intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG VÀ WTO

Chia sẻ: Nguyen Tran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

146
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các cuộc đàm phán về tiếp cận thị trường trong WTO chỉ xoay quanh vấn đề thương mại hàng hóa và dịch vụ. Các cuộc đàm phán về hàng hóa – đối tượng của Chương này và các Chương sau trong Phần III – luôn nhất thiết phải liên quan đến cắt giảm và bãi bỏ thuế quan hay cắt giảm một số rào cản phi thuế quan nhất định cho việc nhập khẩu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG VÀ WTO

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG VÀ WTO: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT
  2. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Niên khóa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG VÀ WTO: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT Các cuộc đàm phán về tiếp cận thị trường trong WTO chỉ xoay quanh vấn đề thương mại hàng hóa và dịch vụ. Các cuộc đàm phán về hàng hóa – đối tượng của Chương này và các Chương sau trong Phần III – luôn nhất thiết phải liên quan đến cắt giảm và bãi bỏ thuế quan hay cắt giảm một số rào cản phi thuế quan nhất định cho việc nhập khẩu. Các quy định của WTO bao gồm bảo hộ dự phòng, các tiêu chuẩn, vân vân… tự thân nó không phải là một bộ phận của các đàm phán để tiếp cận thị trường, mặc dù nó có một ảnh hưởng quan trọng đến các điều kiện của sự tiếp cận thị trường. Việc chấp nhận các qui định đã được cải thiện của WTO có thể sẽ đóng góp vào sự bảo đảm và khả năng tiên đoán của sự tiếp cận thị trường. Chương này sẽ cung cấp một giới thiệu khái quát của các vấn đề chính của tiếp cận thị trường mà các nước đang phát triển đang đối mặt. Các Đàm Phán Về Thuế Quan Theo quy định tại Điều khoản XXVIII bis của GATT 1994, các đàm phán về thuế quan trong WTO được thực hiện “trên nền tảng đối ứng và đôi bên cùng có lợi” với mục tiêu đạt được là “cắt giảm đáng kể mức thuế quan chung và những lệ phí đánh trên hàng hoá xuất nhập khẩu đặc biệt là việc cắt giảm các loại thuế cao đã làm hạn chế nhập khẩu ngay cả với những số lượng tối thiểu….” Các cuộc đàm phán có thể được hướng đến việc cắt giảm các khoản thuế được áp dụng hay sự ràng buộc của các nghĩa vụ. Các cuộc thương lượng này có thể đề cập đến một số sản phẩm cụ thể hay có thể là dưới một thỏa thuận thủ tục đa phương. Nó có thể xem xét các nhu cầu riêng của các thành viên hay các ngành công nghiệp và linh động đối với các nước đang phát triển để hổ trợ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, việc áp dụng những hướng dẫn này còn tùy thuộc vào sự chấp nhận của các thành viên trong cuộc thương lượng, và rất khó cho một nước nào đó dựa vào những hướng dẫn này để tránh thực hiện các cam kết. Kết quả của những cuộc đàm phán này được liệt kê trong lịch trình cam kết của mỗi thành viên được ghi chép trong Cơ Sở Dữ Liệu Thống Nhất của WTO và không được công bố. Sự ra đời của các cuộc đàm phán đa phương đã được quyết định ở các cuộc họp cấp bộ trưởng. Tuy nhiên, các sữa đổi của những nhượng bộ này, không cần phải chờ thêm một vòng đàm phán nữa mà có thể thương lượng theo các qui định tại Điều XXVIII của GATT 1994 với những thành viên nào đã từng tham gia đàm phán lúc ban đầu cũng như những thành viên nào có “quan tâm”. Những cuộc đàm phán đó căn cứ theo việc tham khảo ý kiến của bất cứ thành viên khác nào “có lợi ích đáng kể” đối với sản phẩm hay các sản phẩm có liên quan. Một niềm tin phổ biến cho rằng các loại thuế quan là không quan trọng cho các cuộc đàm phán xuất phát từ sự kiện là sau bảy vòng đàm phán thương mại đa phương các mức thuế quan công nghiệp tối huệ quốc theo hệ số nhập khẩu của các nước công nghiệp sẽ đạt mức trung bình là 3.5 phần trăm khi các cam kết của Vòng Đàm Phán Uruguay được thực hiện hoàn toàn. Nhưng điều tệ hại là ở phần chi tiết; các mức thuế quan trung bình đơn giản có thể cao gấp hai lần mức thuế đã tính hệ số nhập khẩu – thuế càng cao, xu hướng nhập khẩu càng thấp. Mặt khác, sự tồn tại của của nhiều hệ thống ưu đãi khác nhau cũng có nghĩa rằng ngay cả các thuế suất tối huệ quốc cũng cao hơn nhiều biểu thuế suất trong nhiều lĩnh vực thương mại. Bernard Hoekman et al. 1 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  3. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận Thuế suất cao và đỉnh thuế suất (cao nhiều lần mức trung bình trong vài trường hợp, vượt hơn mức 100 phần trăm) phổ biến ở một vài ngành. Rất nhiều trong số các thuế suất cao này rơi vào lĩnh vực quan tâm xuất khẩu của các nước đang phát triển – dệt may và quần áo, giầy dép và sản phẩm nông nghiệp (Bảng 11.1). Các thuế suất nông nghiệp nói chung là cao hơn thuế suất đánh trên các nhà sản xuất. Tác động của việc “thuế quan hóa” các rào cản phi thuế quan (NTBs) trong Vòng Đàm Phán Uruguay cũng rất lớn đối với việc nâng mức thuế suất trung bình. Sự leo thang thuế suất của các nước công nghiệp, thể hiện là thuế suất sẽ tăng ở các giai đoạn sau trong quá trình sản xuất để khuyến khích sản xuất trong nước, có thể tác động xấu đến quá trình công nghiệp hóa của các nước đang phát triển. Bảng 11.2 đưa ra một bức tranh về leo thang thuế suất ở các nước công nghiệp khi hoàn tất việc thực hiện Vòng Đàm Phán Uruguay. Các nước đang phát triển cũng áp dụng thuế suất cao đối với các nhà sản xuất sử dụng nhiều lao động và nông nghiệp. Nhìn chung, các mức thuế suất của họ cao hơn của các nước công nghiệp và điều đó cũng cho thấy một sự leo thang (Michalopoulos 1999a). Như đã được Hoekman đề cập ở Chương 6 trong quyển sách này, vấn đề trong WTO là mức thuế suất giới hạn. Với các nước đang phát triển, mức thuế suất giới hạn cao hơn nhiều so với mức thuế suất được áp dụng. Ví dụ, các thành viên WTO ở Bắc Phi và Trung Đông có mức thuế suất giới hạn trung bình là 26.8 phần trăm trong khi đó mức thuế suất được áp dụng là 14.4 phần trăm (Bảng 11.3). Điều này tạo ra một mức độ không chắc chắn cho việc tiếp cận thị trường ở các nước này. Bảng 11.1: Các mức thuế suất áp dụng và mức thuế suất giới hạn theo các nhóm sản phẩm chính ở hậu-Vòng Đàm Phán Uruguay của các nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế đang phát triển Các nền kinh tế Các nền kinh tế công nghiệp đang phát triển Nhóm sản phẩm Áp Giới Áp dụng Giới dụng hạn hạn 1 Nông nghiệp, ngoại trừ cá 5.2 7.2 18.6 19.9 2 Cá và sản phẩm cá 4.2 4.9 8.6 25.9 3 Xăng dầu 0.7 0.9 7.9 8.4 4 Gỗ, bột giấy, giấy, và đồ gỗ 0.5 0.9 8.9 10.3 5 Vải, quần áo 8.4 11.0 21.2 25.5 6 Da, nhựa cao su, và giày dép 5.5 6.5 14.9 15.4 7 Kim loại 0.9 1.6 10.8 10.4 8 Hóa chất và vật tư ngành ảnh 2.2 3.6 12.4 16.8 9 Phương tiện chuyên chở 4.2 5.6 19.9 13.2 10 Máy không chạy bằng điện 1.1 1.9 13.5 14.5 11 Máy chạy bằng điện 2.3 3.7 14.6 17.2 12 Sản phẩm khoáng, đá và kim loại 0.7 1.0 7.8 8.1 13 qúy 1.4 2.0 12.1 9.2 Các sản phẩm khác chưa đề cập 2.5 3.5 13.3 13.3 Bernard Hoekman et al. 2 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  4. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận Hàng công nghiệp (hàng 4-13) 2.6 3.7 13.3 13.0 Tất cả các mặt hàng thương mại Ghi chú: Trung bình có trọng số, ngoại trừ thương mại trong khu vực tự do mậu dịch. Mức thuế suất được áp dụng là của kỳ cơ sở. mức thuế suất giới hạn là những mức áp dụng cho sau khi thực hiện. Trong vài trường hợp, điều này có nghĩa là mức thuế suất được áp dụng cao hơn mức thuế suất giới hạn. Nguồn: Finger, Ingco và Reincke (1996) Vì vậy, các dữ kiện được điều chỉnh đúng là các mô hình ngành của thuế suất mà vẫn còn rất phân tán cùng với các khoảng cách đáng kể giữa mức thuế suất được áp dụng và mức thuế suất giới hạn. Lý do của sự việc này liên quan một phần đến sự tiến triển của chính sách ngành và một phần đến sự tham gia của các thành viên WTO trong các đàm phán. Chính sách nông nghiệp ở nhiều nước là xuất phát từ lịch sử an toàn lương thực và nhu cầu bảo đảm tự cấp. Kết quả là, nông nghiệp bị loại ra khỏi các cuộc đàm phán trước Vòng Đàm Phán Uruguay. Các biểu thuế suất cao của các nước đang phát triển phản ánh các chính sách công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu. Theo những qui định của việc đối xử đặc biệt và khác nhau, các nước này không buộc phải thực hiện các nhượng bộ trong các vòng đàm phán GATT đầu tiên. Kết cục, các nước này được lợi rất ích và phần lớn hàng xuất khẩu của họ bị đánh thuế cao. Khoảng cách giữa mức thuế suất được áp dụng và mức thuế suất giới hạn liên quan rất nhiều đến các chương trình cải cách độc lập của các nước đang phát triển trong những năm 1980 và 1990. Nó cũng là kết quả của các thỏa thuận thương mại khu vực mà ngày càng trở nên thịnh hành (Crawford and Laird 2000), cũng như việc áp dụng các ưu đãi đơn phương như Hệ Thống Ưu Đãi Phổ Cập (GSP), Thỏa Thuận Cotonou (thay thế cho Hiệp Định Lomé), Sáng Kiến Vịnh Caribbean và những ưu đãi đặt biệt để cải thiện sự tiếp cận thị trường cho các nước kém phát triển. Khi mức thuế suất giới hạn tối huệ quốc (MFN) bị cắt giảm trong các đàm phán đa phương, giá trị của các ưu đãi cũng bị giảm và điều này có thể dẫn đến việc một vài nước sẽ phản đối cắt giảm thuế quan tối huệ quốc hay sẽ ít quan tâm hơn đến các đàm phán đa phương. Tuy nhiên, các thuế suất MFN đã được đàm phán sẽ đảm bảo hơn các ưu đãi. Về lâu dài, các cơ cấu công nghiệp được mong đợi là sẽ được áp dụng vào một nền thương mại tự do hơn để được lợi từ các lợi thế so sánh. Bảng 11.2: Leo thang thuế suất trên các sản phẩm do các nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế đang phát triển nhập khẩu Sản phẩm Thuế suất giới hạn (phần trăm) hậu-Vòng Đàm Phán Uruguay Tất cả các sản phẩm công nghiệp (ngoại trừ xăng dầu) 4.3 Nguyên liệu 0.8 Bán thành phẩm 2.8 Thành phẩm 6.2 Tất cả các sản phẩm nhiệt đới 1.9 Nguyên liệu 0.0 Bernard Hoekman et al. 3 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  5. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận Bán thành phẩm 3.5 Thành phẩm 2.6 Sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên 2.7 Nguyên liệu 2.0 Bán thành phẩm 2.0 Thành phẩm 5.9 Nguồn: GATT (1994a) Bảng 11.3: Mức thuế suất áp dụng và mức thuế suất giới hạn có tính trọng số nhập khẩu hậu-vòng đàm phán Uruguay (phần trăm) Nhóm nước hay vùng Thuế suất áp dụng Thuế suất giới hạn Các nền kinh tế công nghiệp 4.0 4.7 Các nền kinh tế đang phát triển 13.1 20.8 Châu Mỹ Latinh và Caribbean 10.1 18.6 Đông Á và Thái Bình Dương 9.8 16.6 Nam Á 27.7 56.1 Các nước Châu Âu khác và Trung Á 9.6 14.9 Trung Đông và Bắc Phi 14.4 26.8 Tiểu vùng Sahara-Châu Phi 16.5 19.8 Ghi chú: Bình quân không có trọng số, ngoại trừ thương mại trong khu vực tự do mậu dịch. Mức thuế suất áp dụng là của năm gần nhất có được, nói chung là 1997, 1998 hay 1999. Dữ liệu của mức thuế suất áp dụng bao gồm 96 các nước đang phát triển và 23 nước công nghiệp. Dữ liệu của mức thuế suất giới hạn chỉ bao gồm 65 nước đang phát triển. Xem phụ lục A, Bảng A.2 của quyển sách này để có các chi tiết mức thuế suất áp dụng theo từng nước. Nguồn: WTO, IBD CD-ROM 2000; WTO, Khảo Sát Chính Sách Thương Mại, những ấn bản khác; Ngân Hàng Thế Giới (2000e) Lợi Ích Của Việc Tự Do Hóa Hơn Nữa Các nước đang phát triển đóng góp phần rất lớn vào thành công của việc tự do hóa nông nghiệp. Hertel và những người khác đã xây dựng một mô hình của kinh tế toàn cầu vào năm 2005 – thời điểm mà các cam kết của Vòng Đàm Phán Uruguay sẽ được giới thiệu đầy đủ – và ước lượng rằng việc cắt giảm 40 phần trăm các thuế suất nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu sẽ mang lại tổng thu nhập thực tế toàn cầu là khoảng 60 tỉ USD mỗi năm. Con số này sẽ tăng thêm 10 tỉ USD nếu các trợ giúp trong nước cũng giảm khoảng 40 phần trăm, mặc dù mức độ không chắc chắn của sự thanh toán cho các nhà sản xuất được kết nối với các quyết định sản xuất làm cho các phân tích trên trở nên rất khó khăn. Tỷ lệ phần trăm của mức tăng thu nhập thực tế đi kèm với sự tự do hóa, được ghi ở cột thứ nhất cho mỗi nước hay mỗi khu vực ở Biểu đồ 11.1, đạt lớn nhất ở những khu vực như Nam Á (trừ Ấn Độ) và Đông Nam Á (trừ Indonesia). Tất cả những khu vực đang phát triển Bernard Hoekman et al. 4 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  6. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận ngoại trừ khu vực nhập khẩu lương thực đơn thuần ở Trung Đông là đạt được lợi ích từ các cắt giảm thuế quan đa phương trong việc bảo hộ nông nghiệp. Tổng các lợi ích này, có được do những cải thiện hiệu quả do chính các nước đang phát triển tạo ra (cột thứ hai của một nước hay khu vực), phản ánh phần lớn các lợi ích tiềm năng từ tự do hóa do việc bãi bỏ các bảo hộ. Đã có một sự thay đổi nhanh chóng trong cấu trúc của thương mại quốc tế trong vòng hai thập kỷ qua. Trong khoảng giữa những năm 1960, hàng sản xuất xuất khẩu chỉ chiếm khoảng một phần tư tổng xuất khẩu của các nước đang phát triển, đến đầu những năm 1980 chỉ tăng lên khoảng một phần ba. Từ đó, tăng trưởng đã trở nên nhanh hơn. Vào giữa những năm 1990, tỉ trọng này là ba phần tư và dự kiến sẽ tiếp tục tăng (Biểu đồ 11.2). 11.1 Ý nghĩa của sự cắt giảm 40 phần trăm các rào cản thương mại nông nghiệp Nguồn: Hertel và các người khác (sẽ xuất bản) Tỷ trọng xuất khẩu của các nước đang phát triển sang các nước đang phát triển khác cũng tăng nhanh chóng khi tầm quan trọng của các nước đang phát triển trong nền kinh tế toàn cầu tăng lên. Vì vậy, các nước đang phát triển rất quan tâm đến việc tìm cách cắt giảm thuế suất các sản phẩm công nghiệp. Thuế suất bình quân của OECD cho hàng nhập khẩu Bernard Hoekman et al. 5 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  7. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận từ các nước đang phát triển cao gấp bốn lần cho hàng nhập khẩu từ chính các nước OECD (Bảng 11.4), phản ảnh các thuế suất cao trên các sản phẩm như dệt may và quần áo. Các ước lượng của về các khoản thuế đã trả cho thấy rằng các rào cản mà các nước đang phát triển đối mặt trong thị trường các nước đang phát triển khác chiếm 70 phần trăm của tổng thuế đánh vào các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu (Hertel và Martin 2000). 11.2 Tỷ trọng của các ngành sản xuất trong Thương Mại Xuất Khẩu Của Các Nước Đang Phát Triển, thực tế và dự phóng 1965-2005 Nguồn: Hertel và Martin (2000) Một phân tích tương tự về tác động của việc tất cả các nước cắt giảm 40 phần trăm của mức thuế suất được áp dụng trên các ngành sản xuất cho thấy rằng doanh số thương mại toàn cầu sẽ tăng khoảng 380 tỉ USD trong năm 2005, tức khoảng 4.7 phần trăm của tổng dự phóng thương mại hàng hóa và dịch vụ Hertel và Martin (2000). Lợi ích hiệu quả lớn nhất (như một phần của thu nhập) xảy ra ở các nền kinh tế đang phát triển, và các nước hay khu vực có mức thuế suất cao nhất vào năm 2005 (Trung Quốc, các nước Nam Á khác và Ấn Độ) được lợi nhiều nhất. Bernard Hoekman et al. 6 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  8. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận Bảng 11.4: Các hình thức bảo hộ trong sản xuất Vùng nhập khẩu Vùng xuất khẩu Các nền kinh tế Các nền kinh tế thu nhập cao đang phát triển Thuế suất bình quân có tính trọng số nhập khẩu (phần trăm) Các nền kinh tế thu nhập cao 0.8 10.9 Các nền kinh tế đang phát triển 3.4 12.8 Toàn thế giới 1.5 11.5 Tổng thuế đã trả (tỉ Đô la Mỹ) Các nền kinh tế thu nhập cao 16 93 Các nền kinh tế đang phát triển 23 57 Toàn thế giới 40 150 Nguồn: Hertel và Martin (2000) Các Vấn Đề Và Các Phương Thức Đàm Phán Thuế Suất Người ta nhận thấy rằng các nước đang phát triển phải được ghi nhận công lao vì quá trình tự do hóa thương mại độc lập theo các chương trình cải cách của họ. Một vài nước có quan điểm rằng để các nước đang phát triển xứng đáng với công trạng đó thì nhất thiết phải có một thuế suất thấp và đã được cải cách. Điều này thật khó trong một phương thức đàm phán “hỏi-trả lời”, trong khi các nước đang phát triển có thị trường nhỏ và quyền lực đàm phán yếu. Các phương pháp mang tính công thức mà đòi hỏi một sự cắt giảm thuế suất nhiều hơn có thể giúp làm giảm đỉnh lãi suất và sự leo thang lãi suất (xem Laird, 1999b; xem Chương 53 của Panagariya trong quyển sách này). Một phương pháp mang tính công thức cũng có thể giúp giải quyết các khó khăn liên quan đến việc ghi nhận như thế nào. Một lựa chọn khác có thể là thực hiện những cắt giảm sớm (trước khi kết thúc một vòng đàm phán) và thực hiện cắt giảm sâu rộng hơn các thuế suất MFN trên các sản phẩm được chú trọng xuất khẩu cho các các nước đang phát triển hay các nước kém phát triển tương tự như đã áp dụng với các sản phẩm nhiệt đới ở Vòng Đàm Phán Uruguay. Trước Hội Nghị Các Bộ Trưởng ở Seatle, một vài nước trong Hội Đồng Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương đã đề nghị một sự “thu hoạch sớm” các sản phẩm của tự do hóa nhanh chóng (xem phân tích của Dee, Hardin và Schuele 1998). Đã có nhiều đề nghị giảm các mức thuế suất cực thấp (thuế suất làm phiền) xuống còn bằng không. Việc cắt giảm nhiều hơn các thuế suất trên nguyên vật liệu và linh kiện hơn là trên các thành phẩm có thể sẽ làm tăng sự bảo hộ hiệu quả, tạo ra một kết quả lâu dài cho việc phân bổ nguồn lực. Đơn giản hóa cơ cấu thuế suất có thể làm tăng tính minh bạch và giúp làm giảm tình trạng mập mờ của sản xuất và thương mại. Nhờ vậy, đàm phán mới có thể được sử dụng để tái cấu trúc chính sách ngành và chính sách tài chính. Đa số các thành viên của WTO có một dãy thuế suất – điển hình là thuế suất bằng không cho nguyên vật liệu, thấp đến trung bình cho các sản phẩm trung gian, thuế suất cao cho các thành phẩm – nhưng một vài nước thì có đến hàng trăm thuế suất khác nhau. Bernard Hoekman et al. 7 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  9. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận Nếu mức cắt giảm bình quân được thỏa thuận là tính trọng số theo nhập khẩu, tương tự như trường hợp các sản phẩm công nghiệp trong quá khứ, các nước có thể tránh việc cắt giảm thuế trên các sản phẩm bị áp dụng thuế suất cực cao hay NTBs (rào cản phi thuế quan). Một cách để ngăn cản sự ngoại lệ này là thỏa thuận một sự cắt giảm tối thiểu mỗi dòng thuế. Ở Vòng Đàm Phán Uruguay các cắt giảm thuế nông nghiệp đã được thực hiện trên cơ sở bình quân đơn giản. Tính trọng số theo nhập khẩu không phải là một đề nghị thực tế bởi vì các rào cản cấm cản phi thuế quan cũng có nghĩa là một vài sản phẩm không nhập khẩu được. Theo WTO, rất nhiều loại thuế là hợp pháp. Bên cạnh các loại thuế suất phần trăm hay tính theo giá trị hàng, thuế nhập khẩu có thể là cụ thể (ví dụ, 1 USD mỗi kí lô) hay chọn lựa (ví dụ 1 USD mỗi kí lô hay 10 phần trăm tùy theo cái nào lớn hơn), hay tổng hợp (1 USD cho mỗi kí lô cộng thêm 10 phần trăm). Thụy Sĩ là một ngoại lệ vì tất cả các thuế suất của nó, ngoài trừ thuế suất bằng không, đều được diễn tả bằng các số tiền cụ thể. Các thuế suất cụ thể thường được thiết kế để bù đắp khi sản phẩm bị áp thuế có giá quốc tế thấp, thay cho các mức thuế biến đổi đã bị Thỏa Thuận Nông Nghiệp của WTO cấm sử dụngi. Phương pháp này đôi khi được cho rằng là phổ biến định kiến chống nhập khẩu từ các nhà cung cấp có chi phí thấp, phần lớn là ở các nước đang phát triển. Thuế suất tính theo giá trị hàng có tính minh bạch hơn. Yêu cầu các thành viên cung cấp thông tin về mức độ thu thế theo giá trị trong tổng các loại thuế suất khác cũng rất có ích. Các hạn ngạch thuế hay các hạn ngạch thuế suất là những loại thuế suất đánh tăng trên một doanh số hay một số lượng nhập khẩu nhất định. Các loại này được sử dụng cho nhập khẩu các hàng hóa nông sản phải căn cứ theo các yêu cầu nhập khẩu tối thiểu. Ví dụ, thuế nhập khẩu của 1.000 tấn đầu tiên của một sản phẩm nhập khẩu trong một năm tài chính là 10 phần trăm, nhưng thuế nhập khẩu sau 1.000 tấn đầu tiên có thể là 50 phần trămii. Một vài loại thuế nhập khẩu của hình thức này cũng được thể hiện dưới hình thức thuế suất cụ thể. Thỏa Thuận Nông Nghiệp của WTO không qui định việc các hạn ngạch thuế quan được quản lý như thế nào – đó là, ai sẽ nhập khẩu ở trong hạn ngạch hay mức thấp hơn và ai phải trả thuế suất cao. Để có cái nhìn về vấn đề này, trong số tất cả các thành viên của WTO, 1.371 hạn ngạch thuế quan đang được áp dụng. Mặc dù trong một vài trường hợp mức thuế suất vượt-hạn-ngạch không được áp dụng ngay cả dù hàng nhập khẩu vượt quá giá trị hạn ngạch cho phép. Bình quân các thuế suất phù hợp trong năm 1999 là khoảng 50 phần trăm và nhiều dự đoán rằng thuế suất vượt-hạn-ngạch đối với một vài sản phẩm hơn 100 phần trăm (Elbehri và những người khác 1999). Các Rào Cản Phi Thuế Quan Nói đúng ra, các cuộc đàm phán tiếp cận thị trường trong WTO chỉ liên quan đến các thuế quan. Trong trường hợp các rào cản phi thuế quan mà chắc chắn là ảnh hưởng đến tiếp cận thị trường, thì trọng tâm chính của các cuộc đàm phán là các qui định về điều kiện của việc sử dụng các biện pháp này. Ví dụ như sự bảo hộ dự phòng (các biện pháp phòng vệ, chống bán phá giá và bồi hoàn) rào cản kỹ thuật (bao gồm các biện pháp kiểm dịch và vệ sinh) yêu cầu nội địa hóa, trợ cấp, cấp phép nhập khẩu, kinh doanh của nhà nước, các quy định về xuất xứiii. Theo Thỏa Thuận Về Phòng Vệ Của WTO, các hạn chế xuất khẩu tự nguyện phải được bãi bỏ để đổi lại sự linh động trong việc sử dụng các biện pháp phòng vệ. Tuy nhiên, vẫn Bernard Hoekman et al. 8 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  10. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận tồn tại những biện pháp có hiệu quả tương tự: hạn chế sản xuất (ví dụ cho nhôm và dầu khí), tham khảo ý kiến ngành (động cơ), sử dụng các hạn chế về giá (“các cam kết”) như kết quả của các điều tra chống bán phá giá. Tất cả những thảo luận nào về những trường hợp này đều được bao gồm trong đàm phán các qui định mà một trong các chức năng của nó là bảo đảm rằng các NTB không hủy hoại sự tự do hóa thuế suất. Có một số lĩnh vực mà các cuộc đàm phán là chỉ nhằm để giảm hay bãi bỏ các NTB hơn là chính thức qui việc sử dụng chúng như thế nào. Trong trường hợp các sản phẩm công nghiệp, những NTB chính là trong lĩnh vực dệt và quần áo và đang được bãi bỏ khi ngành này đang dần hội nhập vào GATT 1994iv. Về nguyên tắc, không còn đàm phán nào về loại bỏ hạn ngạch trong ngành này nữa, nhưng sự thật là sự tự do hóa vẫn chưa xảy ra đã làm tăng sự lo sợ rằng các nước công nghiệp không thể thực hiện các nghĩa vụ của họ theo Thỏa Thuận Về Dệt Và Quần Áo cua WTO (ATC). (Xem Chương 21 CỦA Hanna Kheir-El-Din trong sách này để có bàn luận thêm về dệt và quần áo). Nông Nghiệp Các NTB chính mà ảnh hưởng trực tiếp đến tiếp cận thị trường thì liên quan trước tiên nhất là đến ngành nông nghiệp và bao gồm các khoản trợ cấp và các hạn ngạch thuế suất (TRQ). Chính thức là, theo Điều IV của Thỏa Thuận về Nông Nghiệp của WTO, các đàm phán tiếp cận thị trường được định nghĩa như những đàm phán về thuế quan. Nhưng sự tiếp cận thị trường sẽ bị tác động trực tiếp bằng những cắt giảm thêm của các khoản trợ cấp nội địa mà đã được đề cập trong các cuộc đàm phán chính thức của thỏa thuận của Vòng Đàm Phán Uruguay. Để viết các cuộc đàm phán chính thức này ra thành văn bản, điều quan trọng là phải hiểu rằng trước Vòng Đàm Phán Uruguay đã có rất ít qui định trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ kết quả của vòng đàm phán, nông nghiệp đã thuộc một trong những qui định chính của WTO. Các biện pháp nhập khẩu đã phải bị loại bỏ hoặc chuyển sang “thuế quan hóa” và thuế quan thì phải căn cứ theo các cam kết cắt giảm liên tục ngoại trừ gạo và những mặt hàng thiết yếu nằm trong các cam kết tiếp cận tối thiểu – đó là TRQ. Người ta cũng đồng ý giảm mức độ trợ giúp trong nước ngoại trừ các chính sách “green box” (là các chính sách trợ giúp trong nước mà không bị ràng buộc bởi các cam kết cắt giảm theo Thỏa Thuận Về Nông Nghiệp của WTO) và giá trị tối thiểu. Các nước công nghiệp đã giảm 20 phần trăm trợ giúp trong nước (biện pháp trợ giúp tổng hợp hay AMS) trong sáu năm trong khi các nước đang phát triển phải giảm 13 phần trăm trợ giúp trong nước trong mười năm. Thỏa thuận cũng bao gồm cắt giảm các các khoản chi cho trợ cấp xuất khẩu (đối với các nước công nghiệp, cắt giảm 36 phần trăm trong 6 năm và các nước đang phát triển cắt giảm 24 phần trăm trong 10 năm) và doanh số xuất khẩu được trợ cấp (đối với các nước công nghiệp, cắt giảm 21 phần trăm trong 6 năm và các nước đang phát triển cắt giảm 14 phần trăm trong 10 năm). Các biện pháp phòng vệ đặc biệt (tăng thuế) có thể được kích hoạt bằng doanh số xuất khẩu tăng hay giá giảm (so sánh với giá bình quân 1986-1988 thể hiện bằng nội tệ). Một điều khoản hòa bình, nhằm hạn chế việc sử dụng các biện pháp bồi hoàn cho đến năm 2003, đôi khi được xem như việc thiết lập một giới hạn thời gian cho các cuộc đàm phán hiện tại. Trước khi chính thức khởi đầu các cuộc đàm phán về nông nghiệp, các công việc phân tích và trao đổi thông tin đã được bắt đầu trong WTO. Các cuộc đàm phán chính thức Bernard Hoekman et al. 9 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  11. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận được thực hiện trong các kỳ họp đặc biệt của Ủy Ban Nông Nghiệp của WTO. Ủy ban này được Đại Hội Đồng WTO thành lập tháng Hai năm 2000. Các điều khoản đàm phán được trình bày ở Điều 20 của Thỏa Thuận Về Nông Nghiệp và được sữa đổi trong Tuyên Bố Hội Nghị Cấp Bộ Trưởng ở Doha ghi nhận rằng “ không thành kiến về kết quả ….. chúng tôi cam kết với các cuộc đàm phán toàn diện hướng đến mục tiêu là: các cải thiện đáng kể trong việc tiếp cận thị trường; giảm, với quan điểm thực hiện dần dần, tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu, giảm đáng kể các trợ giúp trong nước làm bóp méo thương mại”. Các quan ngại phi thương mại, đối xử đặc biệt và khác nhau các thành viên là các nước đang phát triển và mục tiêu thiết lập một hệ thống thương mại nông nghiệp công bằng và định hướng thị trường cũng được quan tâm. Tính đến tháng Ba năm 2001, 47 đề xuất đàm phán đã được 125 thành viên trình lên. (Liệt kê đầy đủ các đề xuất này có thể tìm thấy ở website của WTO và, như một dấu hiệu làm tăng tính minh bạch, các đề xuất này có thể được tải xuống). Một cách tóm tắt, các đề xuất này bao gồm tiếp cận thị trường (thuế suất, hạn ngạch thuế quan, chất lượng thực phẩm, đối xử đặc biệt và khác nhau đối với các nền kinh tế nhỏ), cạnh tranh xuất khẩu (trợ cấp, tín dụng và thuế xuất khẩu), trợ giúp trong nước (các chính sách blue-box, green box, các vấn đề chuyển tiếp), các quan ngại phi thương mại, các vấn đề phát triển (đối xử đặc biệt và khác nhau đối với các nước đang phát triển), thương mại chính phủ. Bỏ qua những vấn đề về thuế quan, thì biện pháp phi thuế quan bao gồm việc sử dụng các trợ giúp trong nước, hoạt động kinh doanh của các công ty nhà nước và thuế xuất khẩu, chứ không phải những vấn đề thuộc về quy định “đơn thuần”, tác động trực tiếp đến tiếp cận thị trường. Các vấn đề tranh cãi liên quan đến trợ giúp trong nước bao gồm các phạm vi mở rộng của “green-box” hay các trợ cấp được phép để đạt được các mục tiêu “đa chức năng” hay phi thương mại; một biện pháp phát triển mà cho phép tài trợ cho việc phát triển kinh tế; và sự bãi bỏ hay cắt giảm trợ cấp xuất khẩu theo giá trị hay theo doanh số. Các vấn đề về qui định bao gồm các vấn đề môi trường, các biện pháp về vệ sinh và kiểm dịch, hoạt động của các công ty kinh doanh của chính phủ, loại trừ của nông nghiệp trong các thỏa thuận thương mại khu vực và những bãi bỏ có thể có của các biện pháp phòng vệ đặc biệt. Nhiều chủ đề trong số này được đề cập đến trong các chương sau. Các phân tích chi tiết của chính sách thương mại nông nghiệp và lịch trình đàm phán có thể tìm thấy ở Ingco và các người khác (sẽ phát hành). Kết Luận Rõ ràng rằng, còn nhiều việc phải làm để tự do hóa sự tiếp cận các thị trường của các nước công nghiệp và các nước đang phát triển. Tiếp tục cắt giảm thuế quan là một việc quan trọng – lịch trình thuế quan không nhất thiết phải có tính biên tế. Lịch trình tiếp cận thị trường bao gồm các biện pháp phi thuế quan như trợ cấp nông nghiệp, hạn ngạch thuế suất, chống phá giá và các giới hạn tiêu chuẩn sản phẩm. Lịch trình tiếp cận thị trường đang thực hiện, không được đề cập đến trong chương này, là rất lớn (xem phần IV của Sách hướng dẫn này). Để đạt được những tiến bộ lớn sẽ là những thứ thách lớn, tuy nhiên, với qui mô của các rào cản còn tồn tại cho thương mại hàng hóa, thì cũng có một phạm vi đáng kể cho “nhượng bộ thương mại” trong lĩnh vực tiếp cận thị trường (Hoekman 2002). Bernard Hoekman et al. 10 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
  12. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Phát trịển, thương mại, và WTO Thể chế và tác động Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận Chú thích: Rolf Adlung, Bernard Hoekman, Costas Michalopoulos, Chritopher Moir và Peter Tulloch đã nhận được các góp ý xây dụng của một ấn bản trước của chương này. i Một vài thành viên của WTO lý luận rằng chỉ các thuế suất vượt các cam kết mới bị cấm chứ không phải là chính các hệ thống cấm. ii Thuế theo thời vụ đôi khi cũng được sử dụng để bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước trong thời vụ gieo trồng. Vì các thuế suất trong-thời-vụ không được vượt quá các mức thuế suất giới hạn, chúng thường được mô tả như những khoản cắt giảm tạm thời thuế suất MFN khi ngoài thời vụ. iii Các qui định của WTO ghi rõ rằng các khoản thu phí, không phải là thuế, liên quan đến thương mại phải dựa trên chi phí của dịch vụ cung cấp. Trong trường hợp khác, chúng phải được hiểu là thuế và được bao gồm trong các cam kết về thuế quan. Thực tế, một các loại phí như thế đã được tính như một tỉ lệ phần trăm của đơn vị giá và không liên quan đến chi phí dịch vụ. Ví dụ như phí visa hay phí lãnh sự, phí ra vào cảng, phí xử lý hải quan, phí hải đăng, thuế thống kê và các loại phí tương tự. Các loại thuế chống bán phá giá hay bồi hoàn hoặc các khoản thu phí phòng vệ hay cán cân thanh toán thì không được bao gồm trong các cam kết của WTO về ràng buộc thuế quan. iv Các nhà xuất khẩu than phiền rằng sự tự do hóa chính đang bị trì hoãn cho đến gần cuối thời kỳ chuyển đổi (“back-loading”) và các ngành được tự do hóa cũng đang được căn cứ theo các biện pháp bảo vệ đặc biệt, chống phá giá và vân vân…. Bernard Hoekman et al. 11 Biên dòch: Leâ Minh Taâm Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2