Nhượng quyển Thương mại:
Những n nhắc trước khi luật hoá
Trong khuôn khdự án Luật Thương mại (sửa đi), Bộ Thương mại đang
tiến hành nhiều hội thảo, hội nghị để bàn v việc luật hoá khái niệm
Nhượng quyền thương mại.
Nhượng quyền thương mại (franchising), i mt cách đơn giản, là một
n Nhượng quyền cho phép n nhận quyền được sử dụng một hệ thống
kinh doanh đã được bên Nhượng quyền thực hiện thành công bao gồm c
phương thức kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, biểu tượng thương mại...
để hoạt động một sở kinh doanh của bên nhận Nhượng quyền.
Trên thế giới hiện nay đến trên 5.000 hthống Nhượng quyền với hàng
triệu sở kinh doanh đang hoạt động. Riêng h thống Nhượng quyền bán
nh hamburger khoai y chiên McDonald đã khoảng 30.000 s
kinh doanh khắp nơi trên thế giới.
Phương thức lợi cho cả hai bên
Việt Nam, mặc dù khái niệm này chưa được luật hoá, nhưng trên thực tế
cũng đã phát triển nhiều như chè Lipton, chè Qualitea gần đây nhất là cà
phê Trung Nguyên được phát triển rng rãi. Ti sao hình thức Nợng
quyền thương mại lại được phát triển mạnh mẽ như vậy?
Nói ngắn gọn, bởi đây là mt phương thức kinh doanh "đôi bên cùng
lợi", cho c hai bên Nhượng quyền nhận quyền . n Nhượng quyền
được ởng tiền phí Nhượng quyn thông qua việc bán quyền thương mại
cho bên nhận quyền . Ngoài ra, một lợi ích lớn n về mặt cho bên
Nhượng quyền thực hiện được việc nhân bản, quảng bá, phát triển hình
thức kinh doanh của mình nhưng lại bằng vốn, công sức và rủi ro của bên
nhận quyn .
Đối với bên nhận quyền , phương thức kinh doanh này cũng rất lợi, bởi
bên nhận quyền với số tiền đầu của mình, ngay được một cơ sở
kinh doanh "hồn" sẵn, mà không phi bắt đầu từ đầu. Ngay lập tức
được phương thức kinh doanh, được hình kinh doanh, bí quyết kinh
doanh mà không phải mất công mò mẫm để tự phát triển.
Ngay trong mt vài tháng đầu đã có th lợi nhuận ngay, trong khi nếu tự
lập sở kinh doanh với phương thức, nhãn hiệu của riêng mình thì không
biết bao giờ mới có thể có lợi nhuận.
Những tình hung thể xảy ra trên thương trường
Tất nhiên, cũng ntất cả mọi hình thức khác, Nhượng quyền thương mại,
ngoài những cái "được", cũng có những cái "mất". Bên Nhượng quyền trao
quyền cho một bên khác để thực hiện ý tưởng kinh doanh của mình, đương
nhiên cũng phải chịu rủi ro khi bên nhận quyền thực hiện không đúng các ý
tưởng này, khiến ng việc kinh doanh bị đổ bể, gây ấn tượng xấu cho hệ
thng kinh doanh của mình; đồng thời làm giảm gtrị thương hiệu cũng
như công việc kinh doanh của mình.
Ngược lại, bên nhận quyn phải thực hiện hệ thống kinh doanh của bên
quyền mt ch cứng nhắc, không thể được tự tiện thêm bt ý ởng của
riêng mình vào trong cơ sở kinh doanh. Bởi vì một đặc điểm trong các hệ
thng Nợng quyền thương mại c cơ sở kinh doanh phải hoàn toàn
ging nhau đ khách hàng vào bất cứ cơ sở, cửa hàng nào cũng đều cảm
thấy thoải mái, ddàng như vào các sở, cửa hàng khác trong hthống
đó. Điều này nhiều khi hạn chế tính sáng tạo trong ng vic kinh doanh,
hạn chế chính công việc, hiệu quả kinh doanh của bên Nhượng quyền.
Chính thế, theo lời Giáo Andrew Terry, trường Đại học New South
Wales - Australia: "Nhượng quyền tt thì thật tốt, xấu thì thật xấu". Đã
rất nhiều sở kinh doanh theo hình thức Nhượng quyền thương mại bị đổ
bể, dẫn tới sự đbể cả chuỗi các sở kinh doanh khác. Nhiều khi chỉ cần
một bên nhận quyền làm ăn không tốt, khiến cho hàng loạt các sở nhận
quyền khác bị ảnh hưởng vì "con sâu làm rầu nồi canh".
Ngoài ra, cũng rất nhiều bên Nhượng quyền mun lợi dụng vtrí "b
trên" của mình để áp đặt, o ép các bên nhận quyền , khiến choc bên nhận
quyền phải chịu áp dụng nhng quy tắc hoàn toàn phi cuối cùng dẫn
đến toàn b hệ thống bị đổ bể. Điều này khiến cho các nhà kinh doanh cũng
như các nhà lập pháp phải thật cẩn trọng khi thực hiện cũng như điều tiết
hình thức kinh doanh này.
Làm gì để tránh mang lại những hậu quả?
Trước hết, bên nhận quyn , trước khi tham gia vào hình thức kinh doanh
Nhượng quyền thương mại, cần tìm hiểu kỹ lưỡng xem đây có phải là mt
hình thức kinh doanh thể thành công trong trường hợp của bên nhận
quyền hay không. Chvì phương thức kinh doanh của bên Nhượng quyền
đã thành công trong mt vài sở chưa chc sẽ thành công trong điều kiện
i trường, khả năng của bên nhận quyền.
Bởi vì thông thường, s vốn bỏ ra đầu vào một cơ sở Nhượng quyền
thương mại là khá lớn so với việc tự lập cơ sở kinh doanh riêng, nếu tự
lập sở kinh doanh riêng thì th"liệu cơm gắp mắm", nhưng đã vào
trong một hệ thống Nhượng quyền thương mại, thì phải tuân thủ những ý
tưởng đã được định sẵn. Vì thế, nếu không cẩn thận rủi ro sẽ tương đối
cao.
Th hai, nhiều hợp đồng Nợng quyền thương mại yêu cầu bên nhận
quyền phải trả một khoản pNhượng quyền c định, kể cả khi hoạt đng
kinh doanh không lãi. Điều này bên nhận quyền phải n nhắc kỹ, liệu
kh năng tài chính d phòng của mình có đ để đáp ng nghĩa v này
không.
Thba, nhiều hợp đồng Nhượng quyền thương mại trao quyền rt lớn cho
n Nợng quyền trong vic chấm dt hoặc gia hạn hợp đồng. Bên nhận
quyền nên nghiên cu, đàm phán k những điều khoản này bởi vì bên
Nhượng quyền th lợi dụng những điu khoản này đchấm dứt hoặc
không gia hn hợp đồng cho bên nhận quyền , gây thiệt thòi, bất lợi cho bên
nhận quyn.
Th tư, nếu bên nhận quyền một thương gia tính sáng tạo, thích
nhng ý tưởng của riêng mình, thì có lviệc tham gia vào một hệ thống
Nhượng quyền thương mại là không hợp lắm bởi vì đã vào hthống này
thbên nhận quyền phải liên tục chấp hành "mệnh lệnh" của bên Nợng
quyền , k cả những "mệnh lệnh" mà bên nhận quyền cho bt hợp lý.
Thnăm, một hệ thống Nhượng quyền thương mại tốt phải s tương tác
giữa bên nhận quyền bên Nhượng quyền . Bên Nợng quyền nên
nhng hình thức liên tục đào tạo, hỗ trợ,vấn cho bên nhận quyền các
n nhn quyền nên hội được phản ánh, đóng góp ý kiến cho bên