Phiên bản thay thế chế
phẩm sinh học: Mâu
thuẫn pháp lý và khoa
học
Tháng 12/ 2010, lần đầu tiên ở Việt Nam
xảy ra một cuộc khiếu kiện giữa Công ty F.
Hoffman La Roche A.G (Thụy Sĩ) vi một
công tyợc phẩm đầu trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam - Công ty Nanogen (Hoa
Kỳ) - về chế phẩm Pegano chứa interferon
alfa-2a mà phía công ty Thụy Sĩ cho là bị vi
phạm bản quyền. Đây có thể là trường hợp
tranh chấp bản quyền sở hữu trí tuệ đầu
tiên ở Việt Nam giữa các chế phẩm
biologic và chế phẩm biosimilar. Báo Sức
khỏe và Đời sống xin giới thiệu với bạn
đọc bài của PGS.TS. Lê Văn Truyền -
chuyên gia cao cấp dược học - giới thiệu
khái quát về các biologic và các biosimilar.
Các chế phẩm sinh học (biologic)
Ngày nay, trong công tác phòng và chữa
bệnh, bên cạnh các thuốc hóa dược
(pharmaceuticals), nhóm các chế phẩm sinh
học (biologic) có một vai trò đặc biệt quan
trọng trong công tác phòng bệnh và điều trị.
Các chế phẩm sinh học đáp ứng nhu cầu điều
trị ở nhng lĩnh vực mà các thuốc hóa dược
không có hoặc ít có tác dụng (một số bệnh
ung thư và bệnh do di truyền) và điều đặc biệt
là các chế phẩm sinh học thường rất đắt. Các
chế phẩm y thường là các protein điều chế
bằng công nghệ sinh học, các chế phẩm DNA
tái tổ hp hoặc là các kháng thể đơn dòng.
Trong hơn 30 năm qua, các công tyng
nghệ sinh học đã sản xuất được nhiều chế
phẩm sinh học có được thành công vang dội
về mặt lâm sàng, bắt đầu với insulin người,
hormon sinh trưởng người và erythropoietin
(được FDA Hoa Kỳ cấp pp vào c năm
1982, 1985 và 1989).
Nhiều chế phẩm sinh học quan trọng đã được
cấp phép lưu hành trên thị trường như các
chế phẩm kháng thể đơn dòng (Mabs):
Herceptin (trastuzumab), Rituxan (rituximab)
Humira (adalimumab), các insulin người
như Humulin, Novolin, các interferon như
Intron-A (interferon alpha2b), Avonex
(interferon-beta), các hormon tăng trưởng
người như Humantrope (somatropin), Nutropin
(somatropin), các chế phẩm của erythropoietin
như Procrir, Epogen… Thị trường các chế
phẩm này đạt 13 tỷ USD vào năm 2005. Năm
2006, IMS đã công bố các số liệu về các
doanh số 6 nhóm chế phẩm sinh học “bom
tấn” (blockbuster) lên đến nhiều tỉ USD với dự
đoán khá lạc quan về doanh số 2010.
Đặc điểm của việc nghiên cứu phát minh các
chế phẩm sinh học là chi phí cho quá trình
nghiên cứu - phát triển rất cao: khoảng 50 -
100 triệu USD so vi việc nghiên cứu tổng
hợp một phân tử hóa dược hữu cơ (chi phí
khoảng 1 - 5 triệu USD) do các nguyên nhân
sau đây:
Các chế phẩm sinh học là các phân t hóa
học phức tạp và kích thước lớn và có cơ chế
tác dụng rất phức tạp.c chế phẩm này
thường là các protein có kích thước phân t
lớn gấp từ 100 - 1.000 lần so với các chất hóa
học phân tử nhỏ.
Mối liên quan giữa dược động học và hiệu qu
lâm sàng thường không rõ ràng, ít có các chỉ
số xác định.
Các chế phẩm sinh học thường có nhiều mục
tiêu tác dụng.
Thử nghiệm các chế phẩm này thường rất k
thực hiện và kết quả có thể mơ hồ. Một số
phương tiện phân tích hiện đại đôi khi không
thể phát hiện sự khác biệt về cấu trúc (phân
tử) liên quan đến sự khác biệt về hiệu quả lâm
ng.
Chi phí nghiên cứu – phát triển chi phí sản
xuất cao dẫn đến giá cả và chi phí điều trị cao
khi sử dụng các chế phẩm sinh học là một rào
cản đối với các nước đang phát triển và đối
với bệnh nhân nghèo. Điều đó giải thích tại
sao từ 30 - 50% thị phần các nhóm chế phẩm
quan trọng nhất thuộc Hoa K. Và điều gì cần
đến cũng phải đến, tương tự như trường hợp
các biệt dược hóa dược phát minh, nhiều
ng ty công nghệ sinh học đã tiến hành
nghiên cứu để đúng vào thời đim các chế
phẩm này hết bản quyền là có thể tung ra thị
trường các sản phẩm thay thế với giá rẻ hơn.
Các dược phẩm thay thế các hóa dược
thường được gọi là các thuốc generic. Trong
trường hợp các chế phẩm sinh học, các sản
phẩm thay thế thường được gọi làc
biosimilar (các chế phẩm sinh học tương tự)
hoặc các “Follow on Biologics-FOB” (các chế
phẩm sinh học làm theo).
Các phiên bản thay thế
Biosimilar
Chế phẩm sinh học tương tự/chế phẩm sinh
học làm theo (biosimilar hoặc follow-on
biologics) là thuật ngữ dùng để chỉ những
phiên bản tiếp theo được chính thức công
nhận của thuốc sinh học đã phát minh được
sản xuất sau khi các chế phẩm phát minh đã
kết thúc độc quyền s hữu trí tuệ. Ở Canada,
người ta còn dùng thuật ngữ các SEB
(Subsequent Entry Biologics) để chỉ c
biosimilar. Để cấp phép lưu hành cho các chế
phẩm này, một yếu tố cơ bản là phải so sánh
các chế phẩm này với các chế phẩm phát
minh.