
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 476 - THÁNG 3 - SỐ 1&2 - 2019
1
PHẪU THUẬT BẢO TỒN TỬ CUNG Ở BỆNH NHÂN U XƠ TỬ CUNG:
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Nguyễn Mạnh Thắng*
TÓM TẮT1
Nghiên cứu thực hiện trên 225 bệnh nhân mắc u
xơ tử cung tại bệnh viện Phụ sản Trung ương kết quả
cho thấy: Các yếu tố về tuổi, số con hiện có, kích
thước tử cung, vị trí nhân xơ, tình trạng phần phụ có
liên quan tới phương pháp phẫu thuật bảo tồn tử cung
(p<0,05). Trong đó,ở bệnh nhân lớn tuổi có tỷ lệ cắt
tử cung cao: 81,9% ở nhóm 40 – 49 tuổi và 95,5% ở
nhóm ≥50 tuổi. Bệnh nhân có ≥ 2 con phần lớn được
chỉ định phương pháp cắt tử cung (86,0%), nhóm
chưa có con thì ưu tiên chọn phương pháp bóc u xơ.
Tỷ lệ cắt tử cung đạt 74,0% trong nhóm có kích thước
tương đương thai ≥ 2 tháng.
Từ khóa:
U xơ tử cung, yếu tố liên quan, phẫu
thuật bảo tồn tử cung
SUMMARY
UTERINE PRESERVATION SURGERY
AMONG UTERINE FIBROSIS PATIENTS:
SOME RELATED FACTORS
The study was carried out of 225 patients with
uterine fibrosis at at National Hospital of Obstetric and
Gynecology showed that: age, number of children in
patients, uterine size, position of fibrosis, appendage
of uterine have related to method of uterine
preservation surgery (p<0.05). In which, the rate of
hysterectomy among elderly patients was high: 81.9%
with aged 40-49 years, 95.5% with aged 50 years or
over. Patients had 2 children or over was designated
hysterectomy (86.0%), patient without child was
designated uterine preservation surgery. The rate of
hysterectomy in group with size of uterus equivalent
the size of a 2 months pregnant was 74.0%.
Keywords:
Uterine fibrosis, related factor, uterine
preservation surgery
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U xơ tử cung (UXTC) là khối u lành tính chiểm
tỷ lệ cao ở phụ nữ độ tuổi sinh đẻ, theo Trần Thị
Phương Mai UXTC chiếm 20 – 30% ở phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ[1]. Theo một nghiên cứu
khác tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương ở phụ
nữ trên 35 tuổi thì tỷ lệ UXTC chiếm 18 – 20%
[2]. U xơ tử cung thường được phát hiện quanh
tuổi 40[1],[3] và chỉ có 3% trường hợp u xơ ở
tuổi 20[1]. Hiện nay, có nhiều phương pháp điều
trị u xơ tử cung bao gồm điều trị nội khoa (đối
với u xơ nhỏ hoặc vừa, gây ra máu, không gây
*Trường Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Mạnh Thắng
Email: bsnguyenmanhthang@gmail.com
Ngày nhận bài:18/12/2018
Ngày phản biện khoa học: 10/1/2019
Ngày duyệt bài: 25/2/2019
biến chứng), điều trị ngoại khoa bao gồm bóc u
xơ, cắt tử cung bán phần hoặc cắt tử cung toàn
phần. Phẫu thuật bóc u xơ tử cung cho phép bảo
tồn tử cung, giữ được chức năng sinh sản đồng
thời loại bỏ được tổn thương bệnh lý và điều trị
được những triệu chứng do u xơ gây ra. Vì vậy,
phẫu thuật này được chỉ định cho những bệnh
nhân còn trẻ, chưa có con hoặc mới có 1 con.
Đồng thời việc chỉ định bóc u được hay không
còn phụ thuộc vào kích thước, vị trí, số lượng
u.Bên cạnh những ưu điểm, phương pháp này
cũng có những biến chứng như làm giảm khả
năng thụ thai dẫn đến vô sinh vì dính sau mổ.
Tùy từng phương pháp mà tỷ lệ dính sau mổ là
khác nhau. Mặc dù vậy, với sự phát triển của y
học hiện nay phương pháp bóc u xơ tử cung có
tính an toàn cao và thường được áp dụng giúp
bảo bảo tồn tử cung cho phụ nữ, đặc biệt là các
phụ nữ trẻ trong độ tuổi sinh sản. Tuy nhiên, có
rất ít nghiên cứu đề cập đến các yếu tố liên quan
đến phẫu thuật bảo tồn tử cung ở bệnh nhân u
xơ tử cung. Vì vậy, nghiên cứu này được với mục
tiêu xác định một số yếu tố liên quan đến phẫu
thuật bảo tồn tử cung ở bệnh nhân u xơ tử cung
tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân u xơ
tử cung được phẫu thuật tại Bệnh viện phụ sản
Trung ương, năm 2014. Bệnh nhân được chẩn
đoán xác định là u xơ tử cung với kết quả mô
bệnh học là u xơ tử cung.
2. Phương pháp
2.1. Thiết kế nghiên cứu:
Mô tả, hồi cứu.
2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức
của WHO
Trong đó:
n là cỡ mẫu nghiên cứu; theo kết quả
nghiên cứu trước đó của Eiko Murase MD (1999),
tỷ lệ u xơ tử cung của phụ nữa trong độ tuổi sinh
sản là 20 – 30%[4] nên chúng tôi chọn:p= 0,3, q=
1-p = 0,7; = 0,05; :giá trị tương đối, trong
nghiên cứu này lấy bằng 0,2. Thay vào công thức
ta có n= 224. Trong nghiên cứu này chúng tôi
chọn n=225 bệnh nhân, như vậy cỡ mẫu là đủ lớn
để đảm bảo độ tin cậy. Chọn mẫu ngẫu nhiên theo
phương pháp chia khoảng.