ thế giới trên trời. Các thủ lĩnh của bon Kon Nar chỉ quản lý một bon này mà không quản lý toàn bộ thế giới tầng trời.
- Mỗi bon có từ vài ba đến hàng chục nhân vật, với tên gọi khác nhau, những tính cách khác nhau. Các nhân vật này có thể tốt, xấu, với những tham vọng khác nhau... Họ được các thần linh của bon làng và bạn bè của các thần linh đó che chở, bảo vệ. Đồng thời cũng bị các vị thần khác có ác cảm, hãm hại.
- Trong các cuộc tranh chấp giữa các nhân vật của các bon làng, không chỉ có sự đụng độ giữa các nhân vật trong các bon làng mà còn là sự đụng độ giữa các thế lực thần linh bảo hộ 0à hãm hạt các bon làng đó.
Sự đa đạng trong tính cách của các thần linh, trong đó có sự xen lẫn giữa
các tính tốt và tính xấu trong một vị thần linh, thể hiện yếu tố biện chứng trong tư duy thần thoại Mnông, Stiêng, một điều rất hiếm thấy trong thần thoại của các tộc người khác ở Tây Nguyên. Điều đó khiến cho các thần linh của người Mnông, Stiêng cùng các nhân vật thủ lĩnh của các bon làng đó hết sức gần gũi với con người. 7 duy thần thoại của người Mnông, Stiêng, chính là sự phan ánh chính xác những quan niệm truyền thống của người Mnông, Stiêng, uê xã hội loài người uà UỀ Uũ trụ, những quan niệm tuy nguyên sở song lại mang những hạt nhân biện chứng uà khoa học khiến chúng ta phải ngạc nhiên.
- Qua tên gọi của các nhân vật thủ lĩnh của các bon làng, chúng ta bắt gặp cách đặt tên người thời cổ của người Mnông, ĐStiêng. Đó chính là những tên gọi không kèm theo họ mà kèm theo tên của cha mẹ người đó hoặc những người đứng đầu dòng họ của người đó (sau này, tên đó có thể trở thành tên bon làng, nơi người đó sinh ra). Ví dụ: Sơm Sơ Kon Phan là hai người có tên Sơm và Sơ, con của Phan hoặc con cháu của Phan. Kon Phan, sau này có thể trỏ thành tên chung của bon làng. Điều này phần ánh rất rõ nguồn gốc (h‡ tộc trong tổ chức xã hội của các tộc người này. Điều đáng chú ý trong cách đặt tên của người Stiêng, Mnông là có rất nhiều tên trùng nhau. Để phân biệt người ta phải gọi tên kèm theo. Ví dụ: Sơm Sơ Kon Phan, Sơm Sơ Kon Nghe, Tìng Mbong Kon Trôh, Tìng Mbong Kon Puh, Tìng Mbong Kon Krâng... Để người nghe hiểu chính xác, người ta phải gọi đủ các tên làng kèm theo tên nhân vật mới tránh khói nhầm lẫn. 40
TÔ ĐỒNG HẢI


Người Mnông, Stiêng, có tập quán gọi tên hai nhân vật một như Gioi- Giai Brơi. But, Kră- Tung, Sung- Krong®®...
Hiểu rõ tập quán đó, chúng ta phải biết đó chính là hai nhân vật chứ không thể nhầm lẫn đó là tên kép của một nhân vật.
Trên đây là những phát hiện mới về nội dung của sử thì Nrong chúng tôi nhận được sau khi tiến hành những đợt khảo sát điều tra điền dã trên địa bàn Dak Lãăk và Bình Phước. Những phát hiện mới này cho chúng ta hiểu được toàn bộ đời sống tín ngưỡng của người Mnông, Stiêng, một hệ thống tín ngưỡng phức tạp hơn chúng ta tưởng rất nhiều, đồng thời, từ đó cũng hiểu được những nội dung lớn của bộ sử thì nrong liên hoàn, đồ sộ này.
4. Một số vấn đề khác xung quanh sử thi nrong.
- Phong canh bon Tiăng (N'âp bon Trăng) trong sử thị nrong:
Trong các sử thi nrong mà chúng tôi tìm hiểu được ở người Stiêng Bu Lơ tính Bình Phước, thông thường, trước khi vào cốt truyện, các nghệ nhân bao giờ cũng mở đầu bằng một đoạn miêu tả phong cảnh của Bon Tiăng với những nét lộng lẫy, tráng lệ, huyền ảo, như một chút hoài tưởng lại vùng đất kỳ điệu của quê cha đất tổ mà nay đã không còn nữa. Đoạn miêu tả phong cảnh Bon Tiăng được gọi là N'áp bon Tiăng, có những chỉ tiết cụ thể, gợi cảm khiến người nghe có thể hình dung ra quang cảnh kỳ diệu của một trong những bon làng đầu tiên của tộc người:
Trăng tăm jJrú lắm năng bud
Tuăng tn but bung năng hon
Kiut thot tu tơm Jrt yau Kiot bhung phăng châu tu tơm Jrang tuêng Blâm lơ dh tu đơm JrL yau DỊ ngung rung bah hring Dị ngừng pưd bÌetch Siech tu teh Jjwh bah bnông Dịch: Không ai trồng được cây đa như Tiăng đã trồng Không ai dựng được rừng núi như Tiăng đã dựng Ông trồng cây #!u¿ dưới gốc cây đa Ông trồng cây *#iot dưới gốc cây vải Trồng cây cà ngọt dưới gốc cây cổ thụ Tiăng trồng cây lớn cho chim hồng hoàng đến đậu Tiăng trồng cây nhỏ cho thú rừng đến ăn. Còn đây là nhà cửa của bon Tiăng, với tường cao cửa rộng, được xây dựng khang trang:
Nhti dụd bei pud chet bhlot
¿Jay dot Jay pot ba drăng
Tung nht huăng păng cha! dơ doi
Nhhai gglei pet Jât lở pông
Nhi poh bông lpông pham bơng
Ndrơng poh tắp dặp long dra bei sud leng băng
Dịch:
Tường nhà đan bằng dây mây
Vách nhà ken bằng gỗ quý
Nhà thì cao, cửa thì rộng
Ba mươi cánh cửa, bảy dãy nhà
Nhà xây tám tầng, bếp làm tám chỗ
Đống củi xếp dài như thác đổ trên sông NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
4 1


Đường đi lối lại trong làng được lát bằng chì, bằng bạc, rộng rãi phẳng phu:
Bảăq trong mịt trou bah ntrăh
Ndrân dăa tât phôn nhang bah haic
Sud ur pur nhì
Sud ur pur Jay bơ brong
cjjrong nhì luq, Jrong Jay Ìoth
Dịch:
Đường lên rẫy được lát bằng chì
Đường ra bến được trải bằng bạc
Trong nhà khắc đủ thứ hình lung linh
Trong nhà tô đủ loại màu lóng lánh
Cột nhà, cái thì bằng đá, cái thì
bằng sắt...
Vân biết lối nói phóng đại, ngoa dụ là một trong những thủ pháp nghệ thuật ngôn từ rất phổ biến của sử thị, song, sức tưởng tượng của đồng bào các dân tộc cư trú trên địa bàn Tây Nguyên, ngay từ thời khai thiên lập địa mà đã tạo dựng nên hình ảnh một làng bon có dáng dấp một thành phố hiện đại như vậy thì thật đáng kinh ngạc!
Trong sử thị nrong, thiên nhiên hiện lên thật là phong phú, da dạng. Nếu người Ấn Độ có câu khái quát khá điển hình về sử thi: Cái gì không có trong hai bộ sử thị Mahabharata uà Ramayana thì không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào trên đất Ấn Độ” thì trong đợt khảo sát điển đã vừa qua tại Dak U, Bu Khâu, Bu Nung...(huyện Phước long, tỉnh Bình Phước), các nghệ nhân Stiêng hát kể nrong là Điểu Jua (63 tuổi), Điểu Nôi (86 tuổi, Điểu Plêq (62tuốï), một cách ngẫu nhiên, đã tự hào nói với chúng tôi một điều tương
tự: Tiết cả mọi cây cối, muông thú, chữm chóc trên mặt đất, đều có trong sử thị nrong của người Stiêng chúng tôi. Và để chứng minh điều vừa nói, các nghệ nhân đã dọc cho chúng tôi nghe hai câu văn vần kể tên các loài muông thú, các loài cây có xưa kia vẫn thường gặp trên vùng đất cư trú của người Stiêng (có loài nay đã không còn xuất hiện). Về các loài thú, có:
- Yưn, rhay, bay, hsông
Ruôih, hỉa
rmaih, , hau, shqu,
măng ÏÍu...
Trong đó, Yưn là con nai, rhay là heo rừng, by là một loại trâu rừng, sông là một loài trâu rừng khác, ruôih là voi, rmairh là tê giác, hỉa là cọp, rhau là một loài thú giống cọp, sbøu là gấu, măng lu là loài chó sói lông vàng...
Về các loài cây cỏ, sói đá...có:
- jJhư, Jấr, tngâr, bar, tmau boh,
tơm raich...
Trong đó, jhư , /âr là hai loại lồ ô, thgâr là một loại tre, har là nứa, fmnau koh là loại đá tổ ong, fơm raich là cây đầu...
Sự tương đồng trong quan niệm về sử thi của người Ấn Độ và các nhóm tộc người Mon- Khmer ở nam Tây Nguyên, là những tộc người ở cách xa nhau về mặt địa lý, khác nhau về văn hoá, là một điều rất đáng lưu ý. Và, điều này cũng góp phần chứng minh sự thống nhất trong quan niệm về thể loại sử thi của nhiều dân tộc trên thế giới.
- Về tên gọi của sử thi nrong:
Người Mnông (các nhóm Bu Nong hoặc Mong) thường gọi bộ sử thi này là ot nrong. Trong tiếng Mnông, øf nghĩa đen là cưư, nghĩa bóng là béo đi héo lại, 42
TÔ ĐÔNG HẢI


bể mãi bhông dút, nrong có nghĩa là câu chuyện xa xưa. Song, không phải tộc người nào, nhóm Mnông nào cũng sử dụng cụm từ ø nrong để chỉ việc hát bể sử thí nrong dẫu rằng họ có sở hữu hình thức sinh hoạt văn hoá hát kể sử thì rong này. Nhóm ?Preh_ gọi việc hát kể nrong là mprở nrong, trong đó mprở là một hình thức hát kể khác. Người Stiêng ở Bình Phước cũng gọi sử thị là nrong (có nơi gọi là nrăng), song lại gọi cách hát kể là £&m pốt nrong mà không bao giờ gọi là o¿ nrong. Ngay các nhóm Bu Nong, Nong đôi khi cũng dùng lối hát kể £ăm pát để chuyển tải nội dung của nrong, nhưng họ phần lớn đều gọi loại sinh hoạt văn hoá này là o nrong, tuy nếu có gọi là ốm pât nrong đồng bào cũng không phủ nhận. Như vậy, trong các cụm từ này, nrong (hoặc nrăng) là từ chỉ thể loại, còn of, mprơở, tăm pôt...là từ chỉ các lối hát (phương pháp diễn xướng) khác nhau mà các tộc người hoặc các nhóm khác nhau thường sử dụng để chuyển tải nội dung của nrong.
Bởi vậy, để cho thống nhất và chính xác hơn, chúng tôi đề nghị gọi tác phẩm sử thi này ¿heo từ chỉ thể loại là NRONG mà bhông đặt trước từ này những từ chỉ phương pháp diễn xướng như ot, mprơ, tăm pât...(do còn mới mẻ, lại không biết tiếng dân tộc, nhiều người Việt, trong đó có cả những người làm công tác văn hoá đã viết những từ này chưa chính xác. Đáng lẽ phải viết là o£ nrong, tăm pất nrong, hoặc mprởd nrong nhưng nhiều người lại viết sai ø thành ôf, tăm p⣠thành fâm păit, nrong thành nrông, ndrong hoặc ndrông...Nếu viết sai, các
cụm từ này có thể sẽ mang ý nghĩa khác hoặc không có nghĩa).
- Về mối quan hệ thân tộc trong sử thị nrong:
Điều đáng chú ý là, trong bộ sử thi nrong, những tác giá dân gian đã không trình bày nhân vật như những cá nhân tồn tại một cách đơn lẻ mà lại trình bày họ trong mối quan hệ thân tộc phức tạp của cá nhân ấy. Đó là một biểu hiện rất rõ ràng của tính /b¿ tộc đã ¡in dấu đậm nét trong đời sống xã hội cổ truyền của nhiều tộc người trong nhóm Mon- Khmer nam : một bon làng cổ khi mới hình thành bao giờ cũng bao gồm những cư dân đầu tiên là những người trong cùng một thị tộc. Với mỗi nhân vật trong bộ sử thi nrong đều có thể xây dựng một (độc phd của nhân vật ấy. Không những thế, đồng bào còn hình thành những lời nói vần về tên con cháu của những nhân vật trong bộ sử thi này để mọi người đễ nhớ dễ thuộc. Ví dụ, các con gái của bà ong (nhân vật chính, người được Tiăng chọn làm mẹ để đầu thai) và ông Bông, gồm:
- Brih, Brch, Sch, Jiang, Driang, Drơ, Sơ, Vựn, Môi, Mai...
Còn các con trai của họ gồm:
- Kiôp, Nhông, Tông, Bơng, Yơng, Yang, Srơng, Ndrang, Srang, Lput, JJâng, Lut, TL, Bì, Ngĩa, Pung, Ma...
Những người con trai, con gái của ông bà Bông, Rong, khi kể tên đều phải đọc ghép tên cha, mẹ hoặc cä tên hai ngươi, như: Brih, Breh hon Rong, Brih, BHrch hon long hoặc Brih, Brch hon Bông, Rong...
Hai nhân vật là Tìng - lung, có các con gÁI: NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
- Jdrah, ‹jJrat, Khăi, Mai, Bưn, ông, Kông, Giơng...
Và con trai: - Yơng, Yang, Lông, Kon...
Ndu hon Bông, người anh em của Tiăng có bây người vợ:
BL Bret mhe nu tuăng Me Brăng mhe nu ¡ch Bịch me siam Kông, Ùơ
bàng Lơ Hơ, lăng Lơ Ha bon Ủnh, hon Nar
Dịch:
Chị Bret ông cũng muốn cưới
Mẹ Brăng ông cũng muốn lấy
Ông ngủ với các cô gái tên là Kông, Dơ, con của mẹ nuôi
Ông thích cả hai nàng Lơ Hơ, Lơ Ha, con của thần Lửa, thần Mặt Trời
Đông nhất và phức tạp nhất, đồng thời cũng là trung tâm các diễn biến trong toàn bộ sử thì nronø, chính là hệ thống thân tộc của Tăng, thủ lĩnh bon Tiăng. Ở người Stiêng, Mnông cư trú trên địa bàn Phước Long, Bù Đăng (tỉnh Bình Phước), đồng bào còn lưu truyền, trước kia, Tiăng đã có một lời thách đố những ai có thể kể đầy đủ về tất cả những người thân tộc của ông, nghĩa là kể đầy đủ bộ sử thi nrong. Lời thách đố đó, đến nay cũng không có ai làm nổi! Như vậy, kể từ xa xưa, người Stiêng, Mnông đã quan niệm rằng: Toàn bộ nột dung của NRONG chính là những câu chuyện đã xay ra UỚIL mọi thành uiên trong thân tộc của Thiăng, người được coi là uị tổ đã có công hình
43
thành nên tộc người - chủ nhân của bộ sử thì hỳ Uĩ này.
- Nrong là bộ sử thì thuật lại những biến cố trong cuộc đời của Tiăng.
Tiăng, với tư cách là vị thủ lĩnh của bon Tiăng, bon làng đầu tiên của tộc người, không chỉ có công tạo dựng nên bon làng mà còn cùng với các thành viên khác trong thân tộc, chiến đấu chống lại mọi kẻ thù đến từ các bon làng của các ác thần, ma lai, ra sức cướp bóc, huỷ diệt bon Tiăng. Cuộc chiến dấu của Tiăng và các thành viên trong thân tộc của ông là cuộc chiến đấu chính nghĩa bởi mục đích của cuộc chiến đấu ấy là để bảo vệ cuộc sống bình yên của bon làng. Bởi vậy, những biến cố xảy ra trong cuộc đời của Tiăng cũng chính là những biến cố xảy ra với bon Tiăng. Người Mnông, Stiêng có câu văn vần:
DL long bah har
Bar long bah rday
Pay long bah rhay siat rhay siêng
Rhiêng long bah briêng hÌang
Dịch:
Một đời bị cây nứa ăn
Hai đời bị cây tre ăn (loại tre đốt ngắn)
Ba đời bị heo rừng heo có ăn
Một trăm đời bị đại bàng, quy dữ ăn
Những biến cố đó được thuật lại tỷ mi, chi tiết, cụ thể trong từng sử thi đơn ui của bộ sử thì nrong đồ sộ. Và, với nội dung thuật lại những cuộc chiến đấu thắng lợi chống lại những kẻ thù hung ác để bảo vệ bon làng của vị anh hùng huyền thoại Tăng đã khiến nrong trỏ thành bản anh hùng ca bất 1Ị
TÔ ĐÔNG HẢI

hủ, được nhân dân lưu truyền từ vùng này sang vùng khác, từ đời này qua đời khác, cho đến hôm nay. Trải qua bao thế hệ, nrong đã trở thành niềm hy vọng, nguồn sức mạnh của cộng đồng tộc người và giúp cộng đồng đó vượt qua những khó khăn, thử thách, đe doạ cuộc sống của họ, để tiếp tục tồn tại và phát triển...
Trên đây chỉ là một số những phát hiện của chúng tôi trong các đợt khảo sát điền đã trên địa bàn cư trú của các tộc người Mnông, Stiêng, đặc biệt trên địa bàn cư trú của những nhóm tộc người được col là ch nhân của pho sử thì nrong đồ sộ.
Những phát hiện đó đối với chúng tôi là rất thú vị, song chúng tôi chỉ col đây là những gợi mở cho những ai quan tâm đến việc tìm hiểu và giải mã (décoder) những nội dung, ý nghĩa hàm chứa trong bộ sử thì này, bộ bách khoa toàn thư uề những tộc người 0uà nhóm tộc người Mon- Khmer ở Nam Tây Nguyên, những chủ nhân của một gia tài uăn hoá độc đáo đến mức đăng ngạc nhiên. Đáng tiếc là, trước gia tài 0uăn hoá uô giá đó, chúng ta còn chưa hiểu được bao nhiêu]
T.ĐU.H
(1) Theo nhật ký điển đã của Tô Đông Hải, năm 1989.
(2) bong, trong tiếng Stiêng, có nghĩa là dải đất ven sông.
(3) hrakb, trong tiếng Stiêng, có nghĩa là lõi gồ. Khi đẽo gồ làm tượng, người ta thường dùng lõi của những cây gỗ để tượng bền, lâu hỏng.
(4) Bù Gia Máp, địa danh tiếng Stiêng bị Việt hoá. Đúng ra phai gọi là Bu Ja Mãp, trong đó, Bu có nghĩa là người, /Jœ Mấp là tên một loại có tranh. Pu .Ja Mặp, nghĩa là người sống tại nơi có bai có tranh .
(B) Bnâm, tiếng Stiêng, có nghĩa là núi. Nhiều nơi, khi phát âm từ này, thường bỏ phụ âm B, gọi là nâm.
(6) Tất cả những bản dịch từ tiếng Stiêng trong bài viết này đều do một trí thức trẻ người Stiêng tên là Điểu Đức, 30 tuổi, hiện ở Bu Dak U, xã Phú Nghĩa, huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước dịch từ tiếng Stiêng. Tô Đông Hải biên tập.
(7) Con số các bon phía trên và phía dưới đường phân giới giữa Trời với Đất (48 bon phía đưới và 37 bon phía trên) có thể còn chưa đầy đủ. Sau này, chúng tôi sẽ bổ sung.
(8) Biển, đây là cách dịch thoáng từ cụm từ dak tuêb dak tuuar, trong tiếng Stliêng, nghĩa đen là uùng nước mênh mông, không thấy bến bờ.
(9) Thần thiện, thần ác: là cách phân tương đối, bởi điều đặc biệt trong tư duy của các tộc người Mon - Khmer ở Nam Tây Nguyên là tính biện chứng trong xây dựng tính cách nhân vật: Các nhân vật thiện cũng có nhiều lúc làm những điều xấu và các nhân vật ác đôi khi cũng có những cử chỉ hào hiệp, những việc làm tốt.
(10) Bon Phan: Trong tư duy của đồng bào, bon làng của những người đã chết không nằm dưới lòng đất mà lơ lửng phía dưới đường phân cách Trời và Đất như một số bon làng khác.
(11) Neh, Tch, Dech đều có nghĩa là đất. Ö mỗi vùng, mỗi nhóm tộc người, sự phát âm có đôi chút khác nhau, song, khi nói chuyện với nhau, các nhóm này vẫn có thể hiểu nhau.
(12) Tập quán gọi tên kép từng cặp hai người một không thấy ở một số tộc người lắng giềng như người Êđê, Jrai, nhưng lại thấy ở người Raglai ở Khánh Sơn, Khánh Hoà và đặc biệt phổ biến ở người Mường.
(13) Theo T.S5 Phan Đăng Nhật: Vùng sử
thì Tây Nguyên. Nxb. KHXXỈH, Hà Nội, 1999, tr. 18.