LỜI CAM ĐOAN

Chúng tôi xin cam đoan Đề tài “Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục

nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay” là công trình nghiên

cứu của riêng nhóm nghiên cứu chúng tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học

của Ths. Vũ Thị Châm.

Các tài liệu tham khảo sử dụng trong đề tài là trung thực, các thông tin trích dẫn

có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

i

Trần Trọng Lực

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, nhóm tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy/Cô

giáo trong khoa khoa học Chính trị, trường Đại học Nội Vụ Hà Nội, cùng với sự giúp

đỡ, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần từ phía gia đình, bạn bè đã luôn tạo điều kiện

tốt nhất, đồng hành, sát cánh cung cấp tri thức và kỹ năng để nhóm tác giả có thể hoàn

thành đề tài nghiên cứu khoa học của mình.

Trước hết, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô giáo Ths.Vũ Thị Châm

– người hướng dẫn khoa học đã trực tiếp dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn để

nhóm tác giả có được thành quả lao động ngày hôm nay.

Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong Đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót,

hạn chế. Chúng tôi kính mong Quý thầy cô, những người quan tâm đến đề tài, gia đình

và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.

Nhóm tác giả xin được gửi lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và tri ân tới tất cả các

Thầy/ Cô, các bạn và gia đình.

Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2021

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

ii

Trần Trọng Lực

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... I

LỜI CẢM ƠN ...............................................................................................................II

MỤC LỤC ................................................................................................................... III

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................. 3

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: .......................................................................... 5

3.1. Mục tiêu: .......................................................................................................... 5

3.2. Nhiệm vụ: ........................................................................................................ 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5

5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 6

6. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................................. 6

7. Đóng góp của đề tài ................................................................................................. 6

8. Cấu trúc của đề tài ................................................................................................... 6

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN............................................ 8

1.1. Gia đình và các chức năng cơ bản của gia đình ................................................... 8

1.1.1 Khái niệm gia đình ......................................................................................... 8

1.1.2. Chức năng cơ bản của gia đình ..................................................................... 9

1.2. Nhân cách sinh viên và vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên ............................................................................................................................ 12

1.2.1. Nhân cách và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên ............................................................................................................................... 12

1.2.1.1. Khái niệm về nhân cách ...................................................................... 12

1.2.1.2. Sinh viên và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên. .................................................................................................................. 15

1.2.2. Gia đình - yếu tố quan trọng trong giáo dục nhân cách của sinh viên ....... 19

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .............................................................................................. 24

iii

CHƯƠNG 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN NAY: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................... 25

2.1. Vài nét về sinh viên trường Đại học Nội vụ hiện nay ........................................ 25

2.2. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay ........................................................... 27

2.2.1. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức, văn hóa truyền thống. ......................................................................................................... 28

2.2.2. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức chính trị, kỉ luật, ý thức cộng đồng. .......................................................................................... 30

2.2.3. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức tự giác học tập, lao động. ......................................................................................................... 31

2.2.4. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục thể chất và thẩm mỹ. ............................................................................................................................... 33

2.2.5. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong việc thực hiện các phương pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên ................................................................ 36

2.3. Nguyên nhân của thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với giáo dục nhân cách cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội hiện nay ............................................................................................................................. 40

2.3.1. Nguyên nhân của thực trạng ....................................................................... 40

2.3.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay ....................... 44

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 49

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN NAY ................................................ 50

3.1. Phát triển kinh tế, tận dụng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến việc phát huy vai trò của giáo dục nhân cách của gia đình cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ hiện nay. ....................................................... 50

3.2. Nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên, gắn liền với nâng cao trình độ hiểu biết, cải tiến nội dung, phương pháp giáo dục con cái của các bậc cha mẹ cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ hiện nay. .... 51

3.3. Kết hợp nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác giáo dục nhân cách cho sinh viên. ................................................................................................................... 54

3.4. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập và rèn luyện nhân cách .............................................................................................. 58

iv

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .............................................................................................. 61

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 61

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 63

v

PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 68

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Gia đình là “tế bào” của xã hội, là nơi con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành,

là chiếc nôi thân yêu để con người tìm về sau những lo toan vất vả nhọc nhằn trong cuộc

sống mưu sinh. Những giá trị nhân cách, lối sống mà gia đình truyền cho con cái sẽ mãi

là hành trang để mỗi người mang theo và bước vào cuộc sống xã hội với một niềm tin,

niềm kiêu hãnh là không vật chất, không cám dỗ nào từ bên ngoài có thể đánh gục được.

Do đó một xã hội muốn phát triển theo hướng như thế nào, cần con người có nhân cách

ra sao phải lưu tâm đầu tiên đến tầm quan trọng của gia đình.

Tầm quan trọng của gia đình cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Rất

quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt

thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân xã hội là gia đình. Muốn xây

dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp thì phải chú ý hạt nhân gia đình cho tốt” [33, tr 531].

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chỉ thị,

nghị quyết, chính sách đề cập vấn đề này. Thực trạng hiện nay, công tác giáo dục gia

đình đã được quan tâm nhiều hơn trước, không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên

thế giới. Tuy nhiên thế giới hiện nay đang có những biến động chưa từng có, tạo cho

nhân loại những cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức mới. Quá trình toàn cầu hóa đang

diễn ra ngày càng mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.

Việt Nam là nước đang phát triển, nhờ quá trình toàn cầu hóa, chúng ta có lợi thế

của nước đi sau để đi tắt đón đầu trong một số lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ. Chúng ta

có điều kiện thuận lợi để mở rộng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và nguồn lực bên

ngoài nhằm phát triển các ngành sản xuất mà chúng ta có khả năng, qua đó, thúc đẩy

kinh tế tăng trưởng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hình thức kinh tế phù hợp cho

việc xác lập địa vị chủ thể của cá nhân, bởi vì nó đòi hỏi ở con người tính tích cực, tự

giác tối đa. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Cùng với sự phát triển và ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị

1

hóa cũng đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp đất nước ta. Đô thị hóa là quá trình phát triển

tất yếu của thời đại theo xu thế chung của toàn thế giới hiện nay, nó tác động mạnh mẽ

đến mọi lĩnh vực hoạt động của các quốc gia nói chung và của nông thôn Việt Nam nói

riêng, tạo ra những sự thay đổi lớn về kinh tế, văn hóa xã hội.

Như vậy nhờ toàn cầu hóa, chúng ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng

khoa học và công nghệ; phát triển nền kinh tế thị trường, đô thị hóa đang đem lại nhiều

lợi ích to lớn cho người dân. Tất cả chúng đều có thể tác động đến mọi mặt của đời sống

xã hội, kể cả nền tảng của cuộc sống cá nhân, gia đình, cộng đồng, đến lĩnh vực đạo đức.

Mặt khác lối sống phương Tây đang như cơn bão ngày một tràn vào nước ta. Lối

sống ấy, một mặt tác động tích cực làm thay đổi nếp sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc,

ỉ lại vốn có của người Việt Nam, sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu

trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Nhưng nó cũng kéo theo kiểu sống sùng bái

vật chất, nặng về cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống trụy

lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Nguy hiểm nhất là kiểu sống này đang lan truyền mạnh

mẽ trong một bộ phận giới trẻ hiện nay, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, sinh viên.

Hiện nay, một bộ phận sinh viên có quan niệm đạo đức và hành vi ứng xử khá

thực dụng, muốn thể hiện cái tôi cá nhân và đề cao các giá trị vật chất hơn những giá trị

tinh thần; một số sinh viên có thái độ thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm đạo đức đối với

bản thân, gia đình, xã hội; xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, sống buông thả,

tự bước qua những nguyên tắc, có lối hành xử bạo lực phi nhân tính, lười học tập, lười

lao động. Bởi vậy, nhiệm vụ đặt ra cho các trường Đại học trong cả nước là cần chú

trọng nhiều hơn nữa tới giáo dục nhân cách, lối sống mới cho sinh viên để họ có thể đảm

nhiệm được những yêu cầu đổi mới trong thời đại ngày nay.

Thực tế hiện nay, trường Đại học Nội vụ Hà Nội ngoài giáo dục chuyên môn,

nghiệp vụ, nhà trường cũng đã và đang tích cực giáo dục nhân cách cho sinh viên. Do

đó đã tạo ra một lực lượng sinh viên vừa có chuyên môn nghiệp vụ giỏi vừa có phẩm

chất đạo đức tốt (vừa hồng vừa chuyên).Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận

sinh viên chưa có lối sống và cách hành xử đúng mực, một phần do thiếu sự quan tâm,

giáo dục từ phía gia đình. Trong khi gia đình là một bộ phận của hệ thống giáo dục xã

hội và là thiết chế giáo dục quan trọng nhất không thể thay thế. Nhiều gia đình đã mắc

2

sai lầm nghiêm trọng khi giao phó hoàn toàn trọng trách giáo dục cho các nhà trường

nơi con em mình học tập. Họ quan niệm rằng gia đình chỉ có vai trò giáo dục con cái từ

nhỏ đến hết cấp 3, thậm chí có những gia đình chỉ giáo dục con em mình đến hết cấp 2,

bởi những gia đình này cho rằng lên đến cấp 3 là con em họ đã lớn nên để cho con tự do

phát triển nhân cách mà không cần có sự định hướng, giáo dục từ phía gia đình. Trong

khi, ở giai đoạn sinh viên, những đứa con của họ đang trong quá trình phát triển và hoàn

thiện nhân cách, do đó, sự đứt đoạn trong giáo dục của gia đình có ảnh hưởng rất lớn

đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của sinh viên. Chính những sai lầm mà gia

đình mắc phải mà khi con em họ bước vào đại học, sống tự lập xa gia đình, tiếp xúc với

sự đa dạng các mối quan hệ, chịu tác động bởi chính cuộc sống muôn màu muôn vẻ,

trong đó có cả những yếu tố tiêu cực sẽ dẫn đến một bộ phận sinh viên mất khả năng

chống đỡ, bị cuốn theo những lối sống tiêu cực, phản văn hóa, phản giá trị, sống dựa

dẫm, ỷ lại, không chịu khó, chịu khổ để học tập, đua đòi, ăn chơi, sống buông thả…

Vì thế, trong bối cảnh hiện nay, để đào tạo ra những cán bộ tương lai không chỉ

giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn cần phải có nhân cách, lương tâm nghề nghiệp,

có lối sống trong sạch lành mạnh, góp phần tạo dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất

lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì cần sự chung tay của nhà

trường với gia đình và xã hội trong đó vai trò vô cùng quan trọng thuộc về phía gia đình.

Với những lý do trên, và do nhu cầu đặt ra từ thực tiễn nhóm tác giả chúng em

chọn đề tài “Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên

trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của nhóm mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Gia đình và giáo dục gia đình luôn là những chủ đề hấp dẫn cá nhân, thể. Trong

những năm gần đây vấn đề giáo dục của gia đình được nhiều nhà khoa học quan tâm

nghiên cứu. Có nhiều công trình, bài viết, các cuộc hội thảo nghiên cứu về vai trò của

gia đình đối với sự hình thành, phát triển nhân cách.

Trước hết phải kể đến: tác phẩm "Nói chuyện về giáo dục gia đình" của A.Ma-

ca-ren-cô, do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành năm 1978. Với tâm huyết và năng lực

vốn có, cùng với kinh nghiệm của một nhà giáo dục Xô viết nổi tiếng, A.Ma-ca-ren-cô

đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ phải được bắt đầu ngay từ thời thơ ấu.

3

Ông cho rằng, điều đó không phải là khó như nhiều người lầm tưởng, rằng tất cả các bậc

cha mẹ đều có thể làm được, vả lại đó là một công việc lý thú, mang lại niềm vui và

hạnh phúc. Nếu tuổi trẻ không được gia đình giáo dục ngay từ đầu, thì công việc cải tạo

sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ của gia đình, mà xã hội phải quan tâm.Những

nguyên lý giáo dục đó cũng như những kinh nghiệm thực tiễn của ông cho đến nay vẫn

được đông đảo độc giả tìm đọc và trân trọng. Tiếp theo A.Ma-ca-ren-cô, phải kể đến

I.A-Pê-sec-ni-cô-va với tác phẩm "Dạy con yêu lao động" do Nhà xuất bản Phụ nữ phát

hành năm 1980. Theo tác giả, muốn cho con cái của chúng ta lớn lên được mạnh khỏe,

vui tươi, yêu đời và cống hiến được nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải được giáo

dục về lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội...) bởi phẩm

chất đạo đức hình thành ở trẻ em, trước hết là trong lao động.

Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có nhiều công trình, bài viết của nhiều nhà

giáo dục học, tâm lý học được công bố, đề cập khá sâu sắc đến công tác giáo dục của

gia đình đối với thế hệ trẻ với nhiều góc độ, cấp độ khác nhau. Tác giả - Nghiêm Sĩ

Liêm, “Vai trò người phụ nữ trong giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay”, Báo chí và

Tuyên truyền, số 2 năm 2000, trang 34 – 36. - Đỗ Thị Bình (chủ biên), “Gia đình Việt

Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”

Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2002. - Đức Minh (chủ biên), "Khoa học giáo dục con

em trong gia đình" của Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương, xuất bản năm 1979.

Cuốn sách này đã giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh

vai trò, đặc điểm của giáo dục gia đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội dung

và yêu cầu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ; "Dạy con nên người" của Hội Liên

hiệp Phụ nữ thành phố Hà Nội, xuất bản năm 1991. Tập thể tác giả đã cung cấp cho các

bậc cha mẹ những hiểu biết cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong

việc giáo dục con cái nên người, trên những mặt cơ bản của nội dung giáo dục: Đức, trí,

thể, mỹ và lao động, mà các thế hệ làm cha mẹ luôn luôn hướng tới. Công trình “Gia

đình và vấn đề giáo dục gia đình” của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, xuất

bản năm 1994.

Ngoài các công trình trên cũng có một số luận văn, nghiên cứu các vấn đề Gia

đình, - Giáo dục gia đình như: Luận văn Th.s của Phan Thanh Hùng, “Sự biến đổi chức

năng gia đình trong kinh tế thị trường hiện nay” Hà Nội, 1996; Luận văn Th.s Nguyễn

4

Thành Công, “Vai trò của giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách thế hệ trẻ

ở Việt Nam hiện nay” Các công trình trên đây đều đề cập ở những mức độ khác nhau

đến vai trò của giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách thế hệ trẻ ở Việt Nam

nói chung.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:

3.1. Mục tiêu:

Làm rõ vai trò của gia đình với giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học

Nội vụ Hà Nội, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình

trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đai học Nội vụ Hà Nội hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ:

Để hoàn thành mục tiêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Làm rõ khái niệm gia đình và các chức năng cơ bản của gia đình .

- Trình bày vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên.

- Trình bày thực trạng, nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra phát huy vai trò của

gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà

Nội hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách cho sinh

viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng: Phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh

viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

- Phạm vi nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho

sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay qua khảo sát sinh viên năm thứ nhất

và năm thứ hai của 8 khoa trong nhà trường.

Nhân cách sinh viên là tổng thể những phẩm chất đạo đức, năng lực thể chất và

tinh thần với nhiều nội dung cụ thể, tuy nhiên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát

vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà

5

Nội ở các nội dung: Giáo dục đạo đức, văn hóa truyền thống; Giáo dục ý thức chính trị,

kỉ luật, ý thức cộng đồng; Giáo dục ý thức tự giác học tập, lao động; Giáo dục thể chất

và thẩm mỹ và việc thực hiện các phương pháp giáo dục nhân cách của gia đình.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy

vật lịch sử.

- Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp cụ thể:

+ Nghiên cứu, phân tích tài liệu

+ Phương pháp quan sát

+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp

+ Phương pháp logic - lịch sử

+ Phương pháp phương pháp thống kê, phương pháp diễn dịch và quy nạp…

6. Giả thuyết nghiên cứu

Nhận thức và hành vi của sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội sẽ được nâng

cao nếu phát huy được vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên

trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

7. Đóng góp của đề tài

- Đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách cho

sinh viên trường Đại học Nội Vụ hiện nay.

- Có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho một số đề tài nghiên cứu có liên quan.

Đặc biệt là vận dụng vào học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học trong chương 7 vấn đề

Gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi .

8. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được cấu

trúc gồm 3 chương:

GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN

6

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG

CÁCH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN NAY: THỰC

TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Chương 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN

CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

7

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC NHÂN CÁCH

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG

GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN

1.1. Gia đình và các chức năng cơ bản của gia đình

1.1.1 Khái niệm gia đình

Gia đình là tổ chức cơ sở đầu tiên trong đời sống của mỗi cá nhân, là tế bào hợp

thành một xã hội, là nhân tố quan trọng để hình thành nên một xã hội. Không có gia đình

để tái tạo ra con người, tái tạo ra sức lao động thì xã hội không thể tồn tại và phát triển

được. Mỗi cá nhân đều sinh ra trong một gia đình và không thể có con người sinh ra từ

bên ngoài gia đình. Do vậy, gia đình luôn có một vị trí quan trọng đặc biệt, và là đối

tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Trên thực tế đã và đang có không ít khái

niệm về gia đình, mỗi khái niệm được đưa ra tùy theo góc nhìn nhận, nhân sinh quan

của mỗi người, mỗi ngành khoa học. Chính vì vậy cho đến nay vẫn chưa có sự thống

nhất về khái niệm gia đình.

C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba

tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống

bản của thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi – nảy nở -

đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”1. Cơ sở hình thành

gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết

thống (cha mẹ và con cái...). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên

kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi

người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.Ăngghen đã cho rằng: “Gia đình chỉ

mối quan hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái” (trích theo 7, tr.41].

Xecmainơ trong cuốn sách 142 tình huống giáo dục gia đình đã đưa ra khái niệm

về gia đình như sau: “Gia đình là nhóm người chung sống với nhau dưới một mái nhà

có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nền kinh tế chung”. Còn UNESCO đưa ra định

nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân

8

sách chung” [trích theo 24, tr.7].

Ở Việt Nam cũng có khá nhiều định nghĩa về gia đình. Nguyễn Công Hoàn trong

một cuốn sách nghiên cứu về gia đình có tiêu đề Tâm lý học về gia đình đã cho rằng:

“Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội. Các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về

hôn nhân hoặc huyết thống, tâm lý, có cùng chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định

trong các thời điểm lịch sử nhất định” [trích theo 24, tr. 8].

Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa về gia đình: “Gia đình là tập hợp những người

cùng chung sống thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ

hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [trích theo 43, tr.

297]. Một định nghĩa khác về gia đình được nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà

nghiên cứu xã hội học ở nước ta thừa nhận là:“gia đình là một hình thức cộng đồng xã

hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết

thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các

thành viên trong gia đình.” [trích theo 6, tr.159].

Tại điều 8, luật hôn nhân và gia đình ghi rõ: “Gia đình là tập hợp những người

gắn bó với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm

phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo quy định của luật này” [trích

theo 29, tr.8].

Như vậy, đã có rất nhiều định nghĩa về gia đình nhưng tựu chung lại có thể hiểu:

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù dựa trên quan hệ vợ - chồng và các quan hệ

huyết thống, nuôi dưỡng, giáo dục,…có những ràng buộc về quyền lợi, trách nhiệm được

pháp luật công nhận.

1.1.2. Chức năng cơ bản của gia đình

Một là, chức năng tái sản xuất ra con người

Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay thế.

Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng

nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu về sức lao động

và duy trì sự trường tồn của xã hội.

Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình,

9

nhưng không chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, thực hiện chức

năng này quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc

tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ

đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào

nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiên theo xu hướng hạn chế hay khuyến

khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực

lao động mà gia đình cung cấp.

Hai là, chức năng nuôi dưỡng, giáo dục

Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có trách nhiệm nuôi

dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng xã hội. Chức năng

này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời thể

hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa

rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì,

ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và

người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên, mà gia đình đem lại thường để lại

dấu ấn sâu đậm và bền vững trong cuộc đời mỗi người. Vì vậy, gia đình là một môi

trường văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những chủ thể

sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người thụ

hưởng giá trị văn hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong

gia đình.

Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời

của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành viên

trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong việc

nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết mực quan trọng, mặc dù, trong

xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các đoàn thể, chính quyền v.v...) cũng thực

hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng giáo dục của gia đình. Với

chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của

xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã

hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy, giáo dục của gia đình

gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình không gắn với giáo dục của

10

xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với xã hội, và ngược lại, giáo dục của xã

hội sẽ không đạt được hiệu quả khi không kết hợp với giáo dục của gia đình, không lấy

giáo dục gia đình là nền tảng. Do vậy, cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia

đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội hoặc ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi

cá nhân đều không phát triển toàn diện.

Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm

mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn, đặc biệt

là phương pháp giáo dục

Bà là, chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp và quá trình sản

xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của gia

đình mà các đơn vị kinh tế khác không có được, là chỗ ở, gia đình là đơn vị duy nhất

tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.

Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật

chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện

chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản

xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu

nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần

của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo một môi trường

văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy trì sở

thích, sắc thái riêng của mỗi người.

Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau và ngay cả

ở cùng một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức

năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất

và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trò của kinh tế gia đình và mối

quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng không hoàn

toàn giống nhau.

Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu

vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của gia

11

đình quyết định hiệu quả hoạt động đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên

gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải,

sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng của

mình về vốn, về sức lao động, tay nghề lao động của người lao động, tăng nguồn của

cải vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này, không những tạo cho

gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối

với sự phát triển của xã hội.

Bốn là, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình

Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu

tình cảm, văn hóa, tinh thần, cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ,

chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa

các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương

tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương

tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người. Với việc

duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và

phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã

hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.

Ngoài những chức năng trên gia đình còn có chức năng văn hóa, chức năng chính

trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc

cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng được

thực hiện trong gia đình. Gia đình không chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi sáng tạo và

thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ

chức chính trị xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và quy

chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thồng pháp luật, chính sách và quy chế

viên và vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên

đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.1.2. Nhân cách sinh

1.2.1. Nhân cách và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên

1.2.1.1. Khái niệm về nhân cách

Khi bàn về khái niệm nhân cách thì mỗi ngành khoa học tiếp cận về vấn đề nhân

12

cách theo góc độ khác nhau.

Dưới góc độ tâm lý học nhân cách người ta hiểu: nhân cách như là bộ mặt tâm lý,

bao gồm một hệ thống thái độ của con người với bản thân và chung quanh dựa trên một

động cơ đúng đắn, vươn theo một lý tưởng cao cả2.

Dưới góc độ giá trị học nhân cách chính là mối quan hệ - mức độ phù hợp giữa

thang giá trị, thước đo giá trị của chủ thể với thang giá trị và thước đo giá trị của nhóm,

cộng đồng xã hội, nhân loại3.

Dưới góc độ đạo đức học nhân cách là một giá trị của con người được thừa nhận

về mặt xã hội v.v... Nói cách khác, nhân cách là giá trị làm người, là toàn bộ phẩm giá

của con người được xã hội thừa nhận.

Trên cơ sở khái quát một số kết quả nghiên cứu đã được công bố, từ góc độ triết

học chúng tôi quan niệm nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử - cụ

thể, đóng vai trò là chủ sở nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của quyền hạn và nghĩa

vụ của những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực xã hội khác.

Nhân cách được hiểu một cách khái quát bao gồm phẩm chất đạo đức và năng lực

- năng lực thể chất và năng lực tinh thần. Đó là sự thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt

xã hội ở trong mỗi cá nhân con người cụ thể, là thái độ ứng xử của mỗi con người trong

mối quan hệ nhiều chiều với hiện thực khách quan.

Nhân cách được coi là sự phức hợp của những phẩm chất cá nhân. Nó là một cấu

trúc thống nhất của tất cả những nét nhân cách được vận động trong một con người. Đây

không phải là một phép cộng đơn giản của các thuộc tính cá nhân mà là một hệ thống -

cấu trúc thống nhất và luôn được hình thành như một thể thống nhất thông qua các quá

trình hoạt động, giao tiếp.

Tóm lại, có thể coi nhân cách như là toàn bộ những đặc điểm cùng những phẩm

chất tâm lý cá nhân có tác dụng quy định giá trị và hành vi xã hội của một con người.

Tất cả những cái đó sẽ góp phần tạo nên được nét đặc trưng của bản sắc và giá trị xã hội

trong nhân cách của họ. Nhân cách được coi là tổng hoà không phải là mọi đặc điểm cá

13

thể của con người mà chỉ những phẩm chất chung nào quy định nó như là một thành

viên của xã hội cũng như một công dân, người lao động và một nhà hoạt động xã hội có

ý thức. Nhân cách của chủ thể sẽ luôn luôn được sống động hiện thực qua toàn bộ những

hành vi, quan hệ xã hội trong suốt tiến trình của cuộc sống của họ. Việc tổng hoà tất cả

những thuộc tính của thể chất cũng như tài năng, phong cách, ý thức, đạo đức, vai trò

xã hội của chủ thể để tạo thành một hệ thống - cấu trúc xác định với một bản sắc riêng

và có cá tính rõ nét sẽ góp phần làm hình thành được một cấu tạo đặc biệt là nhân cách.

Ở con người, cái sinh lý cũng như cái xã hội và cái tâm lý sẽ luôn luôn có sự tác động

biện chứng với nhau trong mọi thời gian - không gian sống để tạo ra những nét đặc trưng

của nhân cách. Tất cả ba yếu tố này đều có sự ảnh hưởng, tác động qua lại và quy định

lẫn nhau trong việc hình thành nhân cách. Vì vậy, cần thiết phải có cách tiếp cận cụ thể,

toàn diện và đặc thù khi phân tích quá trình phát triển nhân cách, để từ đó, biết cách xác

định được nội dung các tác động giáo dục cho phù hợp, hình thành những phẩm chất

nhân cách tốt.

Theo đó, nhân cách có cấu trúc tương đối phức tạp. Hiện nay có nhiều quan điểm

khác nhau về cấu trúc nhân cách:

Nhà phân tâm học S. Freud cho rằng cấu trúc nhân cách bao gồm: vô thức, ý thức

và tự ý thức. Trong đó, vô thức là một thành phần quan trọng trong đời sống tinh thần

của con người.

Có quan điểm cho rằng cấu trúc nhân cách bao gồm nội tâm lý và ngoại tâm lý,

những yếu tố sinh vật là cơ chế nội tâm lý, những yếu tố ngoại tâm lý là quan hệ bên

ngoài của nhân cách, những hình thức của mối quan hệ này tác động với thế giới bên

ngoài, với hoàn cảnh xã hội. Đây là quan điểm siêu hình về nhân cách vì nó đã tách rời

yếu tố sinh vật với yếu tố xã hội trong cấu trúc nhân cách, mà thực tế ngay cả yếu tố

sinh vật của con người cũng mang tính chất xã hội.

Theo quan niệm của chúng tôi, cấu trúc của nhân cách gồm hai mặt thống nhất

với nhau là phẩm chất và năng lực, hay được hiểu là sự thống nhất giữa đức và tài, trong

đó yếu tố đức có vai trò đặc biệt quan trọng. Đức được coi là “gốc”, là cơ sở nền tảng

cho sự hình thành và phát triển nhân cách.

14

Mặt đức được thể hiện ở những phẩm chất sau:

- Phẩm chất xã hội: Thế giới quan, lập trường, thái độ chính trị - xã hội, thái độ

lao động.

- Phẩm chất cá nhân: đó là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ của cộng đồng, phản

ánh và khẳng định tồn tại xã hội của cá nhân ấy. Thực chất đó là việc thực hiện đạo đức

xã hội dưới dạng kinh nghiệm cá nhân, được biểu hiện ở lý tưởng, chuẩn mực.

- Phẩm chất ý chí, tính kỷ luật, cung cách ứng xử, tác phong…

- Ý thức thẩm mỹ.

Mặt tài chính là năng lực thích ứng với xã hội của con người, là hiệu suất, hiệu

quả trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của cá nhân được biểu hiện ra ở: Khả năng

thích nghi, cơ động, mềm dẻo trong cuộc sống trên cơ cở vốn tri thức tích lũy được; khả

năng thể hiện bản lĩnh và dấu ấn riêng, độc đáo của cá nhân trong các quan hệ xã hội;

khả năng hành động theo mục đích, có tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo với năng

suất, chất lượng và hiệu quả cao nhất; khả năng giao tiếp xã hội.

Như vậy, sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực hay giữa đức và tài của mỗi

cá nhân đạt được trong quá trình học tập, lao động và tu dưỡng trong môi trường xã hội

với những điều kiện lịch sử - xã hội, điều kiện riêng của bản thân được xã hội thừa nhận

và tạo thành nhân cách của cá nhân ấy.

1.2.1.2. Sinh viên và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh

viên.

* Sinh viên và nhân cách sinh viên

Sinh viên là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh: Student – dùng để chỉ

những người đang học tập ở các trường đại học, cao đẳng. Độ tuổi của sinh viên trong

khoảng từ 18 đến 25 tuổi. Đây là độ tuổi đã có sự trưởng thành nhất định về mặt sinh

học (chín muồi về lực) và mặt xã hội. Họ đang trong quá trình học tập, chuẩn bị hành

trang để trở thành những nhà trí thức, công chức, những người lao động giỏi trong tương

lai. Do đó, sinh viên là lực lượng đang trong thời kỳ phát triển trí tuệ với khả năng tư

duy sâu sắc và mở rộng, khả năng lập luận logic, trí tưởng tượng phong phú và khả năng

tự ý thức (điều chỉnh nhận thức, đánh giá toàn diện về bản thân và vị trí của mình trong

15

cuộc sống). Giai đoạn này, sinh viên không chỉ có nhiệm vụ là học tập để lấy tri thức

mà còn có nhiệm vụ rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho nghề nghiệp sau này. Do

đó, giai đoạn này sinh viên có bước chuyển từ vị trí là học trò sang vị thế là “nhà tri

thức” – sinh viên hiện tại và trí thức tương lai. Vì vậy, nhân cách sinh viên là tổng thể

những phẩm chất đạo đức, năng lực thể chất và tinh thần được hình thành một cách lịch

sử - cụ thể gắn với môi trường giáo dục và tự giáo dục của sinh viên hình thành nên các

giá trị giúp sinh viên điều chỉnh hành vi của mình trong hoạt động học tập, hoạt động

giao tiếp, ứng xử, hoạt động xã hội của mỗi sinh viên.

Từ quan niệm trên cho thấy, nhân cách sinh viên có sự thống nhất với nhân cách

con người nói chung nên nó cũng có cấu trúc gồm hai mặt thống nhất với nhau đó là

phẩm chất và năng lực hay “đức” và “tài”.

* Các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên:

Giáo dục nhân cách sinh viên là quá trình tác động có tính hướng đích, có tính

tích cực, có mục tiêu, có kế hoạch với hình thức đa dạng, bằng nhiều con đường của chủ

thể tới nhân cách ở sinh viên nhằm làm cho toàn bộ các phẩm chất đạo đức, năng lực,

thể chất và tinh thần sinh viên được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện, củng

cố. Thực chất đó là quá trình tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành, phát triển

những phẩm chất đạo đức, năng lực thể chất và tinh thần ở sinh viên, kích thích tính tự

giác, học tập, rèn luyện, sáng tạo ở sinh viên. Giáo dục nhân cách cho sinh viên chịu tác

động của các yếu tố sau:

Thứ nhất, tác động của công cuộc đổi mới.

Sự tổng hòa các yếu tố về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội ở nước ta hiện nay

đều tác động đến nhân cách sinh viên, trong đó sự tác động sâu sắc nhất chính là kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tác động này diễn ra theo cả hai hướng, tích

cực và tiêu cực.

Sự tác động tích cực đó là, trong môi trường kinh tế thị trường, việc đề cao lợi

ích cá nhân, đảm bảo lợi ích cá nhân hài hòa với lợi ích xã hội nên đã kích thích tính chủ

động, tích cực, tự giác, sáng tạo, độc lập trong suy nghĩ và hành động của sinh viên được

16

nâng cao, góp phần giải phóng năng lực sáng tạo của mỗi sinh viên. Chính trong nền

kinh tế thị trường không có chỗ cho những sinh viên bị động, ỷ lại mà đòi hỏi họ không

ngừng gia tăng tri thức, trí tuệ cả về mặt chất và lượng.

Tuy nhiên, những tiêu cực mà kinh tế thị trường tác động đến nhân cách sinh viên

là không tránh khỏi, đó là làm nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, kích thích lối sống thực dụng,

lối sống tiêu dùng và lối sống không lành mạnh trong sinh viên.

Thứ hai, tác động của xu thế toàn cầu hóa.

Toàn cầu hóa đã xóa nhòa ranh giới giữa các quốc gia trong việc tiếp cận tri thức

của nhân loại thông qua công nghệ thông tin. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã

giúp cho sinh viên có điều kiện dễ dàng tiếp thu các giá trị, thành tựu về khoa học, công

nghệ, tư tưởng, tri thức mới cũng như văn hóa… của các dân tộc khác trên thế giới để

bổ sung, làm mới, hiện đại hóa văn hóa của dân tộc mình. Sự tiếp cận này giúp cho sinh

viên phát triển trí tuệ, năng lực, óc sáng tạo, đồng thời làm phong phú đời sống tinh thần

của mỗi sinh viên. Chính sự va đập với nhiều thông tin đa chiều đã giúp chi sinh viên

hình thành bản lĩnh, ốc phê phán, tính tự chủ, độc lập trong tiếp nhận chứ không bị động,

thụ động… Bên cạnh những mặt tích cực trên, cũng không ít những tiêu cực tác động

đến nhân cách sinh viên, đó là những yếu tố văn hóa ngoại lai không phù hợp với truyền

thống văn hóa dân tộc, những yếu tố phản giá trị, phản văn hóa tràn vào nước ta và được

một bộ phận sinh viên nhanh chóng tiếp nhận và có lối sống cá nhân, thực dụng, xa hoa,

hưởng thụ, có những biểu hiện đạo đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc…

Thứ ba, tác động từ công tác giáo dục của các chủ thể giáo dục như nhà trường,

gia đình và xã hội.

Công tác giáo dục nhân cách sinh viên cả về mặt tài và mặt đức hay phẩm chất

và năng lực đều thuộc về các chủ thể như nhà trường, gia đình và xã hội. Các chủ thể

này có sự thống nhất chặt chẽ với nhau, tuy nhiên ở mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác

nhau cũng như cách thức, phương pháp giáo dục khác nhau đến nhân cách sinh viên.

Giáo dục có tác động mạnh mẽ và đóng vai trò chủ đạo đối với sự hình thành

nhân cách sinh viên. Sở dĩ như vậy là vì, giáo dục vạch phương hướng cho sự phát triển

nhân cách, có khả năng chọn lọc những tác động của xã hội đến sinh viên, hạn chế những

17

tác động tiêu cực và tăng cường những tác động tích cực. Giáo dục không chỉ hướng

dẫn sự phát triển nhân cách sinh viên sao cho phù hợp với những yêu cầu của đời sống

xã hội hiện tại mà còn chuẩn bị cho mỗi sinh viên đáp ứng được với những đòi hỏi của

cuộc sống xã hội tương lai. Giáo dục thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện nhân cách sinh

viên với một tốc độ nhanh chóng hơn sự phát triển nhân cách một cách tự phát. Chẳng

hạn, sự giáo dục từ phía nhà trường được thể hiện qua mục tiêu giáo dục trong nhà

trường là trau dồi tri thức, rèn luyện đạo đức hay nói cách khác là xây dựng nhân cách

toàn diện cho người học. Việc trau dồi tri thức được thực hiện thông qua các môn khoa

học nhằm cung cấp nền tảng tri thức, hình thành và củng cố thế giới quan, lập trường

sống – nền tảng của nhân cách. Những vốn kinh nghiệm, vốn văn hóa của xã hội, của

các thế hệ, của nhân loại được đúc rút một cách tổng quát, khái quát dưới dạng lý luận

qua các môn khoa học. Do vậy, các môn khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã

hội) là những môn khoa học có vai trò trực tiếp nhất đến việc bồi dưỡng, giáo dục nhân

cách cho sinh viên.

Việc rèn luyện đạo đức cho sinh viên trong các nhà trường được thể hiện rõ nhất

qua việc giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin và thông qua các hoạt động được

nhà trưởng tổ chức và phát động. Việc giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin đã

giúp cho sinh viên hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng.

Hình thành những quan niệm đúng đắn về thế giới, về những vấn đề có tính quy luật của

xã hội, hiểu biết về chính bản thân mình và vị trí của mình trong xã hội để hình thành

mục tiêu, phương hướng phấn đấu cho bản thân. Các hoạt động được nhà trường tổ chức

và phát động góp phần hình thành năng lực tổ chức, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng

làm việc theo nhóm, tập thể cũng như sự đoàn kết, sự chia sẻ, sự hy sinh “mình vì mọi

người, mọi người vì mình”. Ngoài ra những chương trình hoạt động do đoàn thanh niên,

hội sinh viên tổ chức như “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, “Mùa hè xanh”,

“sinh viên tình nguyện”, “tiếp sức mùa thi”….đã giúp sinh viên củng cố và hoàn thiện

những giá trị đạo đức cốt lõi như lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân,

trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân….

Thứ tư, tác động từ sự tự giáo dục, tự giác học tập, rèn luyện của chính bản thân

18

sinh viên

Sinh viên đa số nằm trong độ tuổi thanh niên. Đây là giai đoạn nhân cách đang

trưởng thành, phát triển và dần hoàn thiện được biểu hiện cả ở mặt sinh học và mặt xã

hội. Về mặt sinh học, đây là giai đoạn gần như phát triển hoàn chỉnh của con người. Giai

đoạn này khả năng hoạt động trí tuệ của sinh viên được nâng cao ở khả năng khái quát

hóa, trừu tượng hóa và khả năng tiếp nhận nguồn thông tin đa dạng, đa chiều… Về mặt

xã hội, sinh viên có tinh thần hăng hái, xung phong, nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ,

dễ thích nghi với hoàn cảnh và muốn được thể nghiệm mình trong cuộc sống, luôn khát

khao tìm hiểu, khám phá và chinh phục kiến thức. Tuy nhiên sự chưa hoàn chỉnh của họ

được thể hiện ở sự bồng bột, thiếu chín chắn, thiếu kinh nghiệm sống, thiếu thực tế, ảo

tưởng, muốn khẳng định cái tôi nên dẫn đến tự cao, tự đại, không chịu thua kém ai….

Trước những khó khăn trong cuộc sống thực tế, nhiều sinh viên không đủ nghị lực, sự

kiên trì để tiếp tục thực hiện những hoài bão, những ước mơ… dần dẫn đến tâm lý chán

nản, mất niềm tin vào cuộc sống… một bộ phận do lập trường dễ dao động nên đã có

những biểu hiện, hành vi, hành động đi ngược lại với lợi ích chung của dân tộc, ngược

lại với những giá trị văn hóa truyền thống… Do đó, hơn ai hết, dưới sự tác động từ nhà

trường, gia đình và xã hội, bản thân mỗi sinh viên cần phải nâng cao lập trường, thái độ

của bản thân trong việc tích cực, tự giác học tập, rèn luyện, tự đánh giá, tự điều chỉnh

hành vi của mình. Chính quá trình tự giáo dục của bản thân mỗi sinh viên có ý nghĩa

quyết định trực tiếp đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của họ.

Như vậy, nhân cách được hình thành nhờ tác động qua lại giữa môi trường sống

(tự nhiên và xã hội) với hoạt động tích cực của mỗi người dựa trên tiền đề thể chất nhất

định và được sự chỉ đạo của giáo dục theo hướng mà xã hội yêu cầu, trong đó giáo dục

của gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng.

1.2.2. Gia đình - yếu tố quan trọng trong giáo dục nhân cách của sinh viên

Gia đình là một xã hội thu nhỏ, là một thiết chế xã hội đặc thù, gia đình vừa là

sản phẩm chịu sự tác động mạnh mẽ, liên tục của các chuyển biến xã hội, vừa là động

lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ở bất cứ xã hội nào, gia đình luôn giữ vai trò, vị trí

quan trọng, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Trong quá trình xây

dựng đất nước, Đảng ta đã chỉ ra tầm quan trọng của gia đình là tế bào của xã hội, là cái

19

nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và

hình thành nhân cách. Vì vậy, mọi chính sách của Đảng, Nhà nước vừa phải chú ý tới

giáo dục đạo đức của gia đình nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hoà thuận,

tiến bộ, vừa phải nâng cao ý thức về nghĩa vụ của gia đình đối với xã hội, coi gia đình

vừa là mục đích vừa là động lực của sự phát triển.

Ngày nay, xã hội đang từng bước có những chính sách nhằm chia sẻ dần những

gánh nặng trách nhiệm nuôi dạy con cái cùng gia đình. Việc chăm sóc, giáo dục thế hệ

trẻ nhất là sinh viên được giao cho các giáo viên được đào tạo chính quy và có lòng yêu

nghề. Tuy nhiên, vai trò của gia đình trong việc phát triển, hoàn thiện nhân cách cho các

con vẫn giữ một vị trí quan trọng.

Vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân là một trong

những chức năng cơ bản của gia đình, nhằm chuẩn bị cho mỗi cá nhân những hiểu biết,

những kỹ năng và thái độ cần thiết đối với các sự vật, hiện tượng của thế giới xung

quanh để mỗi cá nhân gia nhập vào đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển thì càng làm

tăng tầm quan trọng có giáo dục đạo đức gia đình đối với sự hình thành và phát triển

nhân cách thể hệ trẻ. Mục đích sâu xa của giáo dục trong gia đình là hướng tới xây dựng

nhân cách con người, đạo lý làm người. Sự giáo dục của gia đình sẽ hướng dẫn cho cá

nhân nhận thức đúng đắn về những giá trị đích thực, những chuẩn mực và khuôn mẫu

xã hội, những bổn phận, nghĩa vụ và quyền lợi, cũng như những trật tự không chỉ trong

gia đình mà ở cả ngoài xã hội.

Gia đình có vai trò quan trọng trong xây dựng ý thức đạo đức, bồi dưỡng những

tình cảm đạo đức, rèn luyện thói quen, hành vi để mỗi người trong gia đình được sống

trong môi trường lành mạnh, văn minh. Sự giáo dục của gia đình có tác dụng phát triển

nhân cách với những phẩm chất như yêu Tổ quốc, yêu gia đình, kính trên nhường dưới,

lòng yêu con người, yêu lao động,…Để có thể làm được điều đó thì mỗi người cha, mỗi

người mẹ phải là tấm gương mẫu mực cho con.

Ngày nay, việc phát triển nền kinh tế thị trường không chỉ cung cấp hàng hóa đa

dạng và phong phú, mà sự phát triển này còn có những mặt tích cực khác như khơi dậy

những tiềm năng của con người, phát triển mạnh mẽ hệ thống giáo dục,... Tuy nhiên,

kinh tế thị trường cũng có mặt tiêu cực. Việc chạy đua theo đồng tiền, các luồng văn

20

hóa xâu xâm nhập làm cho con người dường như quên đi trách nhiệm, bổn phận của

mình với gia đình, quên mất đạo hiếu, quên mất những giá trị văn hóa truyền thống tích

cực. Cuộc sống đua đòi, thực dụng, chà đạp lên những đạo lý truyền thống tốt đẹp,... là

thực trạng đáng báo động đòi hỏi giáo dục gia đình phải được thực hiện tốt hơn nữa,

trong đó trách nhiệm to lớn thuộc về chính những người cha, người mẹ, những người

thân trong gia đình.

Giáo dục trong gia đình Việt Nam không chỉ tác động mạnh mẽ ở giai đoạn ấu

thơ của cuộc đời mỗi con người, vì con người Việt Nam gắn bó vô cùng chặt chẽ với

đời sống gia đình nên có thể ảnh hưởng của giáo dục gia đình là hết sức to lớn, lâu dài

suốt cả cuộc đời. Nó đặt cơ sở quyết định cho sự hình thành nền tảng nhân cách ở tuổi

niên thiếu, thúc đẩy sự phát triển, hoàn thiện nhân cách ở tuổi thanh niên, củng cố, giữ

gìn nhân cách ở tuổi trưởng thành và khi về già. Vì thế, giáo dục gia đình mang tính chất

thường xuyên, lâu dài và có hệ thống chặt chẽ.

Giáo dục gia đình là một quá trình liên tục và lâu dài từ khi đứa trẻ hình thành ý

thức đến tận tuổi già. Nó có đặc trưng riêng xuất phát từ tình cảm và thông qua tình cảm,

thái độ, việc làm, hành vi ứng xử của người lớn mà trẻ học tập cách sống, cách nghĩ.

Giáo dục đạo đức trong gia đình có phương pháp đặc biệt là thuyết phục, giảng giải,

cùng trao đổi thân tình và làm gương trên cơ sở tình thương yêu của những người ruột

thịt. Những thông tin, kinh nghiệm, mà ông bà, cha mẹ truyền thụ được thực hiện một

cách tự nhiên, thân tình, giản đơn và thường được nhắc lại bằng nhiều cách khác nhau.

Một thông tin có khi được thể hiện qua lời nói, có khi được thể hiện qua những hành vi

ứng xử, cũng có khi bằng thái độ với mỗi cá nhân học tập, trưởng thành theo kiểu thấm

nhuần dần. Hơn nữa, giáo dục gia đình còn có nội dung phong phú và đa dạng, bởi vì

môi trường gia đình là một môi trường không thuần nhất (các thành viên của gia đình

thường khác nhau về địa vị xã hội, vai trò, kinh nghiệm sống, tuổi tác, giới tính, học

vấn, nghề nghiệp và tính tình...), nhưng về cơ bản giáo dục gia đình sẽ giúp cho thế hệ

trẻ tiếp nhận những kinh nghiệm, những chuẩn mực, những giá trị và những vai trò xã

hội, mà những tri thức cốt yếu này được truyền thụ bằng con đường tình cảm sau khi đã

qua “bộ lọc” của các thành viên trong gia đình.

Khi so sánh vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách cho sinh viên

21

với giáo dục trong nhà trường và các tổ chức xã hội thì điều đáng chú ý là tính đa dạng

và nhiều chiều của nó - vừa có ảnh hưởng của cá nhân đối với cá nhân, vừa có ảnh hưởng

của cả tập thể gia đình liên kết gắn bó với nhau, tác động đến từng cá nhân thông qua

lối sống, nếp sống, văn hoá gia đình. Giáo dục của gia đình khác hẳn với giáo dục nhà

trường ở sự đa dạng của thầy dạy về giới tính, lứa tuổi, cá tính, công việc, tính đa dạng

trong kiến thức cung cấp cho thế hệ trẻ như: Kinh nghiệm làm ăn, cách cư xử, sự hiểu

biết về xã hội, cách tổ chức đời sống gia đình..., tính đa dạng về phương pháp giáo dục,

không chỉ bằng truyền đạt một chiều mà thông qua thảo luận, trao đổi ý kiến, không chỉ

bằng lời nói mà bằng thái độ, tình cảm, nêu gương, không chỉ lý thuyết mà bằng việc

làm cụ thể.

Tuy nhiên, giáo dục con người là sự nghiệp của toàn xã hội và mọi tổ chức xã hội

có chức năng giáo dục đều phải tham gia giáo dục con người. Cần có sự kết hợp chặt

chẽ giữa gia đình – nhà trường - xã hội.

Các nhà khoa học khẳng định rằng cấu trúc nhân cách gốc, nhân cách nền tảng

của mỗi con người được định hình ở tuổi ấu thơ (từ 1 đến 6 tuổi) nghĩa là khi đứa trẻ

còn ở trong gia đình. Vì thế, tính cách của một người trưởng thành, thái độ, hành vi của

họ đối với gia đình, đối với người khác và đối với xã hội như thế nào thường lặp lại hay

mang nặng dấu ấn của những yếu tố tương ứng đã diễn ra trong quan hệ gia đình của họ

mà họ được sống và tiếp nhận trong quá trình trưởng thành. Do đó, môi trường gia đình

có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi con người. Điều đó cho thấy,

giáo dục trong gia đình có vai trò đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

của con người. Thế nhưng không ít người cho rằng giáo dục gia đình chỉ có ý nghĩa khi

đứa trẻ còn nhỏ, khi một đứa trẻ đã đến trường thì giáo dục của nhà trường và của xã

hội sẽ thay thế giáo dục gia đình. Có lẽ xuất phát từ đó mà một thời gian dài chúng ta đề

cao giáo dục của nhà trường và xã hội. Nhưng phải thấy rằng, giáo dục gia đình hướng

tới mục đích tổng quát còn giáo dục nhà trường chủ yếu nhằm trang bị kiến thức ở các

lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Giáo dục của nhà trường chính là sự tiếp tục,

bổ sung cho giáo dục gia đình nhằm giúp con người phát triển toàn diện.

Như vậy, việc quản lý và kiểm soát của gia đình là nhằm hướng cho thế hệ trẻ

phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, tránh sự sa ngã, hư

22

hỏng của thế hệ trẻ là những công việc cần được các thành viên trong gia đình quan tâm.

Tuy nhiên, trong gia đình việc quản lý và kiểm soát đối với thế hệ trẻ không thể bằng

những nội qui, qui chế và luật lệ như kiểm soát và quản lý của xã hội. Nó được thực

hiện một cách mềm dẻo bằng tình cảm, sự hòa đồng và lực lượng quản lý, giám sát

không chỉ là các thành viên trong gia đình mà phải mở rộng ra các thành viên trong họ

hàng thân tộc và cả cộng đồng làng xã. Đồng thời, việc quản lý và giám sát của gia đình

đối với thế hệ trẻ không chỉ bó gọn trong thời gian, không gian, công việc trong gia đình

mà phải mở rộng ra ở những nhóm bạn, những ham muốn, các mối quan tâm cũng như

những gì cuốn hút giới trẻ ngoài xã hội. Mặt khác, khi gia đình thực hiện quản lý và

kiểm soát đối với thế hệ trẻ để ngăn chặn chúng không bị lôi cuốn vào các hoạt động

xấu, lệch chuẩn hay các tệ nạn xã hội thì cần phải phối kết hợp với nhà trường và các tổ

chức xã hội khác, kể các với các cơ quan thi hành pháp luật.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, gia đình không chỉ có vai trò quan trọng trong

việc hình thành nhân cách cho mỗi người ở giai đoạn ấu thơ mà còn có vai trò vô cùng

quan trọng trong giáo dục nhân cách cho mỗi người ở giai đoạn thành niên, trong đó là

các sinh viên. Nội dung giáo dục nhân cách của gia đình tập trung vào: Giáo dục đạo

đức, văn hóa truyền thống (thái độ, cử chỉ, giao tiếp, ứng xử lễ nghĩa); Giáo dục ý thức

tự giác học tập, lao động; Giáo dục lý tưởng, ý thức chính trị, kỷ luật; Giáo dục thể chất;

Giáo dục thẩm mỹ. Sự giáo dục nhân cách được thực hiện qua các phương pháp sau:

Nêu gương thông qua hành vi của cha mẹ, ông bà; Thuyết phục, khuyên bảo; Rèn luyện

23

thói quen hàng ngày; Hình thức khen thưởng, kỷ luật, trừng phạt.

Tiểu kết chương 1

Qua nghiên cứu đề tài phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho

sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội, trong chương 1 nhóm nghiên cứu đã làm rõ

được một số vấn đề như sau:

Làm rõ được khái niệm gia đình, các chức năng cơ bản của gia đình .

Làm rõ khái niệm nhân cách và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách

cho sinh viên.

Làm nổi bật vai trò của gia đình và khẳng định tầm quan trọng của gia đình trong

việc giáo dục nhân cách cho sinh viên.

Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất giúp cho thế hệ trẻ hình thành

nên những phẩm chất nhân cách tốt. Cha mẹ nếu biết sử dụng các phương pháp giáo dục

tốt, hợp lý, thì chính là người giáo dục có hiệu quả nhất trong việc hình thành nhân cách

24

cho thế hệ trẻ, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Chương 2 PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN

CÁCH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN

NAY: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1. Vài nét về sinh viên trường Đại học Nội vụ hiện nay

Trường Đại học Nội vụ Hà là một trong những nơi đào tạo cán bộ, công chức có

uy tín trong hệ thống giáo dục và đào tạo của cả nước. Mục tiêu của trường hiện nay là

“đào tạo cán bộ Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ

và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành

và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đáp ứng nhu cầu của

xây dựng sự nghiệp và bảo vệ Tổ Quốc”. Trong tương lai, sinh viên trường Đại học Nội

vụ Hà Nội sẽ trở thành những cán bộ, công chức ; họ đảm nhận nhiệm vụ thực hiện hóa

mục tiêu của Đảng và Nhà nước giao phó. Vì vậy, sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà

Nội có những đặc điểm riêng biệt, đặc thù do nghề nghiệp quy định.

Sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội giống sinh viên các ngành khác ở chỗ, họ đều

là những thanh niên tuổi đời còn rất trẻ, có sức khỏe, có niềm đam mê khoa học và tố

chất thông minh, thi đỗ kỳ tuyển sinh quốc gia vào đại học chính quy, luôn tích cực học

tập, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất để có một trình độ chuyên môn nhất định lập nghiệp.

Đặc biệt yêu cầu về phẩm chất đạo đức là rất quan trọng đối với mỗi sinh viên Nội vụ.

Vì mỗi cán bộ tương lai sẽ là những tấm gương cho nhiều thế hệ không chỉ cán bộ, công

chức mà cả người dân noi theo.

Thứ nhất: Sinh viên Nội vụ đều đến từ nhiều vùng, miền trong cả nước

Vì đến từ nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước nên Trường có sự đa dạng,

phong phú về văn hóa,, phong tục tập quán. Nhà trường là nơi học hỏi, giao kết tình hữu

nghị giữa các dân tộc và vùng miền trên khắp cả nước. Do phong tục, tập quán, lối sống

khác biệt nên tất yếu suy nghĩ có nhiều điểm không đồng nhất. Điều đó đòi hỏi người

nghiên cứu cần tìm ra những hướng đi, giải pháp đồng bộ nhằm phát huy vai trò của gia

đình đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên. Tuy nhiên, đây cũng là một điểm khó

khăn khi phát huy vai trò của gia đình với các sinh viên đều ở xa, không trực tiếp có tác

25

động tâm lý – tình cảm tới sinh viên như hồi phổ thông. Mỗi sinh đều có tính cách riêng

biệt nhưng nhìn chung thì phần lớn sinh viên Nội vụ xuất thân từ vùng quê, khó khăn

trên cả nước. Số lượng sinh viên Nội vụ ngoại tỉnh chiếm phần lớn cũng gây nhiều khó

khăn cho việc liên kết giữa nhà trường và gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho sinh

viên. Bởi không xuất thân từ những trường như Ngoại thương, Kinh tế, Ngân hàng... số

sinh viên xuất thân từ Hà Nội khá đông nên việc liên kết chi hội phụ huynh, gặp gỡ trao

đổi với gia đình cũng dễ dàng hơn

Thứ hai: Sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội có chất lượng đầu vào thấp

dần, còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.

Sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội chủ yếu xuất thân từ những hộ gia đình

nghèo, kinh tế còn nhiều khó khăn ở các tỉnh xa. Do đó nhiều khi cha mẹ còn chưa quan

tâm đến các sinh viên, Không ít sinh viên rơi rụng kỹ năng cơ bản, thậm chí khi lên đến

trường còn thiếu hụt kỹ năng về giao tiếp, ứng xử các tình huống trong cuộc sống. Điều

đó càng khiến yêu cầu phát huy vai trò của gia đình đối với việc hình thành nhân cách

cho sinh viên lại càng trở nên cấp bách. Bởi chỉ nhà trường thì chưa đủ giúp các sinh

viên có thể hoàn thiện nhân cách để trở thành những cán bộ, công chức trong tương lai.

Đối với sinh viên người dân tộc thiểu số hay sinh viên có xuất phát thấp về học

lực và hạnh kiểm thời phổ thông với những yêu cầu cao về tri thức, tính kỷ luật chặt chẽ

của nhà trường là một đòi hỏi không dễ được thực hiện ngay. Những biểu hiện như lười

học, kết quả học tập và rèn luyện không cao, vi phạm kỷ luật của sinh viên không hẳn

từ bản chất của họ, mặc dù diễn ra khá thường xuyên, mà có thể do các sinh viên chưa

kịp thích ứng, “hòa nhập tâm lý với môi trường” mới. Vì vậy trong thời gian đầu mới

nhập trường thì gia đình cần thường xuyên quan tâm, động viên cũng như giúp các sinh

viên để ổn định tinh thần, không xa vào các tệ nạn xã hội... Đặc biệt là với các sinh viên

chưa va vấp nhiều với cuộc sống.

Thứ ba: Sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tính tình thẳng thắn, thật thà,

tự trọng, ham học hỏi.

Sinh viên Đại học Nội vụ ngoan ngoãn, hiền lành, ít va chạm xã hội. Cần nắm

vững đặc điểm này để thận trọng suy xét khi đánh giá phẩm chất đạo đức của từng sinh

viên. Các sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội thường có lòng tự trọng cao, nếu các

26

sinh viên gặp phải những lời phê bình nặng nề, gay gắt hoặc khi kết quả học tập kém,

quá thua kém bạn bè ở một mặt sinh hoạt nào đó, bị dư luận bạn bè chê cười,.. các sinh

viên dễ xa lánh thầy cô giáo và bạn bè hoặc bỏ học và vướng vào những tệ nạn xã hội.

Sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ngay từ khi còn học phổ thông đã là

những học sinh có ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao. Đặc biệt các sinh viên đều

rất thật thà, trong sáng trong công việc và cuộc sống. Nhưng có điểm hạn chế là các sinh

viên chưa va vấp nhiều với cuộc sống nên dễ sa ngã và dễ bị dụ dỗ, lừa gạt. Chính vì

vậy rất cần sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía gia đình và nhà trường và toàn xã hội. Không chỉ

thế còn là sự hỗ trợ, liên kết hợp lý và phù hợp giữa các đối tượng được đề cập tới.

2.2. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho

sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay

Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc giữ

gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây dựng hệ các giá trị

đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Thực tế cho

thấy, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện xem nhẹ những giá trị văn hóa truyền

thống của dân tộc, chạy theo những thị hiếu không lành mạnh. Cuộc đấu tranh giữa cái

tiến bộ và cái lạc hậu, giữa lối sống lành mạnh trung thực, có lý tưởng... với lối sống ích

kỷ, thực dụng... đang diễn ra hằng ngày. Bên cạnh những hệ giá trị mới được hình thành

trong quá trình hội nhập, những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống

của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là học sinh, sinh viên mà sinh viên trường Nội vụ

cũng không phải ngoại lệ.

Để chuẩn bị cho hành trang vào đời, các sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội

không chỉ cần được trang bị vốn kiến thức mà còn phải được rèn luyện đạo đức tốt, để

hình thành nên một nhân cách hoàn thiện, không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà

còn cần phải có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, có lối sống trong sạch lành mạnh, là

những tấm gương sáng trong sự nghiệp đào tạo cán bộ nguồn cho Đảng và Nhà nước ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định tài năng phải luôn song hành với đạo đức,

qua đó đủ hiểu Người coi trọng như thế nào về đạo đức, lối sống. Yếu tố đó không những

quyết định kết quả học tập mà quyết định đến tương lai và cuộc đời của mỗi sinh viên.

Do đó, để có được sự phát triển toàn diện về nhân cách cho sinh viên, việc tìm hiểu thực

27

trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại

học Nội vụ hiện nay sẽ là cơ sở để chúng ta tìm ra những giải pháp hữu hiệu phát huy

tốt hơn vai trò này của gia đình nhằm giáo dục nhân cách sinh viên phát triển toàn diện,

đáp ứng yêu cầu cách mạng hiện nay.

2.2.1. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức, văn hóa

truyền thống.

Để xây dựng con người mới, nền văn hóa mới “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”

thì việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình là điều có ý

nghĩa hết sức quan trọng. Đó không chỉ là vai trò của gia đình, nhà trường mà là của cả

cộng đồng và toàn xã hội. Trong đó, gia đình được coi là thành tố quan trọng hàng đầu

trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Giáo dục truyền

thống cần phải được duy trì thường xuyên suốt cuộc đời của mỗi người. Giáo dục truyền

thống gia đình nhằm tạo cho mỗi cá nhân một niềm tin, trách nhiệm với gia đình, dòng

họ để từ đó có sự nỗ lực cố gắng hơn nữa trong học tập, rèn luyện khi xa nhà.

Cần nhận thức rõ rằng, giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình

có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ các thành viên trong gia đình tránh được các

tệ nạn xã hội và nhiều hiện tượng tiêu cực khác nảy sinh trong cuộc sống, là nền tảng để

thể hệ trẻ trong gia đình xác định được đâu là giá trị đích thực, văn minh, tiến bộ trong

xã hội hiện đại cần phải được tiếp thu, học hỏi và đâu là những hiện tượng tiêu cực, lai

căng đi ngược với xu thế văn minh, tiến bộ; là cơ sở để thế hệ trẻ xây dựng nhân cách

mới, hợp với xu thế hiện đại, nhưng cũng không có nghĩa là quay lưng hoàn toàn với

quá khứ mà phải làm sao để quá khứ sẽ được chắt lọc, mài rũa, đổi thay cho phù hợp

với điều kiện mới, tiến bộ và văn minh hơn.

Sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói

riêng được kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, về cơ bản họ nhận thức

được đối với người cán bộ thì phẩm chất đạo đức là điều kiện quan trọng hàng đầu và

vì vậy mà nhiều sinh viên Nội vụ cũng hết sức chú trọng việc tự rèn luyện đạo đức bản

thân để xứng với vai trò, trọng trách của mình. Chính nhờ ý thức tự giác này đã tạo điều

kiện thuận lợi cho việc bồi dưỡng, đào tạo đạo đức cho mỗi sinh viên. Tuy nhiên, ý thức

tự giác, rèn luyện của sinh viên là nhân tố bên trong mang tính quyết định nhất đến hoàn

28

thiện giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống của bản thân mỗi sinh viên. Nhưng để sự

hoàn thiện này đúng hướng và đạt kết quả cao cũng có vai trò vô cùng quan trọng từ sự

giáo dục của gia đình. Qua 200 phiếu điều tra của nhóm nghiên cứu đối với các bạn sinh

viên năm thứ nhất và năm thứ hai của 8 khoa trong nhà trường thì nhận được kết quả

100% các bạn sinh viên sống cuộc sống tự lập xa gia đình. Trong đó, chỉ có 53% các

bạn sinh viên trả lời gia đình đã có sự giáo dục đạo đức, văn hóa truyền thống cho các

bạn, nhưng sự giáo dục đó từ phía gia đình chỉ được thực hiện ở thời gian từ ấu thơ đến

hết cấp 3. Thường các gia đình đều có chung quan điểm, khi con em họ là sinh viên, là

độ tuổi đủ lớn để tự giáo dục đạo đức, văn hóa truyền thống cho bản thân, hoặc là họ

giao phó trách nhiệm này thuộc về phía nhà trường. Mặt khác, dưới tác động của nền

kinh tế thị trường, với sự hối hả của cuộc sống, bản thân các gia đình cũng rơi vào vòng

xoáy của công việc, của thu nhập. Do đó, đối với họ, trách nhiệm chính là chu cấp về tài

chính để đảm bảo vật chất đầy đủ cho con em mình chú tâm học tập chuyên môn. Chính

sự lơ là, thiếu quan tâm, giáo dục của gia đình mà một bộ phận sinh viên do xa nhà, mới

tiếp xúc với một môi trường mới với những mối quan hệ mở chịu tác động mạnh mẽ của

nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập, toàn cầu hoá nên việc rèn luyện đạo đức

của sinh viên đang có xu hướng suy giảm. Những tiêu cực về đạo đức đã xuất hiện ở

một bộ phận sinh viên như: cách ứng xử thô kệch, thiếu nhã nhặn tế nhị, nhiều quan

điểm, cách sống, lối sống xa lạ, lệch chuẩn, xu hướng sống thực dụng, sùng bái đồng

tiền, đề cao lợi ích cá nhân, quay lưng lại với các giá trị truyền thống trong gia đình là

lòng nhân ái, vị tha, sự đồng cảm, chia sẻ, quan tâm lẫn nhau.

Khi được hỏi các bạn sinh viên về việc liên lạc với gia đình, chỉ có 45% các bạn

trả lời thường xuyên liên lạc với gia đình, chứng tỏ các sinh viên này luôn coi gia đình

là điểm tựa giúp mình cân bằng cuộc sống, giải đáp các khó khăn hay khúc mắc trong

cuộc sống thông qua sự chia sẻ, trao đổi với các thành viên trong gia đình. Chỉ khi mỗi

sinh viên tự ý thức được tầm quan trọng của gia đình trong việc bồi dưỡng đạo đức thì

mới mang lại hiểu quả cao được. 55% sinh viên trả lời không thường xuyên liên lạc với

gia đình, chỉ liên lạc khi cần nhu cầu về tài chính. Qua đó, ta thấy được các mối quan hệ

truyền thống trong gia đình đã trở nên lỏng lẻo, các bạn sinh viên không còn coi trọng

vai trò của gia đình trong giáo dục, định hướng cho bản thân, gia đình không được coi

là chỗ dựa vững chắc để các bạn sinh viên chia sẻ, tìm nguồn động viên, vỗ về, chỉ bảo

29

khi họ gặp khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống xa nhà. Do đó, khi gặp phải khó khăn,

bản thân các bạn sinh viên không chống đỡ nổi, không vượt qua được nên dễ dàng mất

niềm tin vào cuộc sống, rơi vào cạm bẫy, tệ nạn….

2.2.2. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức chính trị, kỉ

luật, ý thức cộng đồng.

Ý thức chính trị được thể hiện ở niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý

của nhà nước; tinh thần thượng tôn pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp

luật; Tôn trọng lợi ích chung của đất nước, của xã hội. Sinh viên trường Đại học Nội vụ

Hà Nội luôn nhận được sự giáo dục từ gia đình và nhà trường về sự tin tưởng tuyệt đối

vào vai trò lãnh đạo của Đảng cũng như sự quản lý của Nhà nước. Các sinh viên không

chỉ tuân thủ pháp luật mà còn có ý thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định

do nhà trường đề ra. Về cơ bản tỉ lệ sa vào các tệ nạn xã hội của sinh viên trường khá

thấp. Cuộc sống sinh viên xa nhà, nhưng một bộ phận sinh viên đã hình thành ý thức kỷ

luật trong học tập, trong sinh hoạt rất tốt. Nhiều sinh viên đã xây dựng và thực hiện bảng

biểu học tập khoa học. Biết phân bổ thời gian hợp lý. Ngăn nắp, gọn gàng trong sinh

hoạt… Ngoài ra, họ còn thể hiện ý thức cộng đồng rất cao. Chính tinh thần cộng đồng

là một trong những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.

Ngoài việc học tập sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội còn tích cực tham gia

hoạt động xã hội như Hiến máu nhân đạo, giúp đỡ các trẻ em cơ nhỡ hay người già neo

đơn,... Đó là những hành động nhỏ - tấm lòng lớn của những sinh viên sống có lý tưởng,

khát vọng, hết mình vì cộng đồng dân tộc trên mọi nẻo đường tình nguyện vào những

ngày hè rực lửa, mùa đông hay trời mưa giá rét. Đó là những hình ảnh đẹp sáng ngời

đạo đức của sinh viên trường Nội vụ Hà Nội. Mỗi tấm gương đó có tác động hơn ngàn

lời nói và có sức lan tỏa lớn. Sở dĩ có được sự tích cực trên là nhờ sự giáo dục tích cực

của các chủ thể như gia đình, nhà trường, xã hội. Khi được hỏi 200 bạn sinh viên trường

Nội vụ về việc gia đình giáo dục nhân cách cho sinh viên ở những nội dung nào, thì có

51% sinh viên trả lời gia đình giáo dục ý thức chính trị, kỉ luật và ý thức cộng đồng.

56% sinh viên trả lời được gia đình khuyến khích và tạo điều kiện cho tham gia các hoạt

động cộng đồng.

Bên cạnh những mặt tích cực còn có những hạn chế nhất định đó là không ít

30

những sinh viên thiếu tinh thần trách nhiệm xã hội, sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm

tin. Ít quan tâm đến tình hình đất nước. Nhiều sinh viên không có ý thức phấn đấu để

trở thành đảng viên, không quan tâm đến thời sự, chính sự. Đây là điều đáng lo ngại khi

mà sinh viên trường Nội vụ ra trường chủ yếu làm công tác ở các cơ quan Nhà nước.

44% gia đình không khuyến khích và tạo điều kiện cho con em mình tham gia các hoạt

động cộng đồng. Chính sự thiếu quan tâm của bộ phận gia đình này là một trong những

nguyên nhân khiến các bạn sinh viên thiếu tinh thần đoàn kết, thiếu ý thức cộng đồng,

thờ ơ, vô cảm với những mảnh đời neo đơn, khó khăn trong cuộc sống. Các gia đình này

chưa nhận thức được vai trò của các hoạt động cộng đồng chính là môi trường để sinh

viên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành.

2.2.3. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức tự giác học

tập, lao động.

Giáo dục ý thức tự giác học tập, thái độ lao động đóng vai trò quan trọng trong

việc hình thành nên nhân cách, phẩm chất của con người nói chung và sinh viên nói

riêng. Ý thức tự giác học tập, lao động có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự hình thành

con người và xã hội loài người. Thông qua học tập, lao động con người tự hoàn thiện

bản thân, rèn luyện tính kiên trì, ham học hỏi, rèn luyện đạo đức, phát triển tình cảm và

bộc lộ tư duy sáng tạo. Chính vì vậy giáo dục ý thức học tập, thái độ lao động cho mỗi

cá nhân là trách nhiệm của mỗi gia đình, là một trong những nhiệm vụ của giáo dục gia

đình.

Ý thức tự giác học tập, lao động của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội

ngày càng được phát huy cao độ, khi một bộ phận sinh viên rất hăng hái rèn luyện, tự

giác trong học tập và nghiên cứu khoa học. Hàng năm, số lượng sinh viên chủ động đăng

kí nghiên cứu khoa học ngày càng tăng và chất lượng có sự chuyển biến rõ rệt. Các bạn

đã nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập đối với tương lai, sự nghiệp sau này,

nên ngoài học tập trên lớp, một số bạn cũng chú tâm thêm việc học ở nhà để củng cố,

mở rộng và đào sâu thêm kiến thức.

Họ cũng xác định được việc học tập không chỉ để thu thập tri thức thuần túy về

học vấn mà để đạt được giá trị cao hơn nhiều, rộng hơn nhiều. Vốn tri thức có được

thông qua học rập, rèn luyện chính là hành trang để các sinh viên tự tin, bản lĩnh bước

31

vào môi trường xã hội trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay. Sự tích cực, tự

giác học tập, lao động còn được thể hiện ở một số sinh viên đã đăng kí học thêm những

lớp bồi dưỡng tin học, ngoại ngữ. Qua đó thấy được khả năng thích ứng của các sinh

viên này vô cùng nhanh nhạy trước đòi hỏi của xã hội ngày càng phát triển. Bởi lẽ,

những sinh viên vừa có kiến thức chuyên môn giỏi, tin học thành thạo, ngoại ngữ giao

tiếp tốt sẽ có cơ hội kiếm được những việc làm tốt và thu nhập cao và đồng thời là yếu

tố để các sinh viên này tự khẳng định chính mình, tự tin vươn lên đứng vững bằng đôi

chân của mình, không cần vào sự chiếu cố thành phần, thậm chí cả ô dù nữa. Điều đó

cho thấy sự khẳng định yếu tố độc đáo, nét riêng, bản lĩnh của mỗi sinh viên ngày nay

càng được các sinh viên chú trọng. Đây là những phẩm chất vô cùng quan trọng phù

hợp với xu thế quốc tế hiện nay.

Đáng xúc động hơn có những sinh viên xuất thân trong những gia đình nghèo khó

nhưng biết vượt lên hoàn cảnh để vươn tới tầm cao của tri thức. Ngoài việc học tập, các

bạn đã làm tất cả những công việc để có tiền phụ giúp cha mẹ. Các bạn mãi là những

bông hoa đẹp trong vườn hoa của dân tộc Việt Nam – Một tương lai tươi sáng đang chờ

các bạn ở phía trước. Các sinh viên đó cũng chính là những người tiếp thu và thực hành

tốt tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vì trong trái tim các sinh viên luôn tâm niệm rằng

“đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta mà hãy tự hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc hôm nay”.

Sở dĩ có được một bộ phận sinh viên có ý thức tự giác học tập, lao động như vậy

là nhờ vào sự giáo dục, rèn rũa của gia đình và nhà trường, trong đó là vai trò vô cùng

quan trọng của gia đình.

Từ nền văn hóa gia đình, các sinh viên càng trưởng thành lại càng tiếp xúc với

nền văn hóa rộng hơn, phong phú hơn thông qua các hoạt động xã hội. Mặc dù quá trình

xã hội hóa không phải hoàn toàn do giáo dục gia đình quyết định nhưng cha mẹ với tư

cách là người giáo dục đầu tiên, khởi nguồn cho việc hình thành, phát triển các yếu tố

nhân cách gốc, tạo nền móng cho việc tiếp thu giáo dục nhà trường, giáo dục của các

đoàn thể xã hội khác một cách có hiệu quả và tương lai các sinh viên sẽ là những cán bộ

nguồn với phẩm chất đạo đức tốt. Nhiều gia đình không được trực tiếp ở gần nhưng luôn

cố gắng hỏi han, chia sẻ thường xuyên việc học hành, sinh hoạt hay chuyện tình cảm

của con em mình. Từ đó mà giúp cho các sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội yên

32

tâm học tập, rèn luyện. Việc được gia đình cổ vũ, động viên thường xuyên khi đi học xa

nhà khiến tâm trạng các sinh viên ở trạng thái cân bằng nên dù đi xa vẫn giữ mối liên

kết, tình cảm, thuần phong mỹ tục của gia đình.

Tuy nhiên, bên cạnh một bộ phận sinh viên nhận được sự giáo dục tốt từ phía gia

đình, thì có một bộ phận sinh viên khác một phần do thiếu sự giáo dục từ gia đình, một

phần do tự ý thức tu dưỡng, rèn luyện của bản thân các sinh viên còn hạn chế, nên dưới

tác động của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa, họ lười lao động, lười học, thích sống

đua đòi, xa rời những giá trị truyền thống hiếu học, lao động cần cù, sáng tạo của dân

tộc mình.

Hiện nay không ít sinh viên trường Nội vụ Hà Nội chưa có thái độ đúng đắn đối

với việc học tập. Theo một cuộc khảo sát do nhóm đề tài tại Trường Đại học Nội vụ Hà

Nội: “80% sinh viên trả lời chỉ quan tâm đến học trên lớp mà không chú tâm đến cả thời

gian học ở nhà. Họ lên lớp cũng chỉ để điểm danh có điểm chuyên cần để đủ điều kiện

dự thi chứ cũng chưa hẳn chuyên tâm, say mê vào việc học. 64% sinh viên chưa tìm

được phương pháp học tập phù hợp với đặc điểm nhận thức cá nhân. 36% sinh viên bộc

lộ cách thụ động, ngại nêu lên thắc mắc và ý kiến của mình để đóng góp vào việc học

tập trên lớp mà chỉ thích giảng viên nói cho nghe. Mặc dù trong các cuộc chơi nhậu nhẹt

số đông trong họ là người tiên phong, sôi nổi, chơi hết mình. 50% sinh viên không thực

sự tự tin vào năng lực, trình độ của mình. 40% sinh viên cho rằng mình không có khả

năng tự học. 70% sinh viên cho rằng mình không có khả năng nghiên cứu. 55% sinh

viên không thực sự hứng thú với việc học tập. Những con số đó thật bất ngờ. Đáng buồn

thay cho một thế hệ tương lai đang ngày càng xuống dốc. Sinh viên ngày nay tiếp cận

quá nhiều các phương tiện thông tin hiện đại như điện thoại di động, truyền hình cáp,

internet,... nên dễ bị tiêm nhiễm tư tưởng xấu. Các sinh viên nam thì vùi mình trong

nhậu nhẹt, cơ bạc còn số khác thì lao vào các trò chơi vô bổ trong thế giới ảo.

2.2.4. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục thể chất và thẩm mỹ.

Giáo dục gia đình tạo điều kiện để trang bị cho thế hệ hệ một hệ thống kiến thức

về chăm sóc sức khỏe, về thẩm mỹ. Đây là những kiến thức cần phải được trang bị đầy

đủ để một cá nhân có thể bước ra ngoài xã hội một cách tự tin nhất. Gia đình có vai trò

quan trọng trong việc định hướng lựa chọn một hình thức tập luyện để rèn luyện thể

33

chất. Xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ thì việc thưởng thức cái đẹp, thể hiện cái đẹp,

cá tính của mỗi người ngày càng cao, trở thành một nhu cầu của cuộc sống thường ngày.

Con người tiếp thu những cái đẹp, đánh giá về cái đẹp, cái xấu bắt đầu từ gia đình.

Vai trò này của gia đình được phát huy tốt sẽ góp phần tạo ra cho xã hội không

chỉ một lực lượng sinh viên có tri thức, đạo đức mà còn đảm bảo sự phát triển về mặt

thể lực, sức khỏe, thẩm mỹ, đảm bảo sự phát triển toàn diện cho sinh viên.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, giáo dục thể chất có vai trò quan trọng

trong sự phát triển của cơ thể. Những tác động của giáo dục thể chất tới con người về

các mặt trí lực, đây là điều đặc biệt vì tập thể thao thường xuyên tăng cường trí thông

minh. Hoạt động thể chất giúp tạo ra các tế bào não mới trong khu vự liên quan đến trí

nhớ. Khi chơi thể thao sẽ cảm thấy đầu óc thoải mái hơn và có những giây phút sảng

khoái, giảm căng thằng và từ đó nâng cao khả năng tiếp thu kiến thức nhanh hơn, nhớ

lâu hơn.

Không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện thể lực, giáo dục thể chết còn rèn luyện cho

sinh viên về đạo đức. Kiên trì trau dồi trong quá trình tập luyện sẽ giúp sinh viên rất

nhiều trong cuộc sống. Khi đối mặt với khó khăn sẽ không chùn bước mà kiên nhẫn tìm

giải pháp để vượt qua. Trên cơ sở đó hình thành cho sinh viên thái độ tôn trọng, yêu

quý, giữ gìn bảo vệ cái đẹp. Đồng thời hình thành thái độ không khoan nhượng trước

những biểu hiện vô cảm, thiếu trung thực, thiếu văn hóa hoặc trước những hành động

tiêu cực trong thể thao nói riêng, trong cuộc sống của con người và xã hội nói chung.

Thực tế, nhiều bạn sinh viên trường Nội vụ cũng rất đam mê thể thao, các câu lạc

bộ thể thao được hình thành trong nhà trường như câu lạc bộ bóng đá, nhảy khiêu vũ,

nhảy híp hốp, bóng chuyền, cầu lông….thu hút nhiều bạn sinh viên tham gia. Sau những

giờ tan học, các bạn chơi thể thao hoặc tập những bài thể dục nhẹ nhàng không chỉ rèn

luyện sức dẻo dai của cơ thể mà còn giúp xả stress sau những bài học căng thẳng trên

giảng đường. Khi được hỏi “Gia đình có khuyến khích và tạo điều kiện cho bạn tham

gia vào các hoạt động thể dục thể thao không” thì có tới 63% các bạn sinh viên cho rằng

được sự tạo điều kiện và khuyến khích từ phía gia đình. Như vậy, các gia đình cũng

quan tâm đến sức khỏe và thể lực của con cái. Tuy nhiên, 37% các bạn sinh viên trả lời

không được gia đình khuyến khích và tạo điều kiện. Có lẽ, những gia đình này chỉ quan

34

tâm đến chất lượng học tập kiến thức của con em mình, sợ con em mải chơi thể thể dục

thể thao mà sao nhãng việc học tập. Do đó, họ thường gây sức ép cho con cái bằng kết

quả học tập. Tuy nhiên, nếu tư tưởng không được thoải mái, không bố trí thời gian học

tập và thể dục thể thao điều độ thì khả năng tiếp nhận tri thức cũng bị hạn chế và các gia

đình này cũng không nhận thức sâu sắc được điều này. Vì thế, một số sinh viên trong

quá trình học tập gặp áp lực, căng thẳng không được xả stress bằng chơi thể thao hoặc

văn hóa văn nghệ sẽ tìm đến game, điện tử để giải trí. Hoạt động này kéo dài và không

có sự tỉnh táo để điều phối dễ dẫn đến nghiện game. Thực tế có nhiều sinh viên nam

nghiện game đến mức quên ăn, quên ngủ, trốn học rồi bỏ tiết…và kết quả cuối cùng

không tham gia đủ số buổi học đã bị cấm thi, nợ môn nhiều dần dẫn đến chán rồi bỏ

học. Thực tế này không chỉ diễn ra ở trường Nội vụ mà hầu như ở trường đại học nào

trên địa bàn Hà Nội cũng xảy ra. Do đó, các gia đình nên quan tâm, động viên, chia sẻ

con em mình ăn uống khoa học, vệ sinh thân thể, thể dục thể thao, và tham gia hoạt động

giải trí khác một cách điều độ, cân bằng.

Bên cạnh những sinh viên được hưởng thụ sự giáo dục đầy đủ từ gia đình, nhà

trường và xã hội về những giá trị tốt đẹp nói chung, những cái đẹp trong ngôn ngữ, hành

động, thái độ, cử chỉ nói riêng nên đã tạo ra một bộ phận sinh viên nhã nhặn, lịch thiệp,

biết cảm thụ cái đẹp, biết chia sẻ, ca ngợi những hành động nhân văn trong xã hội, đồng

thời lên án, phê phán cái xấu, cái phản văn hóa, cái trái với thuần phong mỹ tục của dân

tộc… thì vẫn còn một bộ phận sinh viên thờ ơ, vô cảm thậm chí có những hành động

phản văn hóa, ngược lại với những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa của dân

tộc. Bộ phận sinh viên này một phần thiếu bản lĩnh khi những yếu tố tiêu cực xuất hiện

trong nền kinh tế thị trường, trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tác động

nên bị tha hóa, suy đồi, một phần bị ảnh hưởng bởi môi trường giáo dục từ gia đình

không tốt. Bố mẹ thường xuyên cãi lộn, đánh chửi nhau, văng tục, chửi thề, bố mẹ không

là tấm gương sáng về mặt đạo đức cho con cái noi theo. Do vậy những tiêu cực này đã

hấp thụ vào những đứa con trong gia đình, lâu dần thành thói quen, thành đặc tính của

mỗi cá nhân.

Vì vậy việc kết nối sinh viên với gia đình là yêu cầu cấp thiết. Sự phối hợp giữa

gia đình và nhà trường sẽ làm cho nội dung giáo dục tốt đối với thế hệ trẻ mà cụ thể là

sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội trở nên hiệu quả, khoa học hơn. Gia đình như

35

một kênh thông tin cũng như có sự tác động rất lớn đề giúp các bạn sinh viên rèn luyện

đạo đức, nhân cách trong nhà trường. Nếu tách bạch việc hình thành nhân cách cho thế

hệ trẻ khỏi sự phối hợp với gia đình thì cũng giống như việc mất đi nền tảng ban đầu

trong quá trình hình thành nhân cách của mỗi người. Thêm nữa gia đình là bước đệm

đầu tiên giáo dục ý thức, suy nghĩ, thái độ hay hành vi của mỗi người nên các nhà trường

nếu không phát huy được vai trò của gia đình thì rất khó đạt được mục đích rèn luyện

đạo đức, nhân cách cho thế hệ sinh viên một cách toàn diện, đầy đủ và có chiều sâu.

2.2.5. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong việc thực hiện các phương

pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên

Trong gia đình truyền thống, việc giáo dục con cái mang nặng tính chất áp đặt,

trên bảo dưới phải nghe theo, làm cho các bạn trẻ trở nên thụ động thì ngày nay, trong

gia đình hiện đại, việc giáo dục tính tự lập, chủ động, sáng tạo được chú trọng. Thế hệ

trẻ không chỉ là thành viên trong gia đình mà còn là một thành viên của xã hội, chính vì

vậy không chỉ có trách nhiệm với gia đình mà họ còn phải có trách nhiệm với toàn xã

hội. Vấn đề ở đây là làm sao kết nối các bạn trẻ khi xa nhà không thiếu hụt sự quan tâm,

bảo ban của các gia đình. Để gia đình trở thành động lực quan trọng cho việc hình thành

nhân cách cho thế hệ trể, nhất là đối với sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

Ngày nay, dưới cơ chế thị trường, con người luôn có sự nỗ lực, cố gắng để khẳng

định vị trí của mình với xã hội, chính vì vậy những phẩm chất, đức tính tự lập, năng lực,

trí tuệ, tính sáng tạo là những yếu tố giúp cá nhân khẳng định được mình, thích ứng với

những thay đổi của cuộc sống hiện đại.

Trong những năm gần đây, trong giáo dục nhân cách, cả khách thể lẫn chủ thể

giáo dục đều có những thay đổi. Chủ thể (ông bà, cha mẹ) đã có trình độ học vấn, khoa

học kỹ thuật, trình độ nghề nghiệp cao hơn. Do đó, nhận thức và năng lực trong việc

thực hiện giáo dục đạo đức trong gia đình của họ sẽ tốt hơn. Khách thể giáo dục (sinh

viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội) ngày càng học nhiều hơn trong một xã hội học tập.

Các sinh viên được tiếp xúc với thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Bầu

không khí dân chủ hóa đời sống xã hội cũng có tác động không nhỏ đến gia đình. Các

sinh viên có xu hướng khẳng định cái tôi, cái nhu cầu, thị hiếu, phong cách sống mà thế

hệ trước không có. Vì vậy, phương pháp giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, nhất là các cán

36

bộ nguồn tương lai trong gia đình cũng có những thay đổi phù hợp, chú ý đến nhu cầu,

nguyện vọng của con em mình nhiều hơn, thực hiện dân chủ hóa gia đình nhưng vẫn giữ

nề nếp truyền thống, kỷ cương gia đình.

Giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội được các gia

đình quan tâm ở phương pháp nêu gương thông qua hành vi của cha mẹ, ông bà (51%

sinh viên trả lời gia đình lựa chọn phương pháp giáo dục này). Họ cho rằng, môi trường

sống đầu tiên của mỗi người là gia đình, nếu ở trong đó, các thành viên trong gia đình

sống đầm ấm, chan chứa tình cảm, yêu mến cái đẹp và có những hành vi đẹp, cử chỉ,

thái độ, giao tiếp, ứng xử lễ nghĩa theo những chuẩn mực của giá trị đạo đức Việt Nam

thì những đứa con được sinh ra trong gia đình đó được hấp thụ những tinh chất nhất,

tinh hoa nhất của đạo đức dân tộc và sẽ hình thành lên những công dân tốt cho xã hội.

Ngược lại, sống trong một môi trường gia đình mà cha mẹ thiếu gương mẫu, thường

xuyên mâu thuẫn, xung đột, bạo lực gia đình, với việc thường xuyên chứng kiến những

hình ảnh bạo lực, đòn roi sẽ in nếp vào tâm lý của con cái, sau này con cái lớn lên sẽ có

xu hướng bạo lực. Thuyết phục, khuyên bảo và rèn luyện thói quen là những phương

pháp cũng được nhiều gia đình lựa chọn sử dụng để giáo dục nhân cách cho con em

mình. 57% các bạn sinh viên cho rằng gia đình đã giáo dục nhân cách cho các bạn dưới

hình thức thuyết phục, khuyên bảo và rèn luyện thói quen. Như vậy, các gia đình có con

em đang học tại trường Nội vụ Hà Nội đã phát huy tốt những đặc thù riêng mà không

phải trường nào cũng có. Các bậc cha mẹ giáo dục đạo đức cho con cái mình rất hiệu

quả thông qua việc sử dụng các phương pháp giáo dục nhẹ nhàng, hiện đại và mang lại

không khí hòa thuận, cởi mở, ấm áp trong gia đình. Chính việc thuyết phục, khuyên bảo

nhẹ nhàng mà đã cảm hóa được nhiều sinh viên lầm đường lạc lối để trở lại với cuộc

sống có ý nghĩa hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và xã hội. Cha mẹ sẽ

định hướng, khuyên răn con là chính, sử dụng nhiều phương pháp nêu gương và giáo

dục thông qua hoạt động. Chủ thể giáo dục của gia đình sẽ phân tích lý lẽ để con phân

biệt đúng sai, điều hay lẽ phải, phát huy tính chủ động, sáng tạo, biến quá trình giáo dục

thành quá trình tự giác giáo dục khiến các sinh viên có tinh thần tự giác cao. Tuy nhiên,

quá trình này diễn ra dưới sự kiểm soát của những người lớn tuổi trong gia đình. Đặc

biệt trong các gia đình hạt nhân bố mẹ là người trẻ tuổi thường biết tạo ra không khí dân

chủ trong gia đình, tạo điều kiện cho các sinh viên có cơ hội được trao đổi suy nghĩ và

37

những mong muốn của bản thân một cách thẳng thắn, thông qua trò chuyện như vậy các

bậc phụ huynh sẽ nắm được nguyện vọng để định hướng cho con em mình có hiệu quả

nhất.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn có 49% sinh viên trả lời rằng cha mẹ thường giáo dục

nhân cách thông qua kỷ luật và trừng phạt. Với những hình thức kỷ luật và trừng phạt là

những phương pháp không hoàn toàn được khuyến khích trong giai đoạn hiện nay. Bởi

kỷ luật và trừng phạt chỉ mang tính chất áp đặt, chi phối hành vi trước mắt của con em

mình chứ chưa để con em mình thấu hiểu thật sự những tiêu cực và ảnh hưởng bất lợi

từ những hành vi đó gây nên. Do đó, nếu thuyết phục, khuyên bảo, rèn luyện thói quen

hay phương pháp nêu gương thì có tác dụng thay đổi từ bên trong, từ suy nghĩ, tình cảm

cho đến hành động thì phương pháp trừng phạt, kỷ luật chỉ có tác dụng bên ngoài mang

tính cưỡng chế. Do đó, nhiều khi phương pháp kỷ luật, trừng phạt còn có tác dụng phản

ngược lại, khi ở giai đoạn sinh viên, con em họ đã có sự phát triển gần như hoàn bị về

mặt tâm sinh lý, trình độ nhận thức, nên các gia đình giáo dục con theo kiểu “yêu cho

roi cho vọt” mang nặng tính truyền thống xưa thì có lẽ sẽ không phù hợp và con em họ

sẽ có những phản kháng nhất định như cãi lại, bỏ nhà ra đi thậm chí lì đòn và theo nhiều

gia đình nhận định là “bất trị”.

Thậm chí có những gia đình trừng phạt theo cách là cắt chu cấp về tài chính cho

con nếu như con cái bị mắc lỗi mà không kèm theo đó là thuyết phục, khuyên bảo, phân

tích đúng sai cho con để con thấu hiểu mà sửa đổi. Do đó, những bạn sinh viên này

không những không nhận ra sai xót của bản thân mà còn lún sâu hơn và tìm cách tự lo

tài chính cho bản thân bằng cách tham gia vào tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, làm

ăn bất chính, vi phạm pháp luật… Nhiều bạn nữ khi bị công ăn bắt về tội hành nghề mại

dâm đã trả lời rằng do thiếu thốn về tài chính vì gia đình không chu cấp nên phải hành

nghề để kiếm sống và đảm bảo ăn học.

Tóm lại, một chân lý được đúc rút ra rằng, con người nói chung và sinh viên nói

riêng muốn trở thành người theo đúng nghĩa thì phải có giáo dục. Vì vậy, các gia đình

cần quan tâm chăm sóc con cái ngay cả khi đã đi học xa nhà, nhất là khi con cái họ theo

ngành liên quan đến Nhà nước, Đảng với ngôi trường nhiều thành tích trong việc đào

tạo các cán bộ nguồn tài giỏi, có năng lực. Việc thực hiện chức năng giáo dục của gia

38

đình có ý nghĩa mạnh mẽ, sâu sắc không chỉ đối với tuổi thơ mà còn có ý nghĩa với suốt

cuộc đời. Vì vậy, nhiều bậc phụ huynh cũng đã cố gắng thường xuyên tạo ra môi trường

sống có tác dụng giáo dục, giúp các sinh viên hình thành và phát triển toàn diện nhân

cách của một công dân tương lai sống có ích cho xã hội. Thực chất, đây là công việc xã

hội hóa đối với mỗi công dân trẻ biến sinh thể tự nhiên thành một thực thể xã hội có khả

năng hòa nhập, thích nghi, học tập cũng như lao động theo yêu cầu của xã hội. Từ nền

văn hóa gia đình, các sinh viên càng trưởng thành lại càng tiếp xúc với nền văn hóa rộng

hơn, phong phú hơn thông qua các hoạt động xã hội. Mặc dù quá trình xã hội hóa không

phải hoàn toàn do giáo dục gia đình quyết định nhưng cha mẹ với tư cách là người giáo

dục đầu tiên, khởi nguồn cho việc hình thành, phát triển các yếu tố nhân cách gốc, tạo

nền móng cho việc tiếp thu giáo dục nhà trường, giáo dục của các đoàn thể xã hội khác

một cách có hiệu quả và tương lai các sinh viên sẽ là những cán bộ nguồn với phẩm chất

đạo đức tốt. Nhiều gia đình không được trực tiếp ở gần nhưng luôn cố gắng hỏi han,

chia sẻ thường xuyên việc học hành, sinh hoạt hay chuyện tình cảm của con em mình.

Từ đó mà giúp cho các sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội yên tâm học tập, rèn

luyện. Việc được gia đình cổ vũ, động viên thường xuyên khi đi học xa nhà khiến tâm

trạng các sinh viên ở trạng thái cân bằng nên dù đi xa vẫn giữ mối liên kết, tình cảm,

thuần phong mỹ tục của gia đình. Bên cạnh những gia đình thường xuyên quan tâm đến

con cái, đến việc giáo dục nhân cách cho con em họ nhất là khi chúng là sinh viên có

cuộc sống xa nhà thì cũng có không ít những gia đinh lơ là, thoái thác trách nhiệm giáo

dục con cái cho nhà trường. Những thành tựu và hạn chế trong việc phát huy vai trò của

gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên đều bắt nguồn từ những nguyên nhân

khách quan và chủ quan. Tìm ra những nguyên nhân đó để có những giải pháp tiếp tục

phát huy những thành tựu, khắc phục hạn chế là nhiệm vụ cần thiết để cùng với nhà

trường và xã hội tham gia vào trách nhiệm chung trong việc tạo ra thế hệ tương lai cho

đất nước với phẩm chất vừa có tài, vừa có đức hay vừa hồng vừa chuyên theo cách nói

39

của chủ tịch Hồ Chí Minh.

2.3. Nguyên nhân của thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai

trò của gia đình đối với giáo dục nhân cách cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội

hiện nay

2.3.1. Nguyên nhân của thực trạng

*Nguyên nhân khách quan.

Một là, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa và

hội nhập quốc tế.

Trong thời buổi kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

phát triển mạnh mẽ như hiện nay, một mặt tạo ra những thời cơ, những thuận lợi cho sự

phát triển của đất nước nói chung, sự phát triển của các gia đình nói riêng, trong đó có

sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần của từng hộ gia đình được

nâng lên. Từ đó, các gia đình có điều kiện thuận lợi để thực hiện chức năng giáo dục,

xây dựng và phát triển nhân cách gốc cho thế hệ trẻ. Cùng với sự nâng cao của đời sống

vật chất, cha mẹ có điều kiện chăm sóc, dạy bảo con tốt hơn do có sự hỗ trợ đắt lực của

những phương tiện, đồ dùng dạy học,... Đài truyền hình hay các mạng xã hội cũng giúp

các bậc phụ huynh kết hợp với nhà trường để giáo dục đạo đức sinh viên trở nên hợp lý

và hiệu quả hơn.

Mặt khác, chính sự phát triển của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế đã làm phát sinh những tiêu cực trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên của

các gia đình. Chẳng hạn, guồng quay của kinh tế thị trường đã kéo theo rất nhiều gia

đình mải làm ăn mà quên đi việc con mình cần sự quan tâm chia sẻ hay có những gia

đình làm giàu bằng con đường làm ăn phi pháp, mắc các tệ nạn xã hội, phạm tội, suy

thoái khiến cho các sinh viên chỉ được truyền dạy cho các kỹ năng lao động còn chuẩn

mực đạo đức, thì bị xem nhẹ thậm chí nhiều sinh viên trường Nội vụ Hà Nội có gia đình

như vậy còn bị tiêm nhiễm các quan điểm đạo đức lệch lạc. Hệ quả của việc đó sẽ dẫn

đến tạo ra những con người có lối sống thực dụng, đề cao giá trị đồng tiền, ích kỉ, chỉ

biết bản thân mình, điều này rất nguy hiểm nếu một cán bộ tương lai lại có những quan

điểm sai lệch như vậy... Thế hệ trẻ, nhất là các sinh viên trường Nội vụ Hà Nội chỉ phát

triển tốt về mặt đạo đức khi được sống trong một môi trường gia đình lành mạnh, mà

40

mọi thành viên trong đó đều sống có đạo đức. Như vậy, thực tế phát triển kinh tế hiện

nay vẫn còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu phát huy vai trò của gia

đình đối với việc hình thành nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

Hai là, mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc

giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Nội vụ Hà Nội

Gia đình, nhà trường, và các tổ chức xã hội là những thiết chế có những chức

năng giáo dục, xã hội hóa cá nhân không hoàn toàn giống nhau. Trong quá trình tổ chức

giáo dục cho sinh viên, đặc trưng của từng thiết chế được bộc lộ rõ rệt và cần được bổ

sung cho nhau. Trong thực tế hiện nay do sự hợp tác, phối hợp giữa các thiết chế giáo

dục có lúc, có nơi được quan tâm sâu sát nên dẫn đến hiệu quả giáo dục các thiết chế

giáo dục được phát huy tốt và đem lại hiệu quả giáo dục cao. Hiện nay, việc quan tâm

trực tiếp tới giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ở trong gia

đình đã diễn ra dưới rất nhiều hình thức từ tuyên truyền các nội dung phương pháp giáo

dục đến tạo hành lang pháp lý đến tổ chức các cuộc thi, các chế độ khen thưởng và xây

dựng những mô hình điển hình về giáo dục gia đình... Các tổ chức tham gia hỗ trợ và

hết hợp với gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho các sinh viên trường Đại học Nội

vụ Hà Nội ngày càng nhiều hơn. Ngoài các tổ chức quen thuộc là nhà trường còn có các

tổ chức khác như hội phụ nữ, hội cựu chiến binh,...

Sự quan tâm của toàn xã hội đến sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nói chung và giáo

dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng hiện nay là sự quan

tâm mang tính chất toàn diện và lâu dài. Từ việc tạo ra một môi trường sống ngày càng

đầy đủ hơn về mặt vật chất và tinh thần cho các sinh viên thông qua phát triển kinh tế -

xã hội đến nâng cao trình độ nhận thức cho các bậc phụ huynh và toàn xã hội tới việc

tạo ra một hành lang chính sách pháp luật về thanh niên. Việc nuôi dạy, giáo dục thế hệ

trẻ hiện nay không chỉ là trách nhiệm của mỗi gia đình mà là của toàn xã hội.

Tuy nhiên, có lúc, có nơi sự hợp tác, phối hợp còn lỏng lẻo, hiệu quả còn thấp,

cho nên mặt mạnh của mỗi thiết chế chưa được phát huy, chưa được bổ sung cho nhau

trong quá trình giáo dục.

Về phía nhà trường, dường như chỉ chú ý cung cấp về mặt kiến thức sách vở, còn

41

xem nhẹ giáo dục đạo đức, tư cách, văn hóa giao tiếp... Giáo dục nhà trường chỉ chú ý

cái chung, chưa chú ý cái cá biệt, chưa sâu sát đối tượng để tìm hiểu động viên giúp đỡ

kịp thời, không có liên lạc kịp thời với phụ huynh.

Về phía gia đình, một số ít các bậc cha mẹ, một mặt do chạy đua với cuộc sống

trong cơ chế thị trường, mặt khác là do nhận thức không đúng với vị trí của giáo dục gia

đình nên có tư tưởng ỷ lại việc giáo dục cho nhà trường, có chăng chỉ là đến họp, nắm

bắt kết quả học tập, rèn luyện của con mình qua điểm số, xếp hạng. Vấn đề này chủ yếu

diễn ra ở khu vực nông thôn, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, ở những gia đình nông

dân mà bố mẹ có trình độ thấp, những gia đình có bố mẹ đi xuất khẩu lao động ở nước

ngoài. Ngược lại cũng có không ít các bậc cha mẹ lại quan tâm thái quá, ỉ lại trong việc

học tập, thói quen sống hưởng thụ và không ham học hỏi, thậm chí là coi thường thầy

cô giáo của con cái và gây áp lực cho giảng viên, gây tiêu cực trong giáo dục. Vấn đề

này trong những năm vừa qua đã trở thành bức xúc, đặc biệt hay xảy ra ở những gia

đình có điều kiện hoặc trung tâm.

Về phía các tổ chức xã hội cũng chưa thực sự kết hợp tốt với gia đình, nhà trường

để cùng giáo dục nhân cách cho sinh viên, chưa có những sự quan tâm thích đáng đến

gia đình, nhà trường và tạo điều kiện cho các thiết chế này thực hiện tốt chức năng giáo

dục của mình. Chính sự lỏng lẻo này đã không tạo nên sự hợp lực vững chắc cho công

tác giáo dục nói chung và giáo dục nhân cách cho sinh viên nói riêng.

*Nguyên nhân chủ quan.

Thứ nhất, trình độ hiểu biết và năng lực giáo dục của các gia đình

Trong xã hội hiện đại ngày nay, với sự tiếp nhận được nhiều thành tựu của văn

minh nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, làm cho tư duy con

người năng động, sáng tạo, không bị gò bó, áp đặt trong những định kiến của xã hội hay

những tư tưởng mang tính bảo thủ của truyền thống. Do đó, các gia đình sẽ có những

cách thức giáo dục và nội dung giáo dục nhân cách mới mẻ, phù hợp với xu thế của thời

đại mà không đi ngược lại những giá trị truyền thống của dân tộc. Quá trình toàn cầu

hóa và hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho phép các gia đình tiếp cận được

những thành tựu của nhân loại trong việc giáo dục con cái, đồng thời học tập được những

phương pháp và nội dung giáo dục phù hợp của các nước tiên tiến trên thế giới như

42

phương pháp giáo dục của người Do thái, hay phương pháp giáo dục của người Nhật

đang được các gia đình quan tâm, nghiên cứu để giáo dục con cái của mình. Do đó,

ngoài được giáo dục những giá trị truyền thống, sinh viên còn được giáo dục những giá

trị mới như tính tự giác, năng động, sáng tạo, tự lập; ý thức kỷ luật… góp phần xây dựng

những con người mới phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và

phát triển đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, cùng với sự năng động, sáng tạo trong duy của con người trong xã hội

hiện đại ngày nay, thì còn không ít những gia đình, đặc biệt là những gia đình vùng nông

thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn giữ lại nguyên xi và thực hành những nội

dung và phương thức giáo dục truyền thống, mặc dù có những thứ không còn phù hợp

với xã hội hiện đại. Do đó, năng lực của một bộ phận cha mẹ không đáp ứng được việc

truyền thụ và giáo dục con cái; ý thức trách nhiệm cũng như nội dung, phương pháp

giáo dục còn nhiều hạn chế và bất cập. Trước đây, để giáo dục con cái, che mẹ chỉ cần

có một số kinh nghiệm rút ra từ bản thân, anh em, dòng tộc là đủ. Thậm chí cha mẹ còn

có thể dạy con bằng biện pháp cưỡng bức áp đặt. Ngày nay, muốn giáo dục tốt con cái,

trước hết cha mẹ phải thường xuyên học tập, nhằm không ngừng hoàn thiện bản thân.

Sự tu dưỡng, gương mẫu của cha mẹ tạo thành tấm gương dù con cái ở xa vẫn có thể

noi theo. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, thanh niên ngày càng phát triển nhanh về

mặt trí tuệ, thể chất, hơn nữa sự phát triển của các phương tiện thông tin, văn hóa,... đòi

hỏi trình độ dân trí, năng lực giáo dục của các bậc cha mẹ phải được nâng lên nếu không

sẽ tụt hậu so với lớp trẻ hoặc những quan điểm giáo dục không còn phù hợp. Ngoài ra,

cũng do hiểu biết hạn chế cộng với yếu tố kinh tế gia đình còn khó khăn nên nhận thức

về phương pháp giáo dục của các gia đình còn hạn chế. Các gia đình vẫn chủ yếu dùng

phương pháp uy quyền mệnh lệnh bắt buộc con cái theo ý mình... Tất cả những điều đó

đã làm hạn chế ở các sinh viên trường Nội vụ Hà Nội tính năng động, sáng tạo trong

phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục đào tạo tri thức cho sinh viên Nội vụ

Hà Nội thì nâng cao hiểu biết cho các gia đình về cả nội dung và phương pháp giáo dục

là việc làm cấp thiết.

Thứ hai, tự giáo dục của sinh viên

Sự tự giáo dục của sinh viên có vai trò quan trọng nhất, trực tiếp nhất đến việc

43

phát triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân họ, bởi toàn bộ sự tác động từ bên ngoài

vào chỉ phát huy hiệu quả khi chủ thể là sinh viên chủ động tiếp nhận và chuyển biến sự

tác động đó thành yếu tố nội lực thúc đẩy sự hoàn thiện của bản thân. Do đó, những nội

dung giáo dục của gia đình cũng như những hình thức và biện pháp mà gia đình thực

hiện tác động vào sinh viên Nội vụ hiện nay đều diễn ra theo hai trường hợp. Thứ nhất,

những sự giáo dục từ gia đình được sinh viên chủ động tiếp nhận và biến chuyển thành

những điều kiện thuận lợi, lợi thế cho sinh viên tiếp tục hoàn thiện, phát triển nhân cách

của mình, trở thành những người có sự phát triển toàn diện cả về thể - trí – mỹ. Thứ hai,

sự giáo dục của gia đình không được sinh viên chủ động tiếp nhận, cho rằng đến độ tuổi

sinh viên thì có quyền phát triển theo cá tính riêng, độc lập với sự giáo dục của gia đình.

Do đó, sẽ có những sinh viên không đủ bản lĩnh để vượt qua những thử thách, cạm bãy

của cuộc sống sẽ dễ dàng bị gục ngã và xa vào tệ nạn cũng như đánh mất nhân cách của

bản thân và như vậy, vai trò giáo dục của gia đình không thực hiện được.

2.3.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục

nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay

Vấn đề thứ nhất, chưa có sự thống nhất trong thực hiện chức năng phát triển

kinh tế với chức năng giáo dục trong gia đình.

Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế phải là nền tảng cho gia đình trong việc

phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội

Vụ Hà Nội với thực tế phát triển kinh tế tại các gia đình đang làm hạn chế vai trò của

gia đình trong việc hình thành nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội.

Phát triển kinh tế là yêu cầu tất yếu để tạo ra nền tảng cho giáo dục gia đình. Vì chỉ có

phát triển kinh tế đời sống gia đình mới ổn định, các bậc cha mẹ mới có điều kiện thuận

lợi hơn trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khoẻ cho con cái ngay từ lúc nhỏ, tạo cơ

hội thuận lợi cho chúng phát triển đầy đủ cả về thể lực và trí tuệ, nhân cách. Chỉ có phát

triển kinh tế các gia đình mới có điều kiện mua sắm phương tiện sinh hoạt phục vụ đời

sống gia đình, và phương tiện học tập hiện đại cho các em. Và chỉ khi có điều kiện kinh

tế tốt các em mới có cơ hội và điều kiện tốt để yên tâm học tập và rèn luyện bản thân

mình. Vấn đề trước mắt là:

Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường ở các tỉnh nước ta hiện nay chưa bền vững

44

đã làm cho việc thực hiện chức năng của một số gia đình mất cân đối, sự quan tâm đến

các em sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội sống xa nhà bị suy giảm. Chức năng kinh tế

đã cuốn hút khá nhiều công sức của các thành viên, lôi cuốn người già, thế hệ trẻ vào

vòng quay của cơn lốc thị trường miễn sao kiếm được nhiều tiền. Các gia đình do bị

cuốn hút vào làm ăn kinh tế mà sẵn sàng đi làm ăn xa, bỏ con ở nhà với ông bà,... Tất

cả điều đó diễn ra trước mắt con cái đều có ảnh hưởng không tốt tới đạo đức con cái họ.

Vì vậy, phương pháp giáo dục con cái qua nêu gương hay thông qua những hoạt động

của người lớn là một phương pháp quan trọng bởi “người trẻ không nghe người lớn nói

gì nhưng chúng sẽ mở căng mắt xem người lớn làm gì”. Vì vậy, để phát huy tốt vai trò

của gia đình trong việc hình thành nhân cách cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội hiện

nay thì phương pháp giáo dục gia đình đối với trẻ em phải có những thay đổi phù hợp

với nội dung giáo dục của xã hội. Cách giáo dục ép buộc, mệnh lệnh phải thay bằng

cách trao đổi, chia sẻ. Nhất là đối tượng sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội là

những người đến tuổi trưởng thành, có nhận thức nhất định, có nhiệm vụ cao cả là giáo

dục định hướng cho thế hệ trẻ tương lai vì vậy ảnh hưởng của giáo dục gia đình đến đối

tượng này là rất quan trọng. Gia đình hiện đại tôn trọng nhân cách cá nhân, tự trọng, chú

ý tới những nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích của cá nhân. Việc giáo dục nghiêng về sự

định hướng là để các em tự nhìn nhận, phân biệt đúng sai và tự điều chỉnh, nhằm phát

huy tính chủ động và sáng tạo. Không quá nghiêm khắc, khắt khe song cũng không

nuông chiều, dễ dãi quá mức, gây cho các em tâm lý hưởng thụ vật chất, ít quan tâm đến

cha mẹ và người xung quanh. Nhất là cuộc sống chốn đô thành có nhiều thú vui, cám

dỗ càng dễ khiến các em sinh viên sa vào các cuộc vui thâu đêm suốt sáng mà quên đi

mục đích hay lý tưởng cuộc sống của bản thân. Từ đó mà gây ra nhiều hệ lụy nguy hại.

Thứ hai, những hiện tượng tiêu cực xã hội đang có chiều hướng tăng lên, làm xói

mòn đạo đức truyền thống của gia đình, của dân tộc, kích động và lôi kéo giới trẻ vào

vòng tội lỗi và sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội cũng không ngoại lệ. Trong nền

kinh tế thị trường này, đã có nhiều ông bố bà mẹ không gương mẫu, sống bê tha, buông

thả mất nhân cách đạo đức, thiếu coi trọng quan hệ vợ chồng, quan hệ với bề trên, coi

thường đạo lý, kỷ cương xã hội. Trong khi đó, hàng loạt trung tâm tư vấn gia đình ra

đời, sách báo dày đặc những kinh nghiệm về bảo vệ hạnh phúc gia đình, những lời

khuyên của các chuyên gia tâm lý, giáo dục... Vậy nhưng những vụ kiện cáo, ly hôn,

45

bạo lực gia đình vẫn không hề giảm. Hậu quả này không ai khác, chính con cái họ phải

gánh chịu trực tiếp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm sinh lí của thế hệ trẻ, nhất là

những sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội có hoàn cảnh như vậy. Các bậc cha mẹ

muốn làm tròn bổn phận và xứng đáng vai trò là người giáo dục gia đình, thì phải sớm

nhận thức và ngay từ bây giờ phải có hành động tích cực loại bỏ những tình trạng trên

trong đời sống gia đình.

Lối sinh hoạt của một gia đình truyền thống hiện nay đang có xu hướng bị phá

vỡ, Hình ảnh gia đình quây quần bên nhau ngày ba bữa cơm sáng, trưa tối đã dần dần

mất đi nhất là ở những trung tâm như thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh... Với yêu cầu về

một tác phong và lối sống công nghiệp thì thực trạng này cũng là điều khó tránh khỏi.

Song, cho dù thế nào thì chức năng và việc thực hiện chức năng của gia đình vẫn cứ tồn

tại. Để làm tốt chức năng của mình mỗi người, mỗi gia đình cần phải biết cách thích ứng

với hoàn cảnh môi trường mới, phải thay đổi cách nghĩ, cách sống sao cho phù hợp, để

giành lấy hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình, đây là điều cần thiết nhất cho thế hệ trẻ

nói chung và sinh viên Đại học Nội Vụ nói riêng. Đây là mâu thuẫn mang tính chất thời

đại, trong hoàn cảnh quá độ ở nước ta hiện nay thì nó tất yếu sẽ xảy ra. Vì vậy, việc nhận

thức đúng đắn và giải quyết kịp thời mẫu thuẫn này không những giúp xã hội phát triển

bền vững mà còn là nền tảng vững chắc cho việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo

dục đạo đức cho sinh viên đạt hiệu quả tốt nhất.

Vấn đề thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu cần gắn chặt mối quan hệ giữa gia đình-

nhà trường - xã hội với thực tế quan hệ đó đang có xu hướng tách rời.

Trong những năm qua, xã hội ta đã và đang tạo ra sự chuyển biến cơ bản, toàn

diện về giáo dục - đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực cho sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế tri thức. Vì vậy cần phải tiếp tục cuộc cải cách giáo

dục - đào tạo thế hệ trẻ, đặc biệt là đào tạo đội ngũ giáo viên tương lai, đổi mới nội dung,

chương trình, phương thức giáo dục trong đó chú ý kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà

trường với giáo dục gia đình và xã hội nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các

bậc học, trên cơ sở kế thừa các giá trị truyền thống, kết hợp với tiếp thu có chọn lọc

những tinh hoa văn hóa giáo dục nhân loại. Như vậy vấn đề đặt ra cho việc phát huy vai

trò của gia đình đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà

46

Nội chính là vấn đề liên kết chặt chẽ giữa gia đình với nhà trường và xã hội, đây là vấn

đề khó khăn cần được giải quyết mới phát huy được vai trò giáo dục đạo đức của gia

đình đối với sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội. Có như vậy, sự nghiệp giáo dục đạo đức

cho sinh viên Đại học Nội Vụ mới tránh được nguy cơ tụt hậu, lạc hậu, góp phần nâng

cao năng lực hội nhập nhằm góp phần đào tạo những thầy cô giáo có đức có tài phục vụ

cho sự nghiệp giáo dục của nước nhà, xây dựng nền kinh tế tri thức, tạo điều kiện và cơ

hội cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội phát huy tối đa lợi thế và khả năng thích nghi

với sự phát triển của xã hội tri thức. Yêu cầu như vậy nhưng thực tế phát triển chưa đáp

ứng được yêu cầu đó. Sự kết hợp giữa ba môi trường là gia đình – nhà trường và xã hội

ngày càng có xu hướng tách rời. Nhìn nhận được thực trạng trên có tác dụng quan trọng

để đề ra các giải pháp phù hợp.

Không ít người làm cha mẹ vẫn còn xem nhẹ việc giáo dục và dạy dỗ con cái trên

khía cạnh đạo đức mà mới chỉ quan tâm trên lĩnh vực học tập, một số bậc phụ huynh

của các em sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội cũng vậy. Như Nguyễn Du đã từng nói

“Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Một số gia đình của các em sinh viên Đại học Nội

Vụ Hà Nội chỉ biết, cha mẹ và gia đình nuôi cho con ăn học, còn dạy bảo cho con chữ

nghĩa, có nết na, đức hạnh là việc của nhà trường, là trách nhiệm của người thầy. Nhà

trường và các thầy cô giáo dù có tận tâm, tận lực làm tốt tới đâu cũng chưa đủ, chưa

quyết định được hoàn toàn diện mạo đạo đức và nhân cách của các em sinh viên Đại

học Nội Vụ Hà Nội. Giáo dục đạo đức trong trường Đại học Nội Vụ Hà Nội sẽ bị hạn

chế nếu nó không nhận được sự phối hợp, hỗ trợ, sự cộng hưởng về tinh thần và trách

47

nhiệm của giáo dục gia đình các em sinh viên, trước hết của các bậc làm cha mẹ.

48

Tiểu kết chương 2

Chương 2 nhóm tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng vai trò giáo dục nhân

cách của gia đình đối với sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Thực trạng đó được

nhóm nghiên cứu khảo sát, đánh giá ở những nội dung như: Thực trạng phát huy vai trò

của gia đình trong giáo dục đạo đức, văn hóa truyền thống; Thực trạng phát huy vai trò

của gia đình trong giáo dục ý thức chính trị, kỉ luật, ý thức cộng đồng; Thực trạng phát

huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức tự giác học tập, lao động; Thực trạng phát

huy vai trò của gia đình trong giáo dục thể chất và thẩm mỹ; Thực trạng phát huy vai trò

của gia đình trong việc thực hiện các phương pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên.

Qua việc khảo sát và đánh giá thực trạng trên, nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra những

nguyên nhân của thực trạng đó là bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan (Sự phát

triển của nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế và mối

quan hệ giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục nhân cách

cho sinh viên trường Nội vụ Hà Nội) và nguyên nhân chủ quan (trình độ hiểu biết và

năng lực giáo dục của các gia đình; sự tự giáo dục của sinh viên). Từ thực trạng, nguyên

nhân, đề tài cũng chỉ ra những vấn đề trong quá trình phát huy vai trò của ra đình trong

giáo dục nhân cách cho sinh viên trường đại học Nội vụ Hà Nội, để từ đó nêu lên một

số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục

49

nhân cách cho sinh viên Nội vụ hiện nay.

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁT HUY VAI

TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH

VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN NAY

3.1. Phát triển kinh tế, tận dụng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực

của nền kinh tế thị trường đến việc phát huy vai trò của giáo dục nhân cách của

gia đình cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ hiện nay.

Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cá nhân cũng như nhân cách

xã hội, con người chịu sự tác động phức hợp của hệ thống những điều kiện tự nhiên và

xã hội, trong đó tồn tại và phát triển. Hệ thống phức hợp những điều kiện tự nhiên và xã

hội đó chính là môi trường kinh tế - xã hội. C.Mác đã từng nói, trong tính hiện thực của

nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Môi trường kinh tế - xã

hội ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và phát triển kinh tế.

Thực tế hiện nay cho thấy, phát triển nền kinh tế thị trường ở các tỉnh ở nước ta

hiện nay chưa bền vững đã làm cho việc thực hiện chức năng của một số gia đình của

các sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội mất cân đối, sự quan tâm đến giáo dục, sẻ

chia với các em bị suy giảm.

Bố mẹ của một số em sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội tất bật với công

việc, trong cơ chế thị trường thì vấn đề việc làm và thu nhập là vấn đề sống còn của mỗi

gia đình. Do đó, bố mẹ các bạn quá bận rộn với công việc nên không có thời gian để

quan tâm và giáo dục các bạn, điều này sẽ gây những hậu quả nghiêm trọng. Bởi vậy

giải pháp được đặt ra là phát triển nền kinh tế bền vững, chú trọng nền kinh tế tri thức,

phát triển giáo dục. Đảng và Nhà nước cần có chính sách, tuyên truyền rộng về vai trò

quan trọng của giáo dục nói chung và giáo dục nhân cách đạo đức nói riêng để các phụ

huynh của các bạn sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội nhận thức được vai trò quan

trọng của gia đình đối với việc giáo dục nhân cách cho các bạn, từ đó biết cân đối giữa

việc phát triển kinh tế để tạo điều kiện cho các bạn sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội

học tập rèn luyện, mặt khác luôn quan tâm chia sẻ và giáo dục đạo đức, ứng xử, kỹ năng

50

sống cho các bạn.

Như vậy nếu giải pháp này được thực thi thành công thì vai trò của gia đình đối

với việc hình thành nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội sẽ được

phát huy hơn nữa.

Đời sống khó khăn, nghèo khó của một số hộ gia đình của các bạn sinh viên Đại

học Nội Vụ Hà Nội ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn hoặc là những

gia đình nghèo ở thành thị dẫn đến không đủ điều kiện để các em yên tâm ăn học. Mặt

khác, do nhận thức và trình độ hiểu biết về giáo dục của một số gia đình còn hạn chế

nên không đầu tư, quan tâm đến giáo dục cho các bạn, chủ yếu trong chờ vào xã hội.

Điều này cần có biện pháp để khắc phục. Đảng và Nhà nước, toàn xã hội cần chú trọng

phát triển kinh tế đồng đều các vùng miền, giảm chênh lệch giàu nghèo và có những

chính sách hỗ trợ, tuyên truyền, tạo điều kiện cho các gia đình của các bạn sinh viên

trường Đại học Nội Vụ Hà Nội khó khăn hoặc vùng sâu vùng xa. Những biện pháp như

vậy sẽ giúp gia đình các bạn nhận thức được việc quan trọng của giáo dục, hạn chế được

sự thiếu quan tâm của gia đình các em đối với việc tạo điều kiện và giáo dục nhân cách

cho các bạn sinh viên

Bởi vậy nếu giải pháp này được thực thi và thành công thì vai trò của giáo dục

nhân cách của gia đình đối với sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội sẽ được phát

huy hơn nữa.

3.2. Nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh

viên, gắn liền với nâng cao trình độ hiểu biết, cải tiến nội dung, phương pháp giáo

dục con cái của các bậc cha mẹ cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ hiện nay.

Gia đình là trường học đầu tiên và suốt đời của mỗi người, là tổ ấm nuôi dưỡng

chăm sóc, giáo dục và trưởng thành. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên của mỗi

người. Do đó, gia đình là nền tảng, là cơ sở để hình thành nên nhân cách của mỗi người.

Từ thực trạng giáo dục nhân cách trong trường Đại học Nội Vụ hiện nay cho thấy,

một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng không tốt đến phát huy giáo dục của gia

đình là do trình độ văn hóa, năng lực của một bộ phận cha mẹ của các bạn sinh viên

trường Đại học Nội Vụ Hà Nội (chủ thể giáo dục), không đáp ứng được việc truyền thụ

và giáo dục con cái, ý thức trách nhiệm cũng như nội dung, phương pháp giáo dục còn

51

nhiều hạn chế và bất cập. Một số cha mẹ cho rằng “cha mẹ sinh con trời sinh tính” hay

là gia đình chỉ có trách nhiệm sinh con, còn dạy dỗ, giáo dục là trách nhiệm của nhà

trường, đoàn đội và xã hội. Rồi một số cha mẹ chưa phải là tấm gương sáng về đạo đức,

lối sống để con cái noi theo. Chính vì thế, để phát huy vai trò của gia đình, của cha mẹ

trong sự nghiệp giáo dục, trước hết phải nhìn nhận đúng đắn, đầy đủ vị trí, vai trò của

gia đình trong giáo dục con cái. Bởi vậy, việc nâng cao trình độ hiểu biết, cải tiến nội

dung phương pháp giáo dục trong gia đình các bạn sinh viên là giải pháp có ý nghĩa

quyết định đến thành công của việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân

cách cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội. Để thực hiện có hiệu quả giải pháp

này, các gia đình cần thực hiện các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất: Cha mẹ phải là người có kiến thức. Kiến thức ở đây có thể từ kinh

nghiệm, có thể từ học tập trong sách vở và trong cuộc sống. Tuy nhiên, dù kiến thức nào

thì cha mẹ cũng cần phải biết lựa chọn những vấn đề cho phù hợp với yêu cầu của xã

hội, phù hợp hoàn cảnh và tâm lý lứa tuổi, phù hợp với đặc điểm của từng đứa trẻ. Đây

là vấn đề khó khăn đối với tất cả các bậc cha mẹ, bởi xã hội phát triển nhanh, lượng kiến

thức vô cùng lớn, sinh viên tiếp cận rất nhanh cả điều hay lẽ phải và cả những thói hư

tật xấu trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Đòi hỏi mỗi cha mẹ phải nắm bắt được

nhu cầu tâm lý của con mình; có phương pháp giáo dục phù hợp với từng đứa trẻ ở từng

giao đoạn, không được áp dụng cùng một phương pháp cho các giai đoạn khác nhau.

Mục tiêu và hi vọng mỗi gia đình đặt ra phải hợp lý. Mặt khác cần thường xuyên cổ vũ

và khen ngợi khi các bạn làm việc tốt.

Không làm tổn thương lòng tự trọng của trẻ. Để làm được điều đó, trường Đại

học Nội Vụ Hà Nội phối hợp với các tỉnh thành cần có chính sách giáo dục, chú ý đến

chương trình học tập cho các bậc phụ huynh nói chung và phụ huynh của các bạn sinh

viên trường Đại học Nội Vụ nói riêng. Chỉ có nâng cao học vấn, kiến thức và năng lực

giáo dục mới là giải pháp cơ bản và quan trọng để nâng cao vai trò giáo dục gia đình đối

với các bạn sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội, nhất là cha mẹ ở nông thôn, đồng

bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa… để cha mẹ phụ huynh vừa là “cha mẹ” vừa là

“thầy cô giáo” của các bạn sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội.

Thứ hai: các bậc cha mẹ hàng ngày cần phải thông qua sách báo, các phương tiện

52

thông tin đại chúng để nâng cao trình độ hiểu biết cho bản thân về lĩnh vực giáo dục.

Cần có những phương pháo giáo dục linh hoạt, phù hợp với từng nội dung giáo dục và

đặc điểm của mỗi đứa con, từng giai đoạn phát triển của các bạn sinh viên.

Thứ ba: bản thân cha mẹ phải là tấm gương tốt cho các con học tập. Sẽ không có

những con người có nhân cách tốt nếu như “nhà kia nối phép con khinh bố, mụ nọ chanh

chua, vợ chửi chồng”. Cách hành xử của cha mẹ với nhau, cách ứng xử của cha mẹ với

ông bà, họ hàng anh em, với những người xung quanh hàng xóm có ảnh hưởng rất lớn

đến sự hình thành nhân cách của mỗi đứa trẻ trong gia đình.

Mỗi người con phải chứng kiến cách ứng xử “vô văn hóa” “vô đạo đức” của cha

mẹ thì tất yếu nó cũng bị ảnh hưởng bởi cách ứng xử giống cha mẹ. Song ngược lại cha

mẹ là gương sáng, mẫu mực thì con cái sẽ là người có nhân cách tốt (trừ 1 số đứa trẻ …

và tự giáo dục không tốt).

Như chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy, một tấm gương sáng sẽ có giá trị hơn hàng

trăm bài diễn thuyết, cho nên hiện nay, để giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại

học Nội Vụ Hà Nội có hiệu quả, bên cạnh những hình thức trên thì phải nhanh chóng,

kịp thời biểu dương, ca ngợi, khen thưởng một cách xứng đáng những tấm gương đạo

đức xuất hiện trong đời sống thực tiễn của xã hội. Đó là những tấm gương nghèo vượt

khó, những sinh viên có ý chí cần cù, bền bỉ vượt lên trên mọi hoàn cảnh, số phận để

đạt được những thành tích cao trong học tập và lao động. Những tấm lòng thương yêu

tha thiết con người, những hành động thực sự cao thượng, dũng cảm, chất chứa tinh thần

nhân văn cao cả cần được phát huy và nhân rộng trên phạm vi toàn xã hội, đặc biệt chính

cha mẹ các bạn tích cực hành động gương mẫu, làm gương cho các em noi theo. Làm

được như vậy thì vai trò giáo dục nhân cách của gia đình các bạn mới phát huy được

hiệu quả cao hơn.

Để làm tốt công việc này, các bậc phụ huynh, thầy giáo, cô giáo và các chủ thể

tham gia giáo dục nhân cách đạo đức cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội phải

có lối sống trong sáng, tận tụy với công việc, phải có sự hiểu biết rộng, bằng sự công

minh, xử lý có tình, có lý đối với các bạn. Có như vậy, mới có tác dụng cảm hóa, hình

thành nhân cách tốt cho họ.

Hiện nay, cùng với cả nước, trường Đại học Nội Vụ Hà Nội cũng đang đẩy mạnh

53

cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”, đây là đợt sinh hoạt

rộng lớn nhằm hướng sinh viên vào những chuẩn mực tốt đẹp. Luôn học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Thứ tư: gia đình phải được xây dựng trên cơ sở bình đẳng, tiến bộ, cha mẹ phải

bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Bình đẳng ở đây thể hiện là mọi thành viên trong gia đình

đều có quyền nói lên tiếng nói của mình. Mọi tâm tư nguyện vọng của các thành viên

trong gia đình đều được lắng nghe, chia sẻ, những nguyện vọng nào chính đáng phải

được đáp ứng cho phù hợp. Muốn có được điều này thì các thành viên trong gia đình

phải thật sự tôn trọng nhau, đặc biệt là không có sự bất bình đẳng giới, trẻ em trai và gái

phải có quyền và nghĩa vụ như nhau, được thụ hưởng mọi giá trị như nhau, cùng nhau

được học hành. Những người cha, người mẹ trong gia đình cũng phải được tôn trọng

như nhau, lắng nghe và chia sẻ với nhau mọi công việc trong cuộc sống.

Thứ năm, các bậc phụ huynh của các bạn sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà

Nội cũng cần tích cực tìm hiểu chính sách pháp luật và giáo dục pháp luật cho các bạn

một cách tích cực để các bạn trở thành những người công dân tốt, những người cán bộ

tương lai gương mẫu.

Tóm lại, gia đình có vai trò to lớn trong việc giáo dục nhân cách cho con người,

xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là cơ sở để xây dựng xã hội tốt đẹp.

3.3. Kết hợp nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác giáo dục nhân cách

cho sinh viên.

Sự phối hợp giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục

là một trong những vấn đề quan trọng được nền giáo dục Việt Nam đề cập và coi đây là

một trong những “nguyên lý” giáo dục cần được thực hiện một cách hiệu quả để góp

phần tạo nên những thế hệ sinh viên phát triển nhân cách toàn diện. Điều 3 – Luật giáo

dục Việt Nam (2005) quy định: “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên

lý học đi đôi với hành, giáo dục gắn kết với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực

tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Trong bức thư

gửi giáo viên và học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng ngày 31/10/1955, Bác viết: “tôi

cũng mong các gia đình liên tục chặt chẽ với nhà trường, giúp đỡ nhà trường giáo dục,

khuyến khích các em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân

54

nhân”. Việc phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội đối với việc giáo dục sinh viên

đã trở thành nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục Việt Nam và trường Đại học Nội Vụ

Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên có lúc chất lượng của sự kết hợp này chưa cao, thiếu đồng

bộ, chưa phát huy được hết vai trò. Cha mẹ như phó mặc việc dạy dỗ cho nhà trường,

chỉ quan tâm đến đời sống vật chất cho con cái. Các tổ chức xã hội dù có nhiều phong

trào hoạt động nhưng còn nghèo nàn, chưa thu hút đông đảo các bạn sinh viên tham gia.

Hiện nay, cũng không ít những sinh viên vừa đi học vừa đi làm thêm để kiếm tiền sinh

sống, họ làm đủ mọi việc, thậm chí có những “nghề” bị pháp luật nghiêm cấm. Trong

khi đó, có một số sinh viên có lối sống, hoài bão, tư duy lệch lạc, một số sinh viên có

điều kiện kinh tế lại đua đòi, muốn được thể hiện mình trước cuộc sống, nhiều khi trở

nên mạo hiểm. Bên cạnh đó thì cũng còn một số sinh viên coi nhẹ giáo dục đạo đức,

thẩm mỹ và các môn học lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. Điều này thực

sự là một trở ngại lớn trong công tác quản lý sinh viên cũng như giáo dục nhân cách đạo

đức cho đối tượng này. Bởi vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự kết hợp giữa

gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục đạo đức nhân cách cho các bạn

sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội trước hết cần giải quyết tốt một số nội dung

sau đây:

Thứ nhất: trong giáo dục đạo đức, nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội

Vụ Hà Nội giữa gia đình và nhà trường phải có sự thống nhất về quan điểm, nội dung

và phương pháp, tránh tình trạng phân tán, biệt lập. Về phía gia đình phải có những hiểu

biết nhất định về các yêu cầu của nhà trường trong việc giáo dục đạo đức nhân cách cho

sinh viên, và phải thường xuyên quan tâm đến công tác này. Trên thực tế, có một số gia

đình do thiếu thông tin hoặc do hiểu biết không đầy đủ về nội dung và phương pháp giáo

dục đạo đức ở trường nên đã cản trở con em tham gia một số phong trào hoạt động có

tính chất thực hành chính trị - xã hội do Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức. Bởi

vậy, gia đình cần phải thường xuyên liên lạc chặt chẽ với nhà trường, đoàn thể để nắm

bắt được mục đích giáo dục, sự phối hợp chặt chẽ.

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội chỉ đạo tích cực việc tổ chức gửi kết quả học tập

và rèn luyện của sinh viên định kỳ về cho gia đình, rồi thành lập ban liên lạc phụ huynh.

Ngoài ra cần phải có sự liên hệ ngay và kịp thời với phụ huynh sinh viên đó để thông

báo và tìm hướng giải quyết chung. Gia đình cần xây dựng truyền thống “tôn sư trọng

55

đạo”, bảo vệ uy tín thầy cô, tránh hành vi coi thường thầy cô giáo trước mặt con cái.

Một trong những vấn đề nảy sinh hiện nay là sự “xung đột” “khác biệt” giữa các

thế hệ trong quan niệm về một số giá trị đạo đức nhân văn. Trong khi đất nước có những

biến đổi hết sức cơ bản về kinh tế - xã hội, thang giá trị đạo đức đang có sự chuyển dịch,

tác động trực tiếp đến đời sống đạo đức của sinh viên, làm cho định hướng giá trị đạo

đức của nhóm này đang có những biến đổi phức tạp, thì nhiều phụ huynh vẫn muốn cho

con mình sống theo khuôn thước, mẫu mực của các thế hệ ông bà cha mẹ, muốn cho

con cái sống như mình ngày trước: từ việc chọn ngành, chọn nghề, đến chọn bạn đời

của đứa trẻ; từ quan niệm về làm giàu đến lý tưởng, niềm tin và vấn đề dân chủ.

Để khắc phục tình trạng này, gia đình cần chủ động trong việc tìm hiểu nội dung,

hình thức giáo dục đạo đức nhân cách của nhà trường, tạo nên sự liên hệ hai chiều giữa

gia đình và nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, tránh tình trạng

“lệch pha” trong giáo dục đạo đức. Đặc biệt là tăng cường sự hoạt động và có sự phối

hợp giữa Hội cha mẹ học sinh và nhà trường, đặc biệt với giảng viên cố vấn học tập

nhằm nắm bắt kịp thời những thông tin về học tập, rèn luyện của học sinh, đồng thời

duy trì thông báo gia đình và nhà trường, chú ý phương pháp phản ánh để mang lại hiệu

quả giáo dục cao.

Thứ hai, nêu cao tinh thần trách nhiệm của nhà trường, gia đình và xã hội trong

việc kết hợp giáo dục đạo đức và nhân cách cho sinh viên. Nhà trường với tư cách tổ

chức giáo dục chuyên nghiệp, giữ vị trí trọng tâm trong phát triển tài năng, rèn luyện ý

chí, trau dồi đạo đức, xây dựng lối sống mới cho sinh viên thì cần phải chủ động liên hệ

phối hợp với gia đình sinh viên và các cơ quan, chính quyền địa phương nơi trường đóng

và có sinh viên ngoại trú để giáo dục đạo đức cho sinh viên, trước hết phải thực hiện

nghiêm túc chỉ thị số 92-CT/TW ngày 24-3-2015 của ban chấp hành trung ương về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng đạo đức, lối

sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030.

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội cần thành lập thêm “tổ công tác sinh viên ngoại

trú” như là khâu trung gian giữa nhà trường với chính quyền, khu dân cư có sinh viên

ngoại trú, tổ này sẽ giúp cho nhà trường nắm bắt được tình hình học tập, sinh hoạt của

56

sinh viên ngoài giờ lên lớp.

Các tổ chức đoàn thể trong trường Đại học Nội Vụ Hà Nội, trước hết là Đoàn

TNCS HCM, Hội sinh viên trường, công đoàn và các tổ chức khác cùng tham gia công

tác giáo dục đạo đức, lối sống, phát huy năng lực tư duy, trí tuệ, kỹ năng và thái độ nghề

nghiệp cho sinh viên, thông qua các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao và công tác xã

hội, mở các lớp tuyên truyền pháp luật, truyền thông dân số, sức khỏe, môi trường, thăm

hỏi và tặng quà cho gia đình thương binh, liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Rồi các

phong trào “Về nguồn”, các cuộc thi tìm hiểu về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, hiến

máu tình nguyện, góp đá xây dựng Trường Sa … v.v. Những hình thức hoạt động này

góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống

tốt đẹp cho sinh viên.

Ngoài ra, nhà trường cần phối hợp với chính quyền địa phương, với cộng đồng,

cụm dân cư trong công tác quản lý sinh viên, thực hiện chế độ đăng ký tạm trú tạm vắng

đúng quy định và kịp thời thông báo cho nhà trường những sinh viên có biểu hiện tiêu

cực trong học tập cũng như trong lối sống để có biện pháp giúp đỡ sinh viên.

Bên cạnh đó, xây dựng ban liên lạc qua các mạng xã hội như facebook, zalo …

để phụ huynh có thể nắm được tình hình học tập của con em mình kịp thời, tạo điều kiện

cho phụ huynh có mối liên kết gần gũi với nhà trường để kịp thời nêu ý kiến đóng góp.

Đoàn thanh niên là cố vấn học tập, làm cầu nối trung gian giữa gia đình với nhà trường

nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sự phối hợp để phát huy vai trò của gia đình trong việc

giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ. Qua phần khảo sát cho thấy

mối liên kết giữa giáo viên chủ nhiệm hay cố vấn học tập còn lỏng lẻo. Để tiết kiệm thời

gian mà vẫn có sự quản lý tốt các bạn sinh viên thì mỗi giáo viên có thể lập nhóm (group

của mình trên mạng xã hội facebook hay zalo) để trao đổi thông tin với gia đình. Người

giảng viên chủ nhiệm hay cố vấn học tập không nhất thiết phải gặp gỡ trực tiếp với phụ

huynh hay học sinh nhưng vẫn hoàn toàn trao đổi được thông tin quan trọng và cần thiết,

kịp thời uốn nắn các hành vi và thái độ của các bạn sinh viên, đi đúng hướng trong cuộc

57

sống nhiều bất trắc hiện nay.

3.4. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học

tập và rèn luyện nhân cách

Giáo dục là một quá trình hai mặt, một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối

tượng giáo dục, mặt khác thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi bản

thân mình, tự nâng mình lên qua giáo dục. Với quan niệm đó, tự giáo dục là yếu tố cơ

bản của quá trình giáo dục. Tuy là bước tiếp theo, là mặt thứ hai của quá trình giáo dục,

nhưng tự giáo dục dường như có ý nghĩa quyết định đến kết quả của sự nghiệp giáo dục.

Có thể nói, không thể có một nhân cách phát triển mà ở đó yếu tố tự giáo dục lại bị xem

nhẹ hay lu mờ.

Giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội thông qua hình

thức tự giáo dục. Mọi tác động của giáo dục đạo đức, nhân cách cho sinh viên chỉ thực

sự có tác dụng khi những tác động này được bản thân sinh viên tự tiếp nhận, tự hoàn

thiện, tự biến đổi, tự thích nghi với môi trường sống và điều kiện sống, là khả năng biết

kiềm chế, tự khuôn mình vào những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức xã hội để vươn tới

mức nhân cách người chuyên gia trong tương lai.

Tự giáo dục là một quá trình tự thân vận động, một sự hướng nội, là sự chiến

thắng bản thân mình, nên đòi hỏi mỗi sinh viên phải có ý chí, nghị lực và quyết tâm cao,

phát huy cao độ tính tích cực chủ động, sáng tạo và tự giác trong việc rèn đức luyện tài.

Tự giáo dục đòi hỏi mỗi sinh viên phải có thái độ khách quan, nghiêm túc với bản

thân trong việc đánh giá, nhận xét về mọi hành vi của mình và chịu trách nhiệm trước

mọi kết quả của hành vi đó. Mỗi sinh viên cần phải luôn thẩm định, điều chỉnh những

giá trị đạo đức, giá trị nhân cách của mình trước chuẩn mực đạo đức xã hội. Có thể

khẳng định, tự giáo dục, rèn luyện đạo đức không phải là công việc dễ dàng và đơn giản,

như chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta về tinh thần tự rèn luyện:

“Gạo đem vào giã bao đau đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông

Sống ở trên đời người cũng vậy

Gian nan rèn luyện ắt thành công”

58

(Hồ Chí Minh)

Nhân cách không phải là cái có sẵn, mà phải được củng cố phát triển chủ yếu do

sự đấu tranh, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, cũng giống như “ngọc càng mài càng sáng,

vàng càng luyện càng trong”. Tính tự giác, tự chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện

nhân cách của thanh niên là con đường tất yếu đối với sự phát triển, hoàn thiện nhân

cách cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội hiện nay.

Để nâng cao vai trò và hiệu quả của quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện của mình,

đòi hỏi sinh viên phải tham gia các hình thức hoạt động ở các câu lạc bộ nhà văn hóa.

Tích cực hưởng ứng các phong trào, các cuộc vận động, các chương trình, trong đó có

phong trào thu hút sinh viên tham gia các hình thức hoạt động ở các câu lạc bộ nhà văn

hóa. Tích cực hưởng ứng các phong trào, các cuộc vận động, các chương trình, trong đó

có phong trào đang thu hút sinh viên tham gia “Học tập vì ngày mai lập nghiệp, vì dân

giàu nước mạnh, xã hội văn minh”. Và chương trình “Người sinh viên – nhà tri thức –

chuyên gia tương lai”. Qua các hình thức hoạt động này, những phẩm chất đạo đức,

những giá trị nhân cách từng bước được bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Đồng thời là

môi trường xã hội để sinh viên tự thể nghiệm mình, tự khẳng định mình trong cuộc sống

và cũng là dịp để xã hội nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vai trò của sinh viên, lớp người

thông minh, sáng tạo, năng động, chịu khó, ham học hỏi, luôn có xu hướng vươn lên

phía trước, hướng về tương lai, với những hoài bão lớn lao và bao ước mơ tốt đẹp.

Về phía nhà trường để giảng viên và sinh viên có thể đạt kết quả tốt trong quá

trình giảng dạy, học tập, nhà trường cần có sự đầu tư đầy đủ về cơ sở vật chất để phục

vụ giảng dạy. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống giảng đường đảm bảo có đầy đủ các phương

tiện phục vụ giảng dạy như loa, mic, máy chiếu có kết nối Internet. Hoàn thiện hệ thống

thư viện đảm bảo có đầy đủ các sách và tài liệu giảng dạy, học tập và phục vụ cho vở

nghiên cứu.

Nhà trường cần tạo điều kiện và hỗ trợ để sinh viên nghiên cứu tham gia nghiên

cứu thực tế gắn với các địa danh, di tích lịch sử như: tham quan các di tích lịch sử kháng

chiến, các địa danh gắn với lịch sử hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc; Tham

gia nghiên cứu ở các cơ sở sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

59

ngoài hay các công ty liên doanh để có cách nhìn đầy đủ hơn về thực tế xã hội như Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: một tấm gương sống có giá trị hơn trăm bài diễn thuyết

tuyên truyền.

Cho phép khoa tiếp tục được tổ chức tổ chức Hội thi Olympic các môn triết học

và tư tưởng Hồ Chí Minh trong phạm vi nhà trường có thể kết hợp với một số trường

đại học và cao đẳng trên địa bàn, qua đó, tạo ra một sân chơi lành mạnh, khoa học và bổ

ích góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của đạo đức.

Nhận thức là một quá trình, nhưng trong quá trình đó đòi hỏi phải có những định

hướng, chỉ dẫn thì những nhận thức lệch lạc, chưa đầy đủ về một vấn đề nào đó sẽ không

còn, khi đó việc gắn nó với thực tiễn sẽ khoa học và chính xác hơn. Với những định

hướng giải pháp trên, tác giả mong muốn được góp sức mình vào quá trình nâng cao

60

nhận thức cho sinh viên, những cán bộ tương lai của đất nước.

Tiểu kết chương 3

Trước thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra như vậy, trong chương 3

nhóm tác giả đề tài đã đề xuất những giải pháp về phát triển kinh tế, nâng cao nhận thức

cho các gia đình, thực hiện sự kết hợp hài hòa giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong

việc giáo dục nhân cách cho sinh viên đồng thời phát huy tính tích cực, tự giác rèn luyện,

tự giáo dục của sinh viên nhằm đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất, góp phần xây dựng,

phát triển toàn diện sinh viên đáp ứng yêu cầu đặt ra của đất nước trong bối cảnh toàn

61

cầu hóa và hội nhập quốc tế.

KẾT LUẬN

Trong giáo dục nhân cách, gia đình là một bộ phận của hệ thống giáo dục xã hội

nhưng là thiết chế giáo dục quan trọng nhất, không thể thay thế. Giáo dục của gia đình

được thực hiện ở mọi chu kì của đời người từ khi thơ ấu đến tuổi thanh niên, trung niên

và tuổi già. Do đó, khi ở giai đoạn sinh viên – giai đoạn của quá trình hoàn thiện nhân

cách và khẳng định bản thân rất cần sự quan tâm, giáo dục của gia đình để định hướng

sự phát triển cả về tài và đức, phẩm chất và năng lực, góp phần tạo dựng, bồi dưỡng

nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (nơi cung cấp cho các cơ quan của Đảng, Nhà

nước những lực lượng cán bộ, công chức, viên chức tương lai) nên cũng rất quan tâm

đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên, tuy nhiên để tạo điều kiện cho sự phát triển

toàn diện ở sinh viên, ngoài sự quan tâm, giáo dục từ phía nhà trường thì việc các gia

đình quan tâm sâu sát đến giáo dục nhân cách cho con em mình là có vai trò vô cùng

quan trọng, góp phần hoàn thiện nhân cách cho sinh viên Nội vụ.

Qua việc khảo sát của nhóm nghiên cứu đối với sinh viên của trường Nội vụ về

việc giáo dục nhân cách của gia đình đối với các sinh viên cho thấy, các gia đình đã có

sự giáo dục nhân cách cho sinh viên ở những nội dung: Giáo dục đạo đức, văn hóa truyền

thống; Giáo dục lý tưởng, ý thức chính trị, kỷ luật; Giáo dục ý thức tự giác học tập, lao

động; Giáo dục thể chất; Giáo dục thẩm mỹ. Sự giáo dục nhân cách được thực hiện qua

các phương pháp sau: Nêu gương thông qua hành vi của cha mẹ, ông bà; Thuyết phục,

khuyên bảo; Rèn luyện thói quen hàng ngày; Hình thức khen thưởng, kỷ luật, trừng phạt.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều gia đình còn lơ là, không quan tâm đến giáo dục

nhân cách cho con em mình, họ giao phó trách nhiệm đó cho nhà trường, hoặc có những

gia đình có sự giáo dục nhân cách đối với con em mình nhưng sử dụng phương pháp

giáo dục sai lệch, thiếu khoa học và không phù hợp như: bạo lực, độc đoán, lạnh lùng,

thiếu sâu sát, thiếu quan tâm hoặc hành vi của cha mẹ lệch chuẩn nên hiệu quả giáo dục

chưa cao, thậm chí phản tác dụng…

Nguyên nhân của thực trạng bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan như:

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế;

62

Mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục nhân

cách cho sinh viên trường Nội vụ Hà Nội và nguyên nhân chủ quan như: Trình độ hiểu

biết và năng lực giáo dục của các gia đình và việc tự giáo dục của sinh viên. Từ đó, đề

tài đã chỉ ra những vấn đề trong quá trình phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục

nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội đó là: Vấn đề thứ nhất, chưa có

sự thống nhất trong thực hiện chức năng phát triển kinh tế với chức năng giáo dục trong

gia đình; Vấn đề thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu cần gắn chặt mối quan hệ giữa gia

đình – nhà trường - xã hội với thực tế quan hệ đó đang có xu hướng tách rời. Trước thực

trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra như vậy, đề tài đã đề xuất những giải pháp

về phát triển kinh tế, nâng cao nhận thức cho các gia đình, thực hiện sự kết hợp hài hòa

giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên đồng

thời phát huy tính tích cực, tự giác rèn luyện, tự giáo dục của sinh viên nhằm đạt được

hiệu quả giáo dục cao nhất, góp phần xây dựng, phát triển toàn diện sinh viên đáp ứng

yêu cầu đặt ra của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

63

.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt (2013), Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong

điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

2. Ban Bí Thư trung ương Đảng ( 2005), Chỉ thị của Ban bí thư về xây dựng gia đình

thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, số 49- CT/ TVV

3. Bùi Công Bình (2013), “Giáo dục và vấn đề Giáo dục gia đình”, Tạp chí dạy học

và học ngày nay, số 12.

4. Phan Văn Bình (2012), “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay”,

Tạp chí giáo dục, số 295.

5. Nguyễn Ngọc Bích (2001), Tâm lý học nhân cách, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tài liệu phục

vụ tập huấn giảng dạy tháng 8/2019, dành cho bậc đại học- không chuyên lý luận

chính trị.

7. C.Mác và Ph.Ănghen (1995), C.Mác và Ph.Ănghen Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên, 2003), Mấy vấn đề đạo

đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

9. Phạm Văn Chung (2012), Tập bài giảng đạo đức học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

10. Phạm Khắc Chương (1993), Giải pháp tình huống trong giáo dục gia đình, Nhà xuất

bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

11. Vũ Trọng Dung (2008), Giáo trình đạo đức học Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời đại quá

độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,

64

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2003), Tổng quan tình hình thanh niên,

Công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi 1997 - 2002, Nhà xuất bản Thanh niên.

20. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Tổng quan tình hình thanh niên,

Công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi 2002 - 2007, Nhà xuất bản Thanh niên.

21. Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo ( 2007), Văn hoá đạo đức ở nước ta hiện nay – vấn đề

và giải pháp, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội.

22. Nguyễn Thị Hiền (2012), “Ảnh hưởng của gia đình trong giáo dục giá trị cho thanh

thiếu niên”, tạp chí Giáo dục, số 286.

23. Lý Thanh Hiền (2013), “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Nông

nghiệp Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, ĐHSP Hà

Nội.

24. Nguyễn Thị Hoa (2013), “Vai trò của giáo dục trong gia đình trong việc xây dựng

con người mới thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, luận văn

Thạc sĩ Triết học, ĐHSP Hà Nội.

25. Đặng Cảnh Khanh (2003), Vai trò của gia đình trong giáo dục truyền thống cho trẻ

em, Nhà xuất bản Lao động Xã hội - Hà Nội.

26. Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1993), Các dạng đạo đức xã hội, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

27. Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ (1994), Gia đình và vấn đề

giáo dục gia đình, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

28. Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo

65

dục đạo đức cho sinh viên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Vũ Trọng Lâm (2020), Luật hôn nhân gia đình, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-

Sự thật, Hà Nội.

30. Phan Ngọc Liên (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nhà xuất bản Từ điển

Bách Khoa.

31. Mai Xuân Lợi (2001), “Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã

hội”, Tạp chí Triết học, số 3.

32. Phạm Thị Nhung (2015), Giáo dục đạo đức trong gia đình thời ký hội nhập quốc tế

ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học triết học, trường Đại học Khoa học

xã hội và Nhân văn.

33. Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị Quốc

Gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Văn Phúc (1996), Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân

cách trong cơ chế thị trường”, Tạp chí Triết học, số 93.

35. Trần Sỹ Phán (2016), Giáo dục đạo đức với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt

Nam hiện nay, Nhà xuất bản lý luận chính trị Hà Nội.

36. Nguyễn Văn Phúc (1999), “Về một số giải pháp xây dựng nhân cách đạo đức hiện

nay”, Tạp chí Triết học, số 110.

37. Lê Thị Quý (2011), Xã hội học gia đình, Nhà xuất bản Chính trị Hành chính, Hà Nội.

38. Lê Thi ( 2002), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt

Nam, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.

39. Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ (2008), Giáo trình đạo đức học, Nhà xuất bản Đại

học Sư phạm, Hà Nội.

40. Nguyễn Thị Thọ (2012), “Vai trò của đạo đức trong các trường đại học ở Việt Nam

hiện nay”, Tạp chí giáo dục, số 295.

41. Thái Duy Tiên (1995), “ Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam

trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, số 5.

42. Thái Duy Tiên, Bùi Văn Dũng (2014), “Một vài suy nghĩ về giáo dục gia đình hiện

nay”, Tạp chí khoa học giáo dục, số 100.

43. Trần Mạnh Tường (2012), Từ điển tiếng việt, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin.

44. Nguyễn Thị Mỹ Trang (2006), “Xây dựng lối sống văn hoá cho thanh niên hiện

66

nay”, Tạp chí Cộng Sản, số 6.

45. Từ điển Tiếng Việt (1998), Nhà xuất bản Đà Nẵng.

46. Nghiêm Đình Vì (2002), “Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài”, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Vũ Thiện Vương (2001), “Triết học Mác – Lênin về con người và việc xây dựng con

người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

48. Xéc- maij - cơ F.I ( 1991), 142 tình huống giáo dục gia đình, Nhà xuất bản Giáo dục

Hà Nội.

49. Trần Thị Kim Xuyến (2001), “Gia đình và những vấn đề gia đình hiện đại”, Nhà

xuất bản Thống kê.

50. Nguyễn Xuân Yêm ( 2004), “Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội, trách nhiệm

67

của gia đình, nhà trường và xã hội”, Nhà xuất bản Công an Nhân dân.

PHỤ LỤC

PHIẾU ĐIỀU TRA

Thân gửi các bạn sinh viên!

Để phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên

trường Đại học Nội vụ hiện nay, chúng tôi tiến hành thu thập ý kiến của các bạn,

rất mong các bạn đóng góp ý kiến. Những thông tin của các bạn được bảo mật và

chỉ phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu khoa học. Các bạn đồng ý với phương án nào

thì đánh dấu [X] vào ô trống, nếu không đồng ý thì bỏ trống.

Trân trọng ý kiến xây dựng và cám ơn sự hợp tác của các bạn!

I. Các bạn vui lòng cho biết một số thông tin về cá nhân

- Giới tính: Nam Nữ

- Đang học năm thứ: Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4

- Ngành học:

II. Một số thông tin khảo sát:

Câu 1: Bạn hãy cho biết, từ khi là sinh viên bạn sống cùng gia đình hay xa gia đình?

Cùng gia đình Xa gia đình

Câu 2: Bạn hãy cho biết, gia đình có vai trò như thế nào đến việc giáo dục

nhân cách cho sinh viên ?

Quan trọng Rất quan trọng Không quan trọng

Câu 3: Bạn hãy cho biết, bạn nhận được sự giáo dục từ gia đình ở những nội

dung nào sau đây?

Giáo dục đạo đức, văn hóa truyền thống

Giáo dục ý thức tự giác học tập, lao động

Giáo dục ý thức chính trị, kỷ luật, ý thức cộng đồng

Giáo dục thể chất

68

Giáo dục thẩm mỹ

Câu 4: Bạn hãy cho biết bạn nhận được sự giáo dục nhân cách từ gia đình vào

thời điểm nào sau đây?

Từ nhỏ đến giờ Từ nhỏ đến hết cấp 3

Câu 5: Bạn hãy cho biết gia đình bạn đã thực hiện những phương pháp giáo

dục nào sau đây?

Nêu gương thông qua hành vi của cha mẹ, ông bà

Thuyết phục, khuyên bảo

Rèn luyện thói quen

Hình thức khen thưởng, kỷ luật, trừng phạt

Câu 6: Bạn hãy cho biết sự cần thiết của việc kết hợp giữa gia đình với nhà

trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên?

Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết

Câu 7: Bạn hãy cho biết, khi là sinh viên, bạn có thường xuyên liên lạc với gia

đình không?

Thường xuyên Không thường xuyên

Câu 8: Bạn hãy cho biết, gia đình bạn có khuyến kh ích và tạo điều kiện cho

bạn tham gia các hoạt động cộng đồng không?

Có Không

Câu 9: Bạn hãy cho biết, gia đình bạn có khuyến khích và tạo điều kiện cho

bạn học thêm ngoại ngữ và tin học không?

Có Không

Câu 10: Bạn hãy cho biết, khi là sinh viên, bạn có được gia đình khuyến khích

và tạo điều kiện cho tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao không?

Có Không

Câu 11: Bạn hãy cho biết, bạn đã tìm được phương pháp học tập khoa học

69

thích hợp cho bản thân chưa?

Đã tìm được Chưa tìm được

Câu 12: Bạn hãy cho biết, bạn thích phương pháp học tập nào sau đây?

Tích cực, chủ động thảo luận, trao đổi giữa giảng viên và sinh viên

Phương pháp thuyết trình, “thầy đọc, trò ghi”, tiếp nhận kiến thức 1 chiều

Câu 13: Bạn hãy cho biết, bạn quan tâm đến việc học ở thời gian nào?

Học ở nhà Học ở trên lớp Vừa học ở nhà, vừa học trên lớp

Câu 14: Bạn hãy cho biết, bạn đang ở mức độ học tập nào sau đây?

Tự tin vào kiến thức và năng lực Không tự tin vào kiến thức, năng lực

Có khả năng tự học Không có khả năng tự học

Có khả năng nghiên cứu khoa học Không có khả năng nghiên cứu khoa học

Rất hứng thú học tập Không hứng thú học tập

70

Xin cảm ơn sự hợp tác của các bạn!