Những xu hướng trong
thiết kế thương hiệu
Thiết kế thương hiệu bao gồm rất nhiều vấn đề vừa mang tính chiến lược vừa là công việc
sáng tạo. Sự kết hợp hài hòa giữa các vấn đề phân tích chiến ợc kết hợp với quá trình
sáng tạo và thiết kế thương hiệu là việc làm bắt buộc đối với một quy trình chuyên nghip
xác lập thương hiệu.
CI ch là bề ni
Trong giới thiết kế quảng cáo hiện nay đang phổ biến thuật ngữ CI (corporate identity – thiết kế
thương hiệu công ty) và ngay trong các trường lớp chính quy, kể cả các trường nước ngoài
(Singapore), vẫn ng thuật ngữ này như một khái niệm phổ biến khi nói đến thiết kế thương
hiệu. Thật ra chỉ riêng vấn đề sáng tạo thương hiệu thì mảng thiết kế thương hiệu bao gồm
nhữngnh vực thiết kế khác nhau sau đây:
(1) Thiết kế hệ thng nhn diện thương hiệu công ty: Mảng này sử dụng thuật ngữ “corporate
identity” là chính xác.
(2) Thiết kế hệ thng bao bì sản phẩm (packaging design) áp dng cho nhóm thương hiệu sản
phẩm tiêung “có bao bì”.
(3) Thiết kế kiểu dáng sản phm: Các sản phẩm hữu hình mà bao bì không quan trọng về mặt
tiêu ng ví dnhư xe gắn máy, đồ điện tử, điện thoại di đng. Thiết kế kiểu dáng và thiết kế
thương hiệu là hai công việc được tách biệt và thường do hai nhóm thiết kế có chuyên n
khác nhau thực hiện.
(4) Thiết kế thương hiệu sản phm “không bao bì” (brand identity for non-packaging product
or service) đó là nhng chng loại sản phẩm dịch vụ như tour du lịch, ngân hàng, tài chính, bo
hiểm, giáo dục…
Vì nhiu mảng thiết kế khác nhau liên quan đến thương hiệu, cho nên cn gọi một cách
chuẩn xác tất cả quá trình thiết kế tơng hiệu là “brand identity design” trong đó bao gồm cả
hai mảng chính là thiết kế thương hiệu công ty và thiết kế bao bì (hoặc thương hiệu sản phẩm
không bao bì) và sau cùng là các chương trình thương hiệu mang tính hỗn hợp.
Trước tiên, cn phân biệt thương hiệu sản phẩm, BI (brand identity), vi thương hiệu doanh
nghiệp. Ví dụ, khi doanh nghiệp đã làm xong phần thương hiệu chung chẳng hn như “Ngân
hàng ABC” thì đó chỉ mới là mt thương hiệu dạng CI. Trong cơ cấu phát triển, ngân hàng
ABC còn có thể có những gói sản phẩm phát triển ổn định có thương hiệu. Chẳng hạn như gói
sn phẩm “cho vay khởi nghiệp” hayhỗ trợ tín dụng sinh viên” có th được hình thành bằng
một thương hiệu riêng. Bthương hiệu kiểu này không phải là CI và cần được gọi chính xác là
một BIS (brand identity system) hay BIP (brand identity program). Hiện nay hầu như doanh
nghiệp Việt Nam chưa nắm rõ và cả các nhà tư vấn và thiết thương hiệu chưa tham vấn rõ các
mô hình thương hiệu dạng này cho doanh nghip. Hầu hết các ngân hàng Việt Nam đang y
dựng thương hiệu dừng lại ở mức độ CI.
Thế giới thương hiệu sản phẩm “không bao bì”
c nhóm sản phẩm “không bao bì” mà chúng ta có thể hình dung là: sản phẩm dịch vụ; sản
phẩm tài chính, bo hiểm, ngânng; sản phẩm giáo dục; sản phẩm gii trí dạng không bao bì;
các sản phẩm khác thiên về giá tr lợi ích cảm tính; thương hiệu cá nhân và hình tưng.
Sản phẩm dịch vụ: Trong xu thế hội nhập và môi trường kinh doanh thuận lợi, hàng loạt nhng
cơ hội kinh doanh mới hình thành và hầu hết thiên vhướng tri thức, dịch vụ, văn hóa và giải
trí. Chẳng hạn trong lĩnh vực dịch vụ sức khỏe theo hướng thẩm m, cơ hội của ngành dịch v
chăm sóc tóc, spa và dưỡng da, chăm sóc thẩm mng, giải phẫu thẩm mỹ… ngàyng gia
tăng. Dịch vụ này không chhướng đến người tiêu dùng Việt Nam mà còn cho du khách các
nước (Nhật Bản, châu Âu, Bắc M…). Nhu cầu xây dng thương hiệu trong lĩnh vực y đang
ngày càng gia tăng.
Tài chính, bảo hiểm, ngân hàng: Đột phá đầu tiên trong việc y dựng thương hiệu ngành bảo
hiểm có thể đơn cử việc thiết lập các gói sản phẩm “Phú” diễn giải từ tiền tố nhãn hiệu “Pru”
của Prudential (bắt đầu từ năm 1999), với Phú tích lũy, Phú thành tài… Chúng ta có thể gọi đây
các “gói sản phm” như một khái niệm cơ bản, chuyên nghiệp hơn là ý thức chuyển ngữ xác
lập một cơ cu tập hp thương hiệu“main là Phú và “sub là các tên sản phẩm như trên
(main: main-brand, sub: sub-brand).
Sản phẩm giáo dục: Về cơ bản, thương hiệu của một trưng học hình thành bởi cả quá trình
tích lũy uy tín. Tuy nhiên, b mặt nhận diện thương hiệu cũng là yếu tố quan trọng thhiện du
hiệu chất lượng.
Sản phẩm giải trí: Một bìa sách, một ấn phẩm CD, một logo thương hiệu ban nhạc… đó là
những dạng thức của brand identity (BI) trong ngành giải trí. Thương hiệu “Duyên dáng Việt
Nam” là một ví dụ điển hình trong nhóm các sản phẩm nói trên.
Khi thiết lập một BI chuẩn, có thể phát triển các chuẩn với dạng thức sản phẩm khác nhau n
kết quả của một chiến lược thương hiệu đa dạng thức sản phẩm (multi-format brand, chú ý
khác với khái niệm multi-product brand và brand extension). Nghĩa là các dạng thức sẽ có cùng
sn phẩm lõi (core-product) nhưng khác về hình thức trình bày (nghệ thuật trình diễn, dạng
thức phân phối sản phẩm). Chng hạn từ sản phẩm lõi là liveshow sang băng đĩa DVD, và
truyền hình IPTV (Internet Protocol TV) để phân phối trên Internet…
Thương hiệu cá nhân và hình tượng: Một dạng thức thương hiệu khác cũng rất phổ biến, đó là
tên và logo ca cá nhân ni tiếng như ngôi sao ca nhạc, đội bóng đá, nhân vật truyn tranh hay
phim hoạt hình… Chúng ta có thể liên tưởng thực tế và gợi nhớ thương hiệu Santana, Oprah,
Tom & Jerry, và ti Việt Nam có Cảnh sát trưởng Bim tí hon mới hình thành trong thời gian
gn đây.
Làm rõ khái niệm “Identity”
Xuyên sut trong bài, chúng ta phát hiện ra có một khái niệm trung tâm, đó là “Identity” (nhận
diện) và điều cần thiết đặt ra cho chúng ta là thấu hiểu khái niệm này trong h thống các khái
niệm xoay quanh thương hiệu.
Xuyên sut quá trình lịch sử hình thành thương hiệu và sản phẩm trong tiến trình phát triển của
loài người, về cơ bản con người xây dựng hệ thống ngôn ngữ giao tiếp trong cộng đồng thông
qua hai h thng ngôn ng “nói và viết” và ngôn ngữ “hình ảnh và dấu hiệu”.
Theo Paul Mellars, nhà nhân chng học Anh: “Ngôn ngữ là mt h thống mang tính biểu
tượng, bi từ ng tượng trưng ca sự vật và hin tượng. Nghệ thuật cũng thể hiện khả năng tư
duy tru ợng. Do duy trừu tượng là hạt nhân của ngôn ngữ nên con người thường cố gng
liên kết nghệ thuật và ngôn ngvi nhau”.
Trong nhng tập hợp đa dạng của các hình thái ngôn ngữ, thương hiệu c lập ra hai nhóm
bản mà có thể tạm đúc kết là “brand phonetic” và “brand semiotics”. Trong quy trình thiết kế,
việc thiết kế thương hiệu thường được xác lập từ cả “phonetic” và “semiotics”, trong đó
phonetic là nhận diện hình thành từ nhóm yếu tố nn ngữ tên gọi sử dụng ngôn ng viết, còn
semioticsnhóm nhn diện từ màu sắc, ký hiệu và hình ảnh. Trong phát biểu trên đây của
Paul Mellars, thì yếu tố nghệ thuật tru ng chính là “phonetic” và “semiotics” là khái niệm
ngôn ngữ thông dụng.
Vic nghiên cứu những xu hướng ngôn ngữ tên thương hiệu (brand phonetic) hiện vẫn còn là
một đề tài mở vì nhng quan điểm mới hiện đang hình thành trong bi cảnh đa-văn-hóa ca thế
gii, chẳng hạn liệu tiếng Anh phổ biến từ sau Thế chiến thứ II có phải độc tôn hay không, và
những ngôn ngnào khác sẽ có ảnh hưởng nhiều trong giao lưu quốc tế? Tiếng Tây Ban Nha,
tiếng Pháp và Trung Quc có ảnh hưởng như thế nào?…
Như vậyng việc quan trọng để xác lp nhận diện cho một thc thể thương hiệu là dựa trên
“phoneticvà “semiotics”.
Vai trò chiến lược thương hiệu
Để có một thương hiệu chuyên nghiệp cần có một chiến c thương hiệu trong quy trình thiết
kế thương hiệu. Các chuyên gia xây dựng thương hiệu chuyên nghiệp luôn xác lập, thấu hiểu
thương hiệu, xây dựng chiến lược thương hiệu trước khi bắt tay vào quy trình thiết kế thương
hiệu.
Một số chuyên gia thương hiệu còn có khnăng thâm nhập sâu hơn và họ thực sự đồng hành
trong quy trình phát triển sản phẩm, thấu hiu sản phẩm (thậm chí phản biện và phi hợp sáng
tạo sản phm) để xác lập thương hiệu bằng một ý ởng thương hiệu hoàn chỉnh tầm chiến
c. Ý tưởng này s đồng hành xuyên sut quá trình sáng tạo truyền thông thương hiệu hay
quảng cáo sau này. Kết quả là một thương hiệu phát triển bền vững với cá tính riêng biệt và giá
trị bn sắc (brand equity) ln giang. Đó chính là sự đóng góp của chiến lược thương hiệu
trong mt quá trình thiết kế thương hiệu hoàn chỉnh và chuyên nghiệp.