
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
65
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
KIỂM ĐỊNH AN TOÀN ĐẬP Ở VIỆT NAM
Nguyễn Chiến
Đại học Thủy lợi, email: chienct@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Việt Nam có trên 7000 hồ chứa nước nhân
tạo cho mục đích thủy lợi, thủy điện. Quy mô
của mỗi hồ phụ thuộc vào dung tích chứa
nước và chiều cao đập. Dù hồ đập ở quy mô
nào mà khi gặp sự cố vỡ đập thì cả một khối
nước lớn với thế năng cao đổ dồn về hạ lưu
sẽ có sức tàn phá mạnh mẽ và thường gây ra
thiệt hại nặng nề. Kinh nghiệm cho thấy chi
phí để khắc phục hậu quả ở hạ lưu thường
lớn hơn nhiều so với kinh phí phục hồi đập bị
vỡ. Những năm qua Nhà nước ta đã ra nhiều
văn bản pháp luật, tiêu chuẩn kỹ thuật hướng
dẫn công tác quản lý an toàn hồ đập (xem ví
dụ, [1], [2], [3]). Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, kể cả khách quan và chủ
quan, từ khâu khảo sát thiết kế đến thi công,
nghiệm thu và quản lý khai thác đều có thể
tồn tại những điểm yếu dẫn đến sự cố hồ đập.
Vì vậy công tác quản lý an toàn hồ đập cần
được quan tâm chặt chẽ hơn.
Hình 1. Vỡ đập Z20
(Hà Tĩnh), 2009.
Hình 2. Vết nứt ở đỉnh
đập Ban Tiện, Hà Nội,
2010 [6].
Kiểm định an toàn đập (ATĐ) là một
khâu rất quan trọng của quá trình quản lý
hồ đập. Nhờ kết quả kiểm định, chủ hồ mới
quyết định được là sẽ tiếp tục khai thác, sửa
chữa nhỏ hay dừng khai thác hoàn toàn để
sửa chữa, nâng cấp đập. Trong báo cáo này
trình bày những kết quả nghiên cứu về công
tác kiểm định ATĐ, những tồn tại, khó
khăn trong công tác này và kiến nghị hướng
khắc phục.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồ, đập rất đa dạng, phong phú về quy
mô, chủng loại và mức độ ảnh hưởng. Vì
vậy cần áp dụng nhiều phương pháp khác
nhau để nghiên cứu về công tác kiểm định
ATĐ. Trong báo cáo này sử dụng các
phương pháp sau:
- Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp
luật, tiêu chuẩn kỹ thuật;
- Thu thập, tổng hợp số liệu thực tế;
- Tổng hợp số liệu, kinh nghiệm từ các
công trình đã kiểm định;
- Phân tích, đánh giá, đề xuất bổ sung.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tình hình triển khai công tác kiểm
định ATĐ
Theo Nghị định 72 [1], các hồ có dung tích
từ 10 triệu m3 trở lên cần được kiểm định
theo chu kỳ không quá 10 năm; còn với các
hồ có V<10 triệu m3 thì định kỳ 7 năm phải
tính toán kiểm tra năng lực xả lũ theo tiêu
chuẩn hiện hành. Tuy nhiên trong những năm
qua số hồ chứa được kiểm định an toàn còn
rất ít (10/43 hồ đã đến thời gian kiểm định),
thêm nữa, các kết quả kiểm định đều chưa
được cấp có thẩm quyền phê duyệt [4]. Với
loại hồ có V<10 triệu m3 thì mới nâng cấp
được 500/6529 hồ; các hồ còn lại đã đến kỳ