Oxy cao áp trong điều trị chấn
thương chỉnh hình
Điều trị trong chấn thương chỉnh hình cn đảm bảo nuôi dưỡng tốt các
mảnh ghép, các bị chấn thương, dập nát, đồng thời việc chống nhiễm
khuẩn tại chỗ và toàn thân cũng chiếm vị trí quan trọng, oxy cao áp (OXCA)
đáp ứng được cả hai mặt này.
Nhiễm khuẩn trong chấn thương thường là c nhiễm khuẩn mủ, do c vi
sinh vật hiếu khí gây nên. Các thương tổn do vi sinh vật kkgây hoại thư sinh
hơi ít gặp, nhưng thường gây nên bệnh cảnh nặng. Một số trường hp nhiễm
khuẩn kết hợp cả vi sinh vật kỵ khí và hiếu khí.
Theo nhiều nhà nghiên cứu và thực hành, oxy áp suất cao có tác dụng như
một loại thuốc, tính kháng sinh (Demello 1974). Những người đầu tiên phát
hiện tác dụng kháng sinh của oxy với vi sinh vật kỵ khí là Pasteur và Bert. Sau đó,
Bernhans (1907), Mocre Williams (1940) đã phát hiện OXCA tác dụng ức
chế một số loại vi sinh vật hiếu khí. Một số tác giả cho rằng, áp suất khí quyển,
oxy thkích thích sự phát triển của vi sinh vật hiếu khí, nhưng ở áp suất cao (2
at), oxy gây bất hoạt và góp phần diệt chúng, đặc biệt với các loại tụ cầu khuẩn
vàng, trực khuẩn mủ xanh (Stansel 1964, Stack 1966).
Hiệu quả của OXCA với vi sinh vật kỵ khí mạnh và hơn với vi sinh vật
hiếu khí. Vanunnik cộng sự, qua thực nghiệm nhận thấy OXCA làm
B.clostridium ngừng tiết độc tố. Với áp suất 3 at, tuy chỉ bất hoạt, chưa diệt được
B.clostridium, nhưng m các vi sinh vật này ngừng tiết độc tố không chỉ trong
OXCA csau khi ra khỏi môi trường OXCA. Trên bệnh nhân, OXCA làm vi
sinh vật bất hoạt và ngừng tiết độc tố mới, ợng độc tố được tạo thành trước đó
mau chóng được các làm nhim vụ chống độc của cơ thể cố định và mất tác
dụng.
Bên cạnh tác dụng trực tiếp lên vi sinh vật gây bệnh, OXCA còn làm tăng
đáng kể khả năng chống đỡ của thể và ng cường quá trình hồi phục của t
chức bệnh.
OXCA đi vào thực hành m thay đổi phương pháp điều trị bệnh nhân hoại
thư sinh hơi. Trước đây, trong điều trị bên cạnh kháng sinh, kháng huyết thanh,
tác gicho rằng thiếu phẫu thuật coi như điều trị chưa bắt đầu, cần can thiệp phẫu
thuật, mở rộng tổn thương, cắt cụt cao, sớm loại trừ nguồn gốc và slan rộng của
tổn thương.
Nhưng nếu sdụng OXCA thì phẫu thuật chỉ còn phương pháp hỗ trợ,
còn kháng sinh, kháng huyết thanh không nhất thiết phải dùng. Bởi OXCA làm
phân tách nhanh các tchức khả năng sống và các tchức không còn khả năng
sống, do đó làm giảm phạm vi và mức độ cắt cụt, nhiều khi cho phép bảo tồn hoàn
toàn.
Ngoài tác dụng chống nhiễm khuẩn, OXCA còn tham gia tích cực vào nuôi
dưỡng các vùng b chấn thương, các mảnh ghép mới. Vi tuần hoàn ti đây thường
bgiảm do các mạch máu, mao quản bị đứt, tuần hoàn mới chưa kịp hình thành
lại bị các mô phù nề chèn ép.
đây chuyển hóa ái khí thường thực hiện không hoàn toàn. Môi trường
toan tính nhiều khi pH không vượt quá 5,3. OXCA m thăng bằng chuyển hóa,
hồi phục dinh dưỡng nhanh chóng.
Do vậy, thường trong điều trị oxy cao áp, pH tại các vùng chấn thương
được phục hồi, từ 5,0 thể nâng lên 6,8 (sau 3 ngày), ri 7,3 (sau 7 ngày) đạt
tới chỉ số bình thường ổn định.
Mặt khác, ngoài tác dụng tại chỗ, OXCA còn tác dụng tích cực vào toàn
thể. nước ta, OXCA đã đang tham gia tích cực vào điều trị chấn thương
chỉnh hình, chắc rằng sẽ ngày càng được ứng dụng nhiều. ó