NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
tl
NHỮNG PHÁT HIỆN Mới
XUNG QUANH
SỬ THỊ NRONG
TÔ ĐÔNG HẢIP'
La -. và. `
Nghệ nhân Điều Kâu dân tọc M'nong
(xa Đắk Rung, Đảk Song, Đảk Lắc)
œ thì nrong dược phát hiện vào
đầu năm 1989! khi nhóm cán bộ
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Văn
hoá dân gian phối hợp với Sở Văn hoá-
Thông tin tỉnh Dak Lăk tiến hành đọợt
công tác điền dã trên địa bàn các huyện
Dak Mi, Dak Nông, tỉnh Dak Lăk.
Chín năm sau, năm 1997, khi trỏ
lại địa bàn này, chúng tôi mới xác mình
được rằng, đây là một bộ sử thi có cấu
trúc kiểu liên hoàn với khối lượng khá
đồ sộ các sử thi đơn uị. Ngay khi đó,
chúng tôi đã ghi lại tên của trên 40 tác
phẩm sử thị đơn uị của bộ sử thì liên
hoàn đó. Sau này, trong những đợt
'}TS, Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian.
khảo sát tiếp theo, chúng tôi đã vô cùng
ngạc nhiên vì số lượng các tác phẩm
đơn uị của nrong đã lên tới hàng trăm
tác phẩm, mỗi tác phẩm gồm từ bốn
ngàn đến trên một vạn câu văn vần,
nếu ghi âm liên tục, phải từ khoảng
sáu đến ba mươi giờ băng. Mặc dù các
tác phẩm đơn u¡ của bộ sử thì nrong đồ
sộô này vân đang tiếp tục được sưu tầm
và bước đầu được dịch ra tiếng Việt,
hiệu đính và biên tập, chúng tôi đã có
thể khẳng định, nrong là bộ sử thi
liên hoàn có hhối lượng đồ SỐ UdO
loại hàng đầu trong số các sử thi đã
được phát hiện trên thế giới!
Tuy vậy, nhiều vấn để xung quanh
bộ sử thi này vẫn đang còn là những
câu hỏi lớn đối với những người làm
công tác nghiên cứu. Chủ nhân dích
thực của nmrong là ai? Quá trình sáng
tạo ra bộ sử thi trường thiên này diễn
ra như thế nào và vào thời điểm nào?
Địa bàn hình thành và lưu truyền của
bộ sử thi này? Trong cấu trúc của bộ sử
thi liên hoàn gồm hàng trăm tác phẩm
đơn U¡ này, có thể sắp xếp thứ tự các
tác phẩm được không và thứ tự đó, nếu
có, sẽ như thế nào? Nội dung của nrong
để cập tới những vấn để gì? Số lượng
nhân vật trong toàn bộ tác phẩm lên tới
vài trăm người, họ có quan hệ gì với
nhau và những quan hệ đó diễn biến ra
sao qua từng tác phẩm đơn u¡? Thi
pháp của tác phẩm? Quá trình học và
lưu truyền bộ sử thi nrong của các nghệ
nhân diễn ra như thế nào?...
Trong những năm qua, đặc biệt là
trong hai năm 2000- 2001, chúng tôi
may mắn được tiến hành khảo sát điền
đã nhiều đợt trên địa bàn tỉnh Bình
hiện)
TÔ ĐÔNG HẢI
Phước trong những khoảng thời gian
tương đối dài. Qua những đợt khao sát
và sưu tầm sử thi. chúng tôi phát hiện
ra nhiều điều thú vị bất ngờ chung
quanh bộ sử thi nrong. Có những điều
có thể khăng định. Có những điều mới
chỉ là những giả thuyết. Song, trong bài
viết này, chúng tôi xin mạnh đạn trình
bày một số vấn đề mới phát hiện liên
quan đến bộ sử thi này, để có thể giúp
những ai quan tâm đến 0uăn hoá sử thi
có thể có những câu trả lời cho những
vấn đề lớn liên quan đến sử thi nrong,
một giá trị văn hoá lớn và là niềm tự
hào của các dân tộc Việt Nam.
1. Chủ
người nào?
nhân của nmrong là tộc
Đây là một vấn để không đơn giản
như trước đây chúng ta đã tưởng. Cho
đến nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng,
chủ nhân của nmrong chỉ là người Mnông
(hoặc Bưu Nong, theo cách tự gọi của
đồng bào). Khi khảo sát trên địa bàn
các huyện Phước Long, Bù Đăng, tỉnh
Bình Phước, chúng tôi mới được biết,
nrong còn được lưu truyền trong một
số tộc người khác ở nam Tây Nguyên.
Ở tỉnh Bình Phước, nrong không chỉ
lưu truyền trong số người Mnông mới di
cư từ các huyện Dak Rlâp, Dak Nông,
Dak Mi], thuộc tỉnh Dak Lãk, sang
Bình Phước (trước đây là tỉnh Sông Bé)
vào những năm 1979 mà còn rất phổ
biến ở những người Mnông (nhóm Bư
Nong) bản địa, đã sống tại các làng cổ ở
các huyện Phước Long, Bù Đăng ở Bình
Phước từ rất lâu đời.
Điều đó chứng tỏ, sử thi nrong phổ
biến trên một địa bàn khá rộng bao
gồm phần đất của các huyện phía nam
tỉnh Dak Lãk, phía bắc tỉnh Bình
Phước và một số địa bàn ở ven biên giới
trên đất Campuchia. Trong các nhóm
Mnông, sử thi nrong chỉ phổ biến ở các
nhóm Mnông phía nam (phía nam sông
Krông Knô), gồm các nhóm Bu Nong,
Nong, Preh...Ngoài ra, nrong cũng được
lưu truyền ở một số nhóm tộc người
như Biat, R'ông...mà một số nhà nghiên
cứu cho đó là những nhóm Mnông ở
Campuchia. Trong khi đó, sử thì nrong
không thấy lưu truyền trong các nhóm
Mnông phía bắc (phía bắc sông Krông
Knô) như nhóm Gøar, nhóm tâm, nhóm
Kuênh...
Hơn nữa, điều đáng chú ý là, tại
tỉnh Bình Phước, chúng tôi thấy sử thi
nrong rất phổ biến ở người Stiêng, và
chỉ ở người SHiêng nhóm Bu Lơ (Bu Lơ,
trong tiếng Silêng, có nghĩa là uùng
cao, Uùng trên).
Người Stiêng cư trú chủ yếu ở các
tỉnh Bình Phước, một phần ở tỉnh Đồng
Nai và Lâm Đồng. Khi khảo sát sử thi
nrong của người Stiêng, chúng tôi nhận
thấy, mặc dù, về cơ bản, sử thi nrong
của người Stiêng có khá nhiều điểm
tương đồng để có thể coi chúng là
những tác phẩm có chung một nguồn
gốc với sử thì nrong của người Mnông,
song, trên một số phương diện, hai bộ
sử thi này lại có những khác biệt về nội
dung, hình thức diễn xướng, ngôn ngữ...
để có thể nghĩ rằng, từ khá sớm trong
lịch sử văn hoá tộc người, chúng đã
tách thành hai dòng khác nhau.
Các nghệ nhân Stiêng và Mnông ở
Bình Phước cho chúng tôi biết, từ xa
xưa, cha ông họ cũng quan niệm rằng,
Sử thi nrong có hai dòng khác nhau.
Tại Bình Phước, đồng bào Stiêng phân
biệt hai dòng sử thi nrong đó theo địa
lý (người Stiêng gọi dòng là mab với ý
nghĩa là phong cách, trường phú):
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
sb
- rong mah Giung (còn gọi là
nrong bong” Giung): dòng nrong Sông
Bé.
- Nrong mabk Rlâp ( còn gọi là nrong
bong Riáp): dòng nrong Dab Riáp.
Dak Glung (sông Bé) và Dak Rlâp
là hai con sông đều phát nguyên từ
cùng khu vực gần suối Dak Huych. Dak
Rlâp sau khi chảy qua huyện Dak Riâp
tỉnh Dak Lăk, đã đi ngang qua các
huyện Bù Đăng, Phước Long (tỉnh Bình
Phước), còn Dak Glung, mà người Việt
quen gọi là sông Bé, là eon sông chảy
ngang qua tỉnh Bình Phước và trước
đây, tên sông đã được lấy đặt cho tên
tĩnh (tỉnh Sông Bé củ).
Chúng tôi đặt ra một giả thuyết:
Phải chăng, trước đây, người Stiêng và
người Mnông chỉ là một tộc người thống
nhất. Quá trình tộc người này phân
làm hai tộc người độc lập là Stiêng và
Mnông, cũng đồng thời là quá trình sử
thì nrong tách làm hai dòng. Dòng sử
thì nrong đi theo nhóm Mnông, lan
truyền dọc theo dòng sông Dak Rlâp để
tạo thành dòng nrong Dah Riâp, còn
dòng sử thì nrong đi theo nhóm Stiêng,
lạ lan truyền dọc theo dòng Dak
Glung, để trở thành dòng nrong Dah
Giung. Từ đó, hai dòng nrong song song
tổn tại và phát triển cho đến ngày nay.
Về số lượng bài bản, chúng tôi nhận
thấy, bộ sử thi nrong của người Stiêng
cũng phong phú, đồ sộ không kém sử
thì nrong của người Mnông. Qua khảo
sát bước đầu trên địa bàn của người
Đtiêng Bu Lơ ở một vài bon của các xã
Dak Ơ, Phú Nghĩa, Bù Gia Mập, Đức
Hạnh... thuộc huyện Phước Long, tỉnh
Bình Phước, chúng tôi đã thống kê được
36 nghệ nhân (trong đó có 12 nghệ
nhân thuộc từ 7 đến 15 sử thi đơn 0ị,
trong các sử thi đơn uị đó có những tác
phâm dài từ 15 đến hơn 30 giờ băng
cat-xet), một danh sách gồm 55 tác
phẩm đơn u¡. Nếu khảo sát toàn bộ địa
bàn cư trú của người Stiêng Bu Loợ,
danh sách nghệ nhân và tác phẩm chắc
chắn sẽ kéo dài hơn nhiều.
Theo chúng tôi, có (thể coi người
SHêng (nhóm Bu Lở) cùng UỚI người
Mnông (nhóm Bu Nong, Nong, Preh) uà
các nhóm Nông Biat trên đất
Campuchia (bhu uực gân biên giới)
cùng là chủ nhân đích thực của sử thi
nrong
2. Địa bàn hình thành và lưu
truyền của sử thi nrong
Như vậy, chúng ta bước đầu có thể
nhận định rằng, địa bàn xuất hiện ban
đầu của sử thi này là khu vực thượng
nguồn của Dak Glung (Sông Bé, trên
địa bàn tỉnh Bình Phước) và Dak Riấp
(sông Dak Riâp, trên địa bàn tỉnh Dak
Lăk và vùng sát biên giới bên phía
Campuchia. Cụ thể hơn, đó là vùng đất
có suối Dak Huych chảy qua.
Theo truyền thuyết, nrong là những
câu chuyện về lịch sử xa xưa của bon
Tiăng, do ông Tiăng truyền lại cho
tượng gỗ (kra#°”), trước khi bán tượng
này cho người Khmer ở vùng Phnôm
Pênh. Để tìm hiểu những câu chuyện
đã xảy ra với tổ tiên người Bu Nong từ
thời kỳ khai thiên lập địa, các thế hệ
con cháu của ông Tiăng đã khăn gói đi
tìm pho ứượng gô do ông Tiăng làm ra
và đã dạy cho toàn bộ câu chuyện liên
quan đến bon Tiếng thời cổ xưa. Mọi
người yêu cầu tượng gỗ thuật lại cho họ
những câu chuyện đã xảy ra với tổ tiên
họ. Khi tượng gỗ kể lại những câu
chuyện thời xa xưa, người thuộc các
¿4
TÔ ĐÔNG HẢI
nhóm Mnông vừa nghe chuyện vừa ăn
cua, lại sống ngay phía dưới thác nước
suốt ngày nước chảy ồn ào nên chỉ nghe
lõm bõm, tiếng được tiếng mất, không
thuộc được bao nhiêu. Riêng chỉ có
người Stiêng và các nhóm thiểu số ở
bên đất Campuchia do khôn ngoan
mang theo chuối để ăn, nên nghe lời kể
của tượng gỗ rõ ràng, rành rọt, không
mất một lời nào. Bởi thế, người Stiêng
Bu Lơ, các nhóm Biat, R ông, thuộc
nhiều nrong hơn cả...
Như vậy, theo quan niệm của đồng
bào, vùng thượng nguồn suối Dak
Huych (nay thuộc xã Bù Gia Mập
huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước) là
một trong những trung tâm quan trọng
của sử thi nrong. Người Mnông ở Dak
Lăk cũng cho biết, các nghệ nhân giỏi
nrong thường tập trung ở vùng Dak
Huych, tức là vùng Quảng Trực, huyện
Dak Rlâp ngày nay.
Hiện nay, tại khu vực suối Dak
Huych, có khá nhiều địa điểm còn lưu
lại dấu tích của những nhân vật trong
sử thị nrong. Đó là khu vực thác Teœr
Nhã ỏ Bù Gia Mập. Trên những bãi đất
cạnh thác mọc rất nhiều cây gạo gai
(cây bông gòn rừng). Dưới gốc gạo là bãi
ngải (gun) mà nàng Lết, nàng Mai, con
của dJjrl, (Jri là thần cây đa, một ác
thần) thường xuất hiện trong sử thi
nrong, hái về điều chế thành các loại
bùa ngai có những công dụng khác
nhau, để giúp đỡ hay hãm hại một
người tuỳ việc hai nàng quý mến hay
thù ghét người đó.
Từ Leng Tar Nhà dì dọc theo dòng
Dak Huych, ngược về phía bắc chừng
vài cây số, sẽ gặp Leng Hur (thác Hur).
Theo truyền thuyết, dưới Leng Hur có
một chiếc hang rộng và sâu. Đó là nơi
Tiäng, Yang ở. Theo người Mnông,
Stiêng cư trú ở vùng này, những vị tổ
tiên của họ như Tiăng, Yang, Ndu...
trong sử thi nrong không bao giờ chết.
Họ vẫn sống dưới lòng Leng Hur và
luôn phù hộ, giúp đỡ con cháu của
mình. Người ta đồn rằng, có những
người Mnông, Stiêng đi qua Leng Huưr,
tự nhiên mất tích vài ngày. Khi trỏ về,
người đó dắt theo một con trâu hoặc vài
con heo. Đó là những người may mắn
được xuống nơi ở của Tiăng, Yang chơi
vài hôm. Khi trở về, họ còn được Tiăng,
Yang cho quà là những con cá. Cá lớn,
lên bờ trở thành trâu, bò, cá nhỏ, lên bờ
biến thành heo.
Chung quanh khu vực Dak Huych
còn rất nhiều địa điểm như vậy. Chẳng
hạn, cách đó không xa có một thác nước
gọ1 là Leng Măng Hí(. Đây là thác nước
các nàng tiên, các người đẹp thường
đến gội đầu. Trên những bãi đất cạnh
bên thác, mọc khá nhiều cây ncho. Đây
là một loại cây dây leo. Thân cây khi vò
nát, có bọt như xà phòng. Người Stiêng,
Mnông thường lấy cây này gội đầu, rất
sạch.
Địa danh Dak Huych (vùng tiếp
giáp giữa Bình Phước, Dak Lăk và tỉnh
Mondukii của Campuchia hiện nay)
được nhắc khá nhiều trong sử thi
nrong. Các nghệ nhân kể sử thì nrong
người Stiêng, Mnông, đều khẳng dịnh:
bhu uực quanh suối Dab Huych, thời xa
xưa, chính là một địa bàn sinh tụ quan
trọng của các nhóm Stiêng, Mnông uà đó
cũng là địa bàn phút nguyên của sử thi
nrong. Oác già làng người Stiêng, Mnông
thường thuật lại rằng, theo lời tổ tiên họ
kể lại, thuở xa xưa, vùng đất này rất sầm
uất, đông người sinh sống chứ không
vắng vẻ, hoang vu như hiện nay.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỐI
2Ð
Không chỉ khẳng định khu vực Dak
Huych là nơi phát xuất của sử thi
nrong, người Stiêng, Bu Nong ở Bình
Phước còn hình dung ra một vùng rộng
lớn là địa bàn hoạt động của các nhân
vật trong sử thi. Đó là những địa danh
xuất hiện trong các lời nói vần kể về
nơi ở của các nhân vật quan trọng trong
sử thì nrong:
(ã)
Bnâm Pren, Bnâm Brah, mei Birh
mei Breh
Bnâm Kong heh, mei Seh mei liêng
Bnâm Biăng, Tăng hon Rong
Grong Kuôit Teng, bon Briêng lìya.
Dịch”? :
Núi Pren, núi Brah là nơi ở của mẹ
Brih, mẹ Breh
Núi Kong Reh là nơi ở của mẹ Sch,
mẹ ¿Jiêng
Núi Biăng là nơi ở của Tiăng con
mẹ Rong
Grong Kuôi Teng ở làng Briêng Rya
Bnâm Pren là núi Bà Đen (bnám,
tiếng Stiêng, có nghĩa là núi, Pren là
tên núi. Người Việt trong vùng gọi
chệch thành Bà Đen. Núi Bà Đen là
ngọn núi cao, khá nổi tiếng ở tỉnh Tây
Ninh ngày nay). Bnâm Brah là núi Bà
Rá (brah tiếng Stiêng, Mnông có nghĩa
là thần). Đây là ngọn núi cao nhất
huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước
ngày nay. Người Việt trong khu vực
không đọc được chữ brưh, nên đổi
thành Bà Rá. Bnâm Kong Reh là ngọn
núi nằm trên quãng giữa đường từ
Buôn Ma Thuật đến Bù Đăng (huyện ở
phía tây bắc tỉnh Bình Phước ngày
nay). Bnâm Biăng là tên của ngọn núi
cao nổi tiếng vùng Lâm Đồng, sau này
người Việt đọc thành Lâm Viên (tên
của cao nguyên Lâm Viên thuộc tỉnh
Lâm Đồng ngày nay).
Bon Briêng Rya là một làng nằm ở
bên đất Campuchia.
Mẹ Brih, mẹ Breh, mẹ Šch, mẹ
jJiêng, Tiăng kon Rong, Grong Kuôi
Teng là những nhân vật quan trọng
trong sử thì nrong. Họ có quan hệ thân
tộc với nhau, trong đó Tiăng con mẹ
Rong, thủ lĩnh của bon Tiăng, nhân vật
trung tâm của sử thị nrong, là một
trong những người có công hình thành
ra tộc người. Như vậy, chúng ta thấy,
ngoài trung tâm Dak Huych, địa bàn
hoạt động của các nhân vật trong sử thì
nrong còn bao trùm lên một phạm vì
đất đai rộng lớn, bao gồm địa bàn nhiều
tỉnh, thậm chí cá địa bàn của nước
khác như Campuchia. Với những địa
danh cổ xuất hiện trong sử thi nrong,
một giả thuyết đặt ra: Phải chăng,
trong lịch sử xa xưa, đã có thời kỳ địa
bàn cư trú của nhóm tộc người chủ
nhân của sử thi nrong mở rộng đến như
vậy? Và trên địa bàn đó, dân cư đã
đông đúc, bon làng đã sầm uất, con
người đã tạo dựng nên một đời sống văn
hoá, văn minh phát triển khá cao? Còn
khu vực Dak Huych, như chúng tôi đã
nói ở trên, chỉ là địa bàn cư trú cuối
cùng của Tiăng, một trong những thủ
lĩnh của bon Tiăng và con cháu của
ông, sau khi nhóm các thủ lĩnh của
bon Tiăng mâu thuẫn, xung đột với
nhau và bon làng huyền thoại này suy
vong, tan rã?
Có khá nhiều địa danh cổ xuất hiện
trong lời nói vần và trong sử thì nrong
của người Mnông cũng như của người
Stiêng. Chúng tôi chỉ đơn cử một số ví dụ:
Giung mpơi Jơ ndđap
Riâp ba ma
J6
Bong da banh hĩah
Rhub bah dâm
Bnâm Brah bah lở
Nghĩa là: _
Sông Glung nằm bên cạnh sông Jøl
Sông Rlâp ở phía bên phải
Bong dJa ở bên trái
Rhak ở phía dưới
Bnâm Brah ở phía trên.
Đông Glung chính là sông Bé. Sông
Đak Rlâp chảy từ phía nam tỉnh Dak
lăk (huyện Dak Rlâp) qua huyện Bù
Đăng và Phước Long của tình Bình
Phước. Bnâm Brah là núi Bà Rá, ngọn
núi cao nhất huyện Phước Long thuộc
tĩnh Bình Phước ngày nay...
Căn cữ vào các địa danh này, chúng
tôi có thể phác hoạ ra phạm vị lưu
truyền của sử thì nrong: Với trung tâm
Dak Huych, địa bàn này mở rộng lên
phía Bắc với các dãy núi Bnâm Nung,
Bnâm Ka, nay thường gọi là núi Nam
Nung, Nam Ka thuộc huyện Krông Knô
tính Dak Lăk, phía đông là dãy núi
Bnâm Biăng, thường gọi là Lang Biăng,
nay thuộc tỉnh Lâm Đồng, phía nam là
Bnâm Pren (núi Bà Đen) nay thuộc
tình Tây Ninh và phía tây là các làng
Bu Huych, Bu Than, thuộc địa bàn các
xã (hhum) Dă Dam, huyện (sruÈ) Orang
tỉnh (¿hef) Mondukiri (Campuchia). Đó
chính là địa bàn sinh tụ của các nhóm
Mnông như Bu Nong, Preh,
Prâng, nhóm Stiêng Bu Lơ và các nhóm
Biat, Rông... hiện sinh sống ở phần đất
thuộc Campuchia.
Nong,
3. Hệ thống thần linh trong sử
thì nrong.
Các nghệ nhân giỏi sử thì nrong
cho chúng tôi biết, trong nrong có khá
TÔ ĐÔNG HẢI
nhiều bon làng, được chia làm hai tầng,
tầng dưới đất có 48 bon và tầng trên
trời có 27 bon!?. Đứng đầu mỗi bon có
một nhóm những người, bao gồm một vị
thủ lĩnh và nhóm thân tộc của vị thủ
lĩnh ấy. Thủ lĩnh của một bon có thể là
thần, có thể là các bán thần. Họ có thể
bay trên trời, vượt qua biến!”, xuống
tận bon Phan (bon của thần âm phủ,
nơi ở của những người đã chết). Mỗi
nhóm thủ lĩnh có một tính cách khác
nhau, có thủ lĩnh là thần thiện, có thủ
lĩnh là thần ác””. Chúng tôi cho rằng,
nội dung chính xuyên suốt bộ sử thi
nrong chính là sự phún ánh mối quan
hệ phức tạp giữa các thế giới thần linh
UỚI bon Tăng.
Trong tư duy thân thoại độc đáo
của đồng bào, thế giới thần linh đó được
hình dung là một hệ thống các bon làng
với tổ chức xã hội tương tự tổ chức xã
hội truyền thống của người Mnông,
Stiêng cổ xưa. Các bon làng có thủ lĩnh
riêng, có cư dân riêng, độc lập với nhau.
Thủ lĩnh của các bon làng là các vị
thần, bán thần, là thần linh mang hình
các con vật, thậm chí các đồ vật biết
suy nghĩ, đi đứng, nói năng, và có
nhiều quyền phép! Mỗi nhóm thủ lĩnh
của các bon làng có thể được nhóm thần
linh này ủng hộ, giúp đỡ, nhưng lại bị
nhóm thần linh kia thù ghét, lập mưu
kế hãm hại. Các bon làng và các nhóm
thủ lnh của họ đều bình đẳng với
nhau. Chưa có vị thần nào hoặc vị thủ
lĩnh nào có quyền tối thượng, bắt các
bon làng khác phải phục tòng mình.
Thủ lĩnh của bon Phan (làng âm phủ,
thế giới của những người chết)!” chỉ
ca1 quản một bon trong 48 bon dưới mặt
đất, cũng như thủ lĩnh của bon Kon
Nar (làng Mặt Trời) cũng chỉ cai quản
bon làng của mình mà không có quyền
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Jỉ
gì đối với các bon làng khác trên tầng
trời! Các thủ lĩnh của bon Tiăng, bon
của con người, đã dám xuống tận bon
Phan (bon làng của thần âm phủ) để
đánh nhau với Sơm, Sơ, con của Phan!
Thế giới thần linh đó được chia
thành hai tầng, mỗi tầng gồm nhiều
bon làng:
- Tầng dưới mặt đất (bah nch, bah
tch hoặc bah deh!`'): Tảng này được
hình dung gồm nhiều bon làng (bước
đầu, chúng tôi thống kê được 48 bon).
Các bon này đều mang tên các vị ác
thần hoặc ma lai. Đứng đầu mỗi bon là
một thủ lĩnh với nhóm người thuộc
thân tộc của vị thủ lĩnh đó:
+ Bon Kon Luụ (làng của thần Đá) có
các nhân vật thủ lĩnh là Bung, Brăm,
Brau, Lăng, Lâr, Hâr, Pâr, Per, Briêm,
HBrớøI...
+ Bon Kon Brliăng (làng của ma lai,
một loài qui chuyên hút máu người, đặc
biệt là trẻ em) gồm các nhân vật thủ
lĩnh như Ruôc, Ruông, Tông, Điăng,
Tung, Lon, Kênh, Kăng...
+ Bon Kon Klang (làng của thần Ó)
gồm có: Bư, Bưi, Ving, Jrah, .Jrai...
+ Bon Kon Nghe (làng của thần độc
dược) gồm: Sương, Dong, Tìng, Mbong,
Ndu, đjJang, Kră, Puênh, Lêng, Kong,
Sung, Trang, Sơm, BƠ, drah, dJrai...
+ Bon Kon Un (làng của thần Rắn)
có Ndu, Yang...
+ Bon Kon Ủnh (làng của thần Lửa)
gồm: Brot, Brong, Ot, Ntâng, Pang,
jâng, Líuh...
Tiếp tục, chúng ta có thể kế thêm
nhiều làng nữa như bon Kon Su (làng
của thần Sóc), bon Kon Đe (làng của
thần Chuột), bon Kon Suôp (làng của
thần Chuồn Chuồn, là một con chuồn
chuồn lớn có thể ăn thịt người), bon
Kon Văng (làng của thần Hòm chôn
người chết, biết đi, biết ăn thịt người),
bon Kon ŒGut (làng dưới chân núi Nâm
Ping, ngọn núi cao ở khu vực của người
Bri Drôn, nghĩa là người Khmer ở
rừng), có các nhân vật là Tiăng, Tang,
thường gọi là Tiăng Tang Kon €ur,
cũng là con của Me Rong, người sinh ra
Tiăng ở bon Tiăng, nhân vật trung tâm
của sử thì nrong...
- Tầng trên trời (Bah Mặt Nar):
gồm 327 bon, ở mỗi bon cũng có những
nhân vật thủ lĩnh như:
+ Bon Jâng Trôk (làng ở chân trời)
gồm có các nhân vật thủ lĩnh là Yui,
Sral, RJal, Brai, Broil (trong đó Broi,
Brai lại là eon của Rịa).
+ Bon Kon Bong (làng của bà Bong,
người phụ nữ có trách nhiệm chăm sóc
công việc trên mặt đất. Đó cũng là làng
sinh ra Me Rong) gồm có các nhân vật:
Yơng, Kong, Tìng, Mbong, Bung, Wing,
Bìng, Yông, Kuah, Nơm, Yâng, Krong...
+ Bon Kon Kla (làng của thần Cọp,
con cọp này rất lớn, song lại rất hiển
lành, không ăn thịt người) gồm có:
Tìng, Mbong, Ndu, Yang, Teh, Dong,
Sơ, Vân, Ung, Ong, Jong...
+ Bon Kon Klêr (làng của thần Đá
Thác) gồm các nhân vật thủ lĩnh: Tìing,
Mbong, Ndu, Yang...
+ Bon Kon Klan (làng của thần
Trăn) gồm các nhân vật: Ndu, Yang,
Tìng, Mbong, Lêng, Kong, Kră, Puênh,
Brol, Brom...
+ Bon Kon Tôch, Kon Pa (làng của
thần Rồng, thần Ba Ba) gồm các nhân
vật chính: Ndu, Yang, Tìing, Mbong,
Sung, Trang, Lêng, Kong, Yơng, Dong,
Bình, Yông, Bung, Wing...
2Ó
TÔ ĐÔNG HẢI
+ Bon Kon 'Feh (hoặc Kon Deh, Kon
Neh, làng của thần Đất) gồm có Tìing,
Mbong, Buông, Yang, Sung, Krong,
Yơng, Kong, Tiăng, Tang, ‹Jrah, ‹Jrai...
+ Bon Kon Plư, Kon Plâng, Kon
Mplang (làng của thần Biển, thần Đảo)
gồm có Klang, Gôi, Kong, Yang, Tìng,
Mbong, Buông, Luông, Bung, Ving...
Giữa Trời và Đất là một khoảng
ranh giới, tại đó diễn ra cuộc tranh
chấp liên miên giữa Nước và Lửa. Lúc
Lửa lên mạnh thì Nước rút. Lúc Nước
lên mạnh thì Lửa rút. Người Mnông,
Stiêng eó câu văn vần để nói về khu vực
Nước, Lửa tranh giành nhau này:
Tât trôh ly nhất tơm sơr ma neh
Tât neh ly nhâr tơm sơr ma trôh
Nghĩa là:
Trời úp không còn đường đến với dất
Đất úp không còn đường lên tới trời
Tại vùng ranh giới đó có một con
đường đá gập ghềnh để cho thần Mặt
Trời (Me Nar) và các con của bà (Kênh,
Kăng) qua lại.
Phía trên đường ranh giới đó là bon
Tiăng, ngôi làng của những người đầu
tiên, những vị bán thần (demai- dieu) đã
có công khai thiên lập địa, sáng tạo nên
con người, tạo dựng nên cuộc sống trên
trái đất. Trong quá trình khai sáng đó,
các thủ lĩnh của bon Tiăng đã có những
mối quan hệ đặc biệt với các nhân vật ở
7B bon làng của các thần linh kia, trong
đó hầu hết là những cuộc chiến tranh
dữ dội để giành lại quyền sống cho bon
làng của con người. Đó là những cuộc
chiến tranh giành lại vợ bị những thủ
lĩnh - những vị thần ác ở các bon làng
khác bắt cóc, lấy lại những đồ vật quí,
những vũng nước nhiều cá, những cây
thần... đã bị những thần linh ở các bon
kia chiếm đoạt. Những cuộc giao tranh
đó thường diễn ra rất quyết liệt, dai
đăng và nhiều lúc những nhân vật của
bon Tiăng bị rơi vào những hoàn cảnh
bi đát, thủ lĩnh bị giết chết, linh hồn họ
lang thang dưới địa ngục (bon Phan -
bon làng của linh hồn những người đã
chết). Song, cuối cùng những thủ lĩnh
đó lại được hồi sinh, bon Tiăng lại được
khôi phục, bởi họ được những thần linh
bảo vệ, che chở...
Đó là nội dung chính xuyên suốt
hàng trăm tác phẩm đơn 0ì của bộ sử
thị nrong đồ sô uới sự tham gia của
hàng trăm nhân uật chính là các Uị
thần hoặc bán thần trong một thần
điện (panthóon) đặc biệt đã hiện hưu
trong tư dụy thần thoại của đồng bào từ
xa xưa. Đây là một sáng tạo độc đáo
đâng ngạc nhiên, được hình thành
trong quá trình phát triển của văn hoá
nghi lễ - tín ngưỡng Mnông, Stiêng.
Thế giới thần linh đó, cho đến nay,
chúng tôi mới chỉ thấy ở một số nhóm
Mon- Khmer phía nam mà không thấy ở
các tộc người khác. Tính hệ thống, với số
lượng đông đảo các nhân vật của (thần
điện trong sử thì nrong chứng tỏ sự phát
triển của tín ngưỡng, của tư duy thần
thoại ở đồng bào đã đạt tới trình độ rất
cao. Sơ bộ, chúng tôi có một số nhận xét
về tư duy thần thoại đó như sau:
- Theo quan niệm của đồng bào,
toàn bộ vũ trụ được chia thành hai
tầng, tầng dưới đất và tầng trên trời. Ở
cả hai tầng đó đều có bon làng của các
vị thần lành và bon làng của các vị
thần ác (không phân thành tầng riêng
cho những thần lành và tầng riêng cho
những vị thần ác).
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
29
- Bon Tiăng là một bon làng của con
người, với thủ lĩnh là những vị bán
thần khai sáng nên eon người, tạo dựng
nên cuộc sống. Bon Tiăng năm ở phía
trên, sát đường chân trời, mà không
nằm ở tầng dưới mặt đất (bah Deh).
- Tại phần dưới mặt đất, có cả bon
làng của linh hồn những người đã chết
(bon Phan). Đó chỉ là một bon làng
trong số 48 bon làng nằm dưới mặt đất
và thế giới nằm dưới mặt đất không
phải là một thế giới riêng như trước
đây chúng ta vẫn lầm tưởng. Các thủ
lĩnh của bon Kon Phan cũng chỉ cai
quản một bon làng này chứ không quản
lý toàn bộ thế giới đưới mặt dất.
- Bon Kon Nar là bon của thần Mặt
Trời. Đây cũng là một trong 27 bon
làng ở phía trên trời chứ không phải là
toàn bộ thế giới trên trời. Các thủ lĩnh
của bon Kon Nar chỉ quản lý một bon
này mà không quản lý toàn bộ thế giới
tầng trời.
- Mỗi bon có từ vài ba đến hàng
chục nhân vật, với tên gọi khác nhau,
những tính cách khác nhau. Các nhân
vật này có thể tốt, xấu, với những tham
vọng khác nhau... Họ được các thần
linh của bon làng và bạn bè của các
thần linh đó che chở, bảo vệ. Đồng thời
cũng bị các vị thần khác có ác cảm,
hãm hại.
- Trong các cuộc tranh chấp giữa
các nhân vật của các bon làng, không
chỉ có sự đụng độ giữa các nhân vật
trong các bon làng mà còn là sự đụng
độ giữa các thế lực thần linh bảo hộ 0à
hãm hạt các bon làng đó.
Sự đa đạng trong tính cách của các
thần linh, trong đó có sự xen lẫn giữa
các tính tốt và tính xấu trong một vị
thần linh, thể hiện yếu tố biện chứng
trong tư duy thần thoại Mnông, Stiêng,
một điều rất hiếm thấy trong thần
thoại của các tộc người khác ở Tây
Nguyên. Điều đó khiến cho các thần
linh của người Mnông, Stiêng cùng các
nhân vật thủ lĩnh của các bon làng đó
hết sức gần gũi với con người. 7 duy
thần thoại của người Mnông, Stiêng,
chính là sự phan ánh chính xác những
quan niệm truyền thống của người
Mnông, Stiêng, uê xã hội loài người uà
UỀ Uũ trụ, những quan niệm tuy nguyên
sở song lại mang những hạt nhân biện
chứng uà khoa học khiến chúng ta phải
ngạc nhiên.
- Qua tên gọi của các nhân vật thủ
lĩnh của các bon làng, chúng ta bắt gặp
cách đặt tên người thời cổ của người
Mnông, ĐStiêng. Đó chính là những tên
gọi không kèm theo họ mà kèm theo
tên của cha mẹ người đó hoặc những
người đứng đầu dòng họ của người đó
(sau này, tên đó có thể trở thành tên
bon làng, nơi người đó sinh ra). Ví dụ:
Sơm Sơ Kon Phan là hai người có tên
Sơm và Sơ, con của Phan hoặc con cháu
của Phan. Kon Phan, sau này có thể trỏ
thành tên chung của bon làng. Điều
này phần ánh rất rõ nguồn gốc (h‡ tộc
trong tổ chức xã hội của các tộc người
này. Điều đáng chú ý trong cách đặt
tên của người Stiêng, Mnông là có rất
nhiều tên trùng nhau. Để phân biệt
người ta phải gọi tên kèm theo. Ví dụ:
Sơm Sơ Kon Phan, Sơm Sơ Kon Nghe,
Tìng Mbong Kon Trôh, Tìng Mbong Kon
Puh, Tìng Mbong Kon Krâng... Để
người nghe hiểu chính xác, người ta
phải gọi đủ các tên làng kèm theo tên
nhân vật mới tránh khói nhầm lẫn.
40
TÔ ĐỒNG HẢI
Người Mnông, Stiêng, có tập quán
gọi tên hai nhân vật một như Gioi-
Giai Brơi. But, Kră- Tung, Sung-
Krong®®...
Hiểu rõ tập quán đó, chúng ta phải
biết đó chính là hai nhân vật chứ không
thể nhầm lẫn đó là tên kép của một
nhân vật.
Trên đây là những phát hiện mới về
nội dung của sử thì Nrong chúng tôi
nhận được sau khi tiến hành những đợt
khảo sát điều tra điền dã trên địa bàn
Dak Lãăk và Bình Phước. Những phát
hiện mới này cho chúng ta hiểu được
toàn bộ đời sống tín ngưỡng của người
Mnông, Stiêng, một hệ thống tín
ngưỡng phức tạp hơn chúng ta tưởng
rất nhiều, đồng thời, từ đó cũng hiểu
được những nội dung lớn của bộ sử thì
nrong liên hoàn, đồ sộ này.
4. Một số vấn đề khác xung
quanh sử thi nrong.
- Phong canh bon Tiăng (N'âp bon
Trăng) trong sử thị nrong:
Trong các sử thi nrong mà chúng
tôi tìm hiểu được ở người Stiêng Bu Lơ
tính Bình Phước, thông thường, trước
khi vào cốt truyện, các nghệ nhân bao
giờ cũng mở đầu bằng một đoạn miêu
tả phong cảnh của Bon Tiăng với những
nét lộng lẫy, tráng lệ, huyền ảo, như
một chút hoài tưởng lại vùng đất kỳ
điệu của quê cha đất tổ mà nay đã
không còn nữa. Đoạn miêu tả phong
cảnh Bon Tiăng được gọi là N'áp bon
Tiăng, có những chỉ tiết cụ thể, gợi cảm
khiến người nghe có thể hình dung ra
quang cảnh kỳ diệu của một trong
những bon làng đầu tiên của tộc người:
Trăng tăm jJrú lắm năng bud
Tuăng tn but bung năng hon
Kiut thot tu tơm Jrt yau
Kiot bhung phăng châu tu tơm
Jrang tuêng
Blâm lơ dh tu đơm JrL yau
DỊ ngung rung bah hring
Dị ngừng pưd bÌetch
Siech tu teh Jjwh bah bnông
Dịch:
Không ai trồng được cây đa như
Tiăng đã trồng
Không ai dựng được rừng núi như
Tiăng đã dựng
Ông trồng cây #!u¿ dưới gốc cây đa
Ông trồng cây *#iot dưới gốc cây vải
Trồng cây cà ngọt dưới gốc cây cổ thụ
Tiăng trồng cây lớn cho chim hồng
hoàng đến đậu
Tiăng trồng cây nhỏ cho thú rừng
đến ăn.
Còn đây là nhà cửa của bon Tiăng,
với tường cao cửa rộng, được xây dựng
khang trang:
Nhti dụd bei pud chet bhlot
¿Jay dot Jay pot ba drăng
Tung nht huăng păng cha! dơ doi
Nhhai gglei pet Jât lở pông
Nhi poh bông lpông pham bơng
Ndrơng poh tắp dặp long dra bei
sud leng băng
Dịch:
Tường nhà đan bằng dây mây
Vách nhà ken bằng gỗ quý
Nhà thì cao, cửa thì rộng
Ba mươi cánh cửa, bảy dãy nhà
Nhà xây tám tầng, bếp làm tám chỗ
Đống củi xếp dài như thác đổ trên sông
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
4 1
Đường đi lối lại trong làng được lát
bằng chì, bằng bạc, rộng rãi phẳng
phu:
Bảăq trong mịt trou bah ntrăh
Ndrân dăa tât phôn nhang bah haic
Sud ur pur nhì
Sud ur pur Jay bơ brong
cjjrong nhì luq, Jrong Jay Ìoth
Dịch:
Đường lên rẫy được lát bằng chì
Đường ra bến được trải bằng bạc
Trong nhà khắc đủ thứ hình lung linh
Trong nhà tô đủ loại màu lóng lánh
Cột nhà, cái thì bằng đá, cái thì
bằng sắt...
Vân biết lối nói phóng đại, ngoa dụ
là một trong những thủ pháp nghệ
thuật ngôn từ rất phổ biến của sử thị,
song, sức tưởng tượng của đồng bào các
dân tộc cư trú trên địa bàn Tây
Nguyên, ngay từ thời khai thiên lập địa
mà đã tạo dựng nên hình ảnh một làng
bon có dáng dấp một thành phố hiện
đại như vậy thì thật đáng kinh ngạc!
Trong sử thị nrong, thiên nhiên
hiện lên thật là phong phú, da dạng.
Nếu người Ấn Độ có câu khái quát khá
điển hình về sử thi: Cái gì không có
trong hai bộ sử thị Mahabharata uà
Ramayana thì không thể tìm thấy ở bất
kỳ nơi nào trên đất Ấn Độ” thì trong
đợt khảo sát điển đã vừa qua tại Dak
U, Bu Khâu, Bu Nung...(huyện Phước
long, tỉnh Bình Phước), các nghệ nhân
Stiêng hát kể nrong là Điểu Jua (63
tuổi), Điểu Nôi (86 tuổi, Điểu Plêq
(62tuốï), một cách ngẫu nhiên, đã tự
hào nói với chúng tôi một điều tương
tự: Tiết cả mọi cây cối, muông thú, chữm
chóc trên mặt đất, đều có trong sử thị
nrong của người Stiêng chúng tôi. Và
để chứng minh điều vừa nói, các nghệ
nhân đã dọc cho chúng tôi nghe hai câu
văn vần kể tên các loài muông thú, các
loài cây có xưa kia vẫn thường gặp trên
vùng đất cư trú của người Stiêng (có
loài nay đã không còn xuất hiện). Về
các loài thú, có:
- Yưn, rhay, bay, hsông
Ruôih, hỉa
rmaih, , hau, shqu,
măng ÏÍu...
Trong đó, Yưn là con nai, rhay là
heo rừng, by là một loại trâu rừng,
sông là một loài trâu rừng khác, ruôih
là voi, rmairh là tê giác, hỉa là cọp, rhau
là một loài thú giống cọp, sbøu là gấu,
măng lu là loài chó sói lông vàng...
Về các loài cây cỏ, sói đá...có:
- jJhư, Jấr, tngâr, bar, tmau boh,
tơm raich...
Trong đó, jhư , /âr là hai loại lồ ô,
thgâr là một loại tre, har là nứa, fmnau
koh là loại đá tổ ong, fơm raich là cây
đầu...
Sự tương đồng trong quan niệm về
sử thi của người Ấn Độ và các nhóm tộc
người Mon- Khmer ở nam Tây Nguyên,
là những tộc người ở cách xa nhau về
mặt địa lý, khác nhau về văn hoá, là
một điều rất đáng lưu ý. Và, điều này
cũng góp phần chứng minh sự thống
nhất trong quan niệm về thể loại sử thi
của nhiều dân tộc trên thế giới.
- Về tên gọi của sử thi nrong:
Người Mnông (các nhóm Bu Nong
hoặc Mong) thường gọi bộ sử thi này là
ot nrong. Trong tiếng Mnông, øf nghĩa
đen là cưư, nghĩa bóng là béo đi héo lại,
42
TÔ ĐÔNG HẢI
bể mãi bhông dút, nrong có nghĩa là
câu chuyện xa xưa. Song, không phải
tộc người nào, nhóm Mnông nào cũng
sử dụng cụm từ ø nrong để chỉ việc hát
bể sử thí nrong dẫu rằng họ có sở hữu
hình thức sinh hoạt văn hoá hát kể sử
thì rong này. Nhóm ?Preh_ gọi việc hát
kể nrong là mprở nrong, trong đó mprở
là một hình thức hát kể khác. Người
Stiêng ở Bình Phước cũng gọi sử thị là
nrong (có nơi gọi là nrăng), song lại gọi
cách hát kể là £&m pốt nrong mà không
bao giờ gọi là o¿ nrong. Ngay các nhóm
Bu Nong, Nong đôi khi cũng dùng lối
hát kể £ăm pát để chuyển tải nội dung
của nrong, nhưng họ phần lớn đều gọi
loại sinh hoạt văn hoá này là o nrong,
tuy nếu có gọi là ốm pât nrong đồng
bào cũng không phủ nhận. Như vậy,
trong các cụm từ này, nrong (hoặc
nrăng) là từ chỉ thể loại, còn of, mprơở,
tăm pôt...là từ chỉ các lối hát (phương
pháp diễn xướng) khác nhau mà các tộc
người hoặc các nhóm khác nhau thường
sử dụng để chuyển tải nội dung của
nrong.
Bởi vậy, để cho thống nhất và chính
xác hơn, chúng tôi đề nghị gọi tác phẩm
sử thi này ¿heo từ chỉ thể loại là NRONG
mà bhông đặt trước từ này những từ chỉ
phương pháp diễn xướng như ot, mprơ,
tăm pât...(do còn mới mẻ, lại không biết
tiếng dân tộc, nhiều người Việt, trong
đó có cả những người làm công tác văn
hoá đã viết những từ này chưa chính
xác. Đáng lẽ phải viết là o£ nrong, tăm
pất nrong, hoặc mprởd nrong nhưng
nhiều người lại viết sai ø thành ôf, tăm
p⣠thành fâm păit, nrong thành nrông,
ndrong hoặc ndrông...Nếu viết sai, các
cụm từ này có thể sẽ mang ý nghĩa
khác hoặc không có nghĩa).
- Về mối quan hệ thân tộc trong sử
thị nrong:
Điều đáng chú ý là, trong bộ sử thi
nrong, những tác giá dân gian đã
không trình bày nhân vật như những
cá nhân tồn tại một cách đơn lẻ mà lại
trình bày họ trong mối quan hệ thân
tộc phức tạp của cá nhân ấy. Đó là một
biểu hiện rất rõ ràng của tính /b¿ tộc đã
¡in dấu đậm nét trong đời sống xã hội cổ
truyền của nhiều tộc người trong nhóm
Mon- Khmer nam : một bon làng cổ khi
mới hình thành bao giờ cũng bao gồm
những cư dân đầu tiên là những người
trong cùng một thị tộc. Với mỗi nhân
vật trong bộ sử thi nrong đều có thể xây
dựng một (độc phd của nhân vật ấy.
Không những thế, đồng bào còn hình
thành những lời nói vần về tên con
cháu của những nhân vật trong bộ sử
thi này để mọi người đễ nhớ dễ thuộc.
Ví dụ, các con gái của bà ong (nhân
vật chính, người được Tiăng chọn làm
mẹ để đầu thai) và ông Bông, gồm:
- Brih, Brch, Sch, Jiang, Driang,
Drơ, Sơ, Vựn, Môi, Mai...
Còn các con trai của họ gồm:
- Kiôp, Nhông, Tông, Bơng, Yơng,
Yang, Srơng, Ndrang, Srang, Lput,
JJâng, Lut, TL, Bì, Ngĩa, Pung, Ma...
Những người con trai, con gái của
ông bà Bông, Rong, khi kể tên đều phải
đọc ghép tên cha, mẹ hoặc cä tên hai
ngươi, như: Brih, Breh hon Rong, Brih,
BHrch hon long hoặc Brih, Brch hon
Bông, Rong...
Hai nhân vật là Tìng - lung, có các
con gÁI:
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
- Jdrah, ‹jJrat, Khăi, Mai, Bưn, ông,
Kông, Giơng...
Và con trai:
- Yơng, Yang, Lông, Kon...
Ndu hon Bông, người anh em của
Tiăng có bây người vợ:
BL Bret mhe nu tuăng
Me Brăng mhe nu ¡ch
Bịch me siam Kông, Ùơ
bàng Lơ Hơ, lăng Lơ Ha bon Ủnh,
hon Nar
Dịch:
Chị Bret ông cũng muốn cưới
Mẹ Brăng ông cũng muốn lấy
Ông ngủ với các cô gái tên là Kông,
Dơ, con của mẹ nuôi
Ông thích cả hai nàng Lơ Hơ, Lơ Ha,
con của thần Lửa, thần Mặt Trời
Đông nhất và phức tạp nhất, đồng
thời cũng là trung tâm các diễn biến
trong toàn bộ sử thì nronø, chính là hệ
thống thân tộc của Tăng, thủ lĩnh bon
Tiăng. Ở người Stiêng, Mnông cư trú
trên địa bàn Phước Long, Bù Đăng
(tỉnh Bình Phước), đồng bào còn lưu
truyền, trước kia, Tiăng đã có một lời
thách đố những ai có thể kể đầy đủ về
tất cả những người thân tộc của ông,
nghĩa là kể đầy đủ bộ sử thi nrong. Lời
thách đố đó, đến nay cũng không có ai
làm nổi! Như vậy, kể từ xa xưa, người
Stiêng, Mnông đã quan niệm rằng:
Toàn bộ nột dung của NRONG chính là
những câu chuyện đã xay ra UỚIL mọi
thành uiên trong thân tộc của Thiăng,
người được coi là uị tổ đã có công hình
43
thành nên tộc người - chủ nhân của bộ
sử thì hỳ Uĩ này.
- Nrong là bộ sử thì thuật lại những
biến cố trong cuộc đời của Tiăng.
Tiăng, với tư cách là vị thủ lĩnh của
bon Tiăng, bon làng đầu tiên của tộc
người, không chỉ có công tạo dựng nên
bon làng mà còn cùng với các thành
viên khác trong thân tộc, chiến đấu
chống lại mọi kẻ thù đến từ các bon
làng của các ác thần, ma lai, ra sức
cướp bóc, huỷ diệt bon Tiăng. Cuộc
chiến dấu của Tiăng và các thành viên
trong thân tộc của ông là cuộc chiến
đấu chính nghĩa bởi mục đích của cuộc
chiến đấu ấy là để bảo vệ cuộc sống
bình yên của bon làng. Bởi vậy, những
biến cố xảy ra trong cuộc đời của Tiăng
cũng chính là những biến cố xảy ra với
bon Tiăng. Người Mnông, Stiêng có câu
văn vần:
DL long bah har
Bar long bah rday
Pay long bah rhay siat rhay siêng
Rhiêng long bah briêng hÌang
Dịch:
Một đời bị cây nứa ăn
Hai đời bị cây tre ăn (loại tre đốt ngắn)
Ba đời bị heo rừng heo có ăn
Một trăm đời bị đại bàng, quy dữ ăn
Những biến cố đó được thuật lại tỷ
mi, chi tiết, cụ thể trong từng sử thi
đơn ui của bộ sử thì nrong đồ sộ. Và,
với nội dung thuật lại những cuộc chiến
đấu thắng lợi chống lại những kẻ thù
hung ác để bảo vệ bon làng của vị anh
hùng huyền thoại Tăng đã khiến
nrong trỏ thành bản anh hùng ca bất
1Ị
TÔ ĐÔNG HẢI
hủ, được nhân dân lưu truyền từ vùng
này sang vùng khác, từ đời này qua đời
khác, cho đến hôm nay. Trải qua bao
thế hệ, nrong đã trở thành niềm hy
vọng, nguồn sức mạnh của cộng đồng
tộc người và giúp cộng đồng đó vượt qua
những khó khăn, thử thách, đe doạ
cuộc sống của họ, để tiếp tục tồn tại và
phát triển...
Trên đây chỉ là một số những phát
hiện của chúng tôi trong các đợt khảo
sát điền đã trên địa bàn cư trú của các
tộc người Mnông, Stiêng, đặc biệt trên
địa bàn cư trú của những nhóm tộc
người được col là ch nhân của pho sử
thì nrong đồ sộ.
Những phát hiện đó đối với chúng
tôi là rất thú vị, song chúng tôi chỉ col
đây là những gợi mở cho những ai quan
tâm đến việc tìm hiểu và giải mã
(décoder) những nội dung, ý nghĩa hàm
chứa trong bộ sử thì này, bộ bách khoa
toàn thư uề những tộc người 0uà nhóm
tộc người Mon- Khmer ở Nam Tây
Nguyên, những chủ nhân của một gia
tài uăn hoá độc đáo đến mức đăng ngạc
nhiên. Đáng tiếc là, trước gia tài 0uăn
hoá uô giá đó, chúng ta còn chưa hiểu
được bao nhiêu]
T.ĐU.H
(1) Theo nhật ký điển đã của Tô Đông
Hải, năm 1989.
(2) bong, trong tiếng Stiêng, có nghĩa là
dải đất ven sông.
(3) hrakb, trong tiếng Stiêng, có nghĩa là
lõi gồ. Khi đẽo gồ làm tượng, người ta thường
dùng lõi của những cây gỗ để tượng bền, lâu
hỏng.
(4) Bù Gia Máp, địa danh tiếng Stiêng bị
Việt hoá. Đúng ra phai gọi là Bu Ja Mãp,
trong đó, Bu có nghĩa là người, /Jœ Mấp là tên
một loại có tranh. Pu .Ja Mặp, nghĩa là người
sống tại nơi có bai có tranh .
(B) Bnâm, tiếng Stiêng, có nghĩa là núi.
Nhiều nơi, khi phát âm từ này, thường bỏ phụ
âm B, gọi là nâm.
(6) Tất cả những bản dịch từ tiếng Stiêng
trong bài viết này đều do một trí thức trẻ
người Stiêng tên là Điểu Đức, 30 tuổi, hiện ở
Bu Dak U, xã Phú Nghĩa, huyện Phước Long,
tỉnh Bình Phước dịch từ tiếng Stiêng. Tô
Đông Hải biên tập.
(7) Con số các bon phía trên và phía dưới
đường phân giới giữa Trời với Đất (48 bon
phía đưới và 37 bon phía trên) có thể còn chưa
đầy đủ. Sau này, chúng tôi sẽ bổ sung.
(8) Biển, đây là cách dịch thoáng từ cụm
từ dak tuêb dak tuuar, trong tiếng Stliêng,
nghĩa đen là uùng nước mênh mông, không
thấy bến bờ.
(9) Thần thiện, thần ác: là cách phân
tương đối, bởi điều đặc biệt trong tư duy của
các tộc người Mon - Khmer ở Nam Tây
Nguyên là tính biện chứng trong xây dựng
tính cách nhân vật: Các nhân vật thiện cũng
có nhiều lúc làm những điều xấu và các nhân
vật ác đôi khi cũng có những cử chỉ hào hiệp,
những việc làm tốt.
(10) Bon Phan: Trong tư duy của đồng
bào, bon làng của những người đã chết không
nằm dưới lòng đất mà lơ lửng phía dưới đường
phân cách Trời và Đất như một số bon làng
khác.
(11) Neh, Tch, Dech đều có nghĩa là đất. Ö
mỗi vùng, mỗi nhóm tộc người, sự phát âm có
đôi chút khác nhau, song, khi nói chuyện với
nhau, các nhóm này vẫn có thể hiểu nhau.
(12) Tập quán gọi tên kép từng cặp hai
người một không thấy ở một số tộc người lắng
giềng như người Êđê, Jrai, nhưng lại thấy ở
người Raglai ở Khánh Sơn, Khánh Hoà và đặc
biệt phổ biến ở người Mường.
(13) Theo T.S5 Phan Đăng Nhật: Vùng sử
thì Tây Nguyên. Nxb. KHXXỈH, Hà Nội, 1999,
tr. 18.