
PHONG BẾ THẦN KINH
I. ĐẠI CƯƠNG.
1. Chỉ định.
Phong bế thần kinh được sử dụng để chẩn đoán, tiên lượng và điều trị
các chứng đau:
- Phong bế thần kinh chọn lọc được chỉ định để xác định nguyên nhân
gây đau đối với các nhánh thần kinh có vùng phân bố khu trú đặc hiệu, và các
cơ chế khác liên quan đến sự phát sinh đau.
- Phong bế chẩn đoán cho phép thu hẹp các chẩn đoán phân biệt về vị
trí và nguyên nhân gây đau.
- Phong bế tiên lượng được dùng để ước lượng kết quả có thể có từ thủ
thuật hủy thần kinh.
- Phong bế thần kinh điều trị được chỉ định để giảm đau sau mổ, sau
chấn thương và đau hậu quả từ tình trạng tự giới hạn. Phong bế thần kinh có
thể cho phép giảm đau nhanh và tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh nhân trong

một chương trình phục hồi chức năng toàn diện. Phong bế thần kinh liệu
pháp có thể làm cắt đứt vòng đau bệnh lý đủ để cho phép một giảm đau kéo
dài.
2. Chống chỉ định.
2.1. Chống chỉ định tuyệt đối.
- Nhiễm khuẩn cục bộ tại vị trí tiêm.
- Tình trạng da không cho phép tiến hành công tác vô khuẩn tại chỗ.
- Tồn tại khối u tại vị trí tiêm.
- Tiền sử có dị ứng với thuốc tê cục bộ.
- Giảm dung lượng máu nặng (cho kỹ thuật phong bế mà có thể dẫn
đến phong bế giao cảm trực tiếp).
- Thiếu hụt các yếu tố đông máu toàn bộ (gross coagulation defects).
- Nhiễm khuẩn huyết.
- Tăng áp lực nội sọ (tủy, đuôi ngựa và ngoài màng cứng).

- Novocain không thể dùng với liều lớn hơn 600mg, bởi vì có thể gây
met-hemoglobin.
- Sử dụng corticosteroid có bảo quản chống phân hủy bị chống chỉ
định trong kỹ thuật tiêm ngoài màng cứng và dưới nhện bởi vì có thể gây ra
cơn tai biến ngập máu và phá hủy hệ thần kinh trung ương lâu dài.
2.2. Chống chỉ định tương đối.
- Các bệnh lý toàn thân mà khi phong bế có thể đưa bệnh nhân đến
tình trạng nguy hiểm như: hẹp động mạch chủ, bệnh phổi nặng, thiếu máu tế
bào hình liềm.
- Các bệnh lý thần kinh có trước đó như: bệnh xơ cứng rải rác hoặc
bệnh xơ cột bên teo cơ, mà bệnh có thể bị xấu đi trong khi gây tê khu vực.
3. Tai biến và biến chứng.
- Biến chứng hay gặp nhất trong phong bế thần kinh là hạ huyết áp do
phong bế giao cảm, đặc biệt là ở những bệnh nhân giảm dung lượng máu và
các kỹ thuật phong bế một vùng rộng lớn của cơ thể như phong bế ngoài
màng cứng hoặc tủy sống.

- Quá liều thuốc tê hoặc tiêm thuốc tê vào mạch máu có thể gây độc
thần kinh trung ương, đôi khi có thể gây ngừng tim ngừng phổi.
- Tổn thương dây thần kinh do kim tiêm chạm vào, tuy nhiên biến
chứng này ít xảy ra đặc biệt là đối với các kim đầu vát ngắn.
- Nhiễm trùng da và khớp, abcess ngoài màng cứng, viêm màng não,
viêm dính màng nhện…có thể xảy ra với các thủ thuật tiêm. Tuy nhiên nếu
da được chuẩn bị với kỹ thuật vô trùng tiêu chuẩn thì sẽ giảm được tối thiểu
các nguy cơ nhiễm khuẩn.
- Các biến chứng khác tùy thuộc vào vị trí phong bế, sẽ được mô tả
riêng.
4. Kỹ thuật.
- Xác định vị trí xuyên kim, rồi đánh dấu bằng ấn đầu bút bi đã thụt
ngòi để tạo ra một vòng tròn nhỏ trên da.
- Vô trùng da tại vị trí tiêm: kỹ thuật vô trùng nghiêm ngặt được yêu
cầu ở tất cả các thủ thuật tiêm, đặc biệt là đối với thủ thuật tiêm nội khớp.
Da tại vị trí tiêm được cọ rửa bằng một thuốc sát trùng theo kỹ thuật xoáy ốc
từ trong ra ngoài để giảm các vi sinh vật đến mức thấp nhất, thuốc thường

được sử dụng là chlorhexidine, iodophore và cồn. Sau đó, điều quan trọng là
phải đợi 2 phút sau khi bôi thuốc với bất kỳ thuốc nào để vi khuẩn bị diệt tối
đa. Trong một số trường hợp cần phải cạo lông tóc để đảm bảo vô trùng cho
thủ thuật tiêm. Kỹ
thuật vô khuẩn được duy trì trong suốt quá trình thủ thuật.
- Gây tê bề mặt da bằng kim nhỏ có đường kính nòng 25-27 gauge với
lidocain 1% (không có adrenalin).
- Sử dụng kim dài 4cm, đường kính nòng 21-25 gauge để xuyên qua
da vào đến vị trí gây tê. Trước khi bơm thuốc vào, nhất thiết phải làm test
hút bơm tiêm để chắc chắn mũi kim không ở trong lòng mạch máu, nếu test
dương tính (hút ra máu) thì phải thay đổi vị trí mũi kim. Sau khi bơm thuốc
xong, bơm rửa kim tiêm bằng một bơm tiêm khác có chứa một ít lidocain
hoặc nước muối sinh lý. Rút kim ra rồi ấn lỗ kim lại để hạn chế chảy máu.
5. Sử dụng máy kích thích thần kinh.
Có thể xác định vị trí của thần kinh ngoại vi bằng máy kích thích thần
kinh sử dụng dòng điện xung cường độ nhỏ có thể điều chỉnh được để khử
cực mô thần kinh gần mũi kim. Cực âm của máy nối với kim, cực dương nối
với một điện cực da. Ban đầu dùng cường độ dòng 10-20mA để thăm dò