LÊ VĂN KỲ


BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU
MỘT SỐ PHONG TỤC - TÍN NGƯỠNG
CỦA NGƯỜI XTIÊNG
LÊ VĂN KỲ
1. Người Xtiêng ở nước ta sống rải rác trên các tỉnh Bình Phước, Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh nhưng Ở Bình Phước là đông hơn cả. Theo tài liệu khảo cổ học thì tộc người này đã sinh sống ở đây rất lâu - có thể là chủ nhân đầu tiên làm chủ bậc thêm con sông Cưu Long trà phú và hung dữ. Tuy nhiên, cũng lại có một truyền thuyết nói rằng: Người Xtiêng khởi tổ vốn sinh sống ở vùng biến, sau đó không rõ vì lí do gì mà người anh cả lại nhường hết toàn bộ tư cơ cùng với vùng biển giàu có, thuận lợi này cho người em trai rồi một mình mang theo nghề thuốc gia truyền và chữ viết trên thanh tre cùng một số muông thú lên lập nghiệp ở vùng cao cho đến tận bây giờ.
Ngôn ngữ người Xtiêng thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khơ Me, có nhiều nét gần gũi với tiếng của người Mnông, người Mạ hoặc người Cờ Ho. Họ biết khá nhiều tiếng Kinh và tiếng các dân tộc khác bởi địa vực cư trú của người Xtiêng nằm giữa vùng giao thoa của các dân tộc này - (Phía Nam giáp người Kinh; phía Bắc giáp người Cờ Ho, Mnông; phía Đông giáp Chăm, Khơ Me: phía Tây giáp Cămpuchia).
T8, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian.
Ngoài tộc danh Xtiêng chính thống, người ta còn dùng nhiều tên khác cũng để chỉ về người Xtiêng như Xa Điêng, Bu Lơ, Bu Díp, Bu Đâêh, Bu Lách, Bu Canh, Ray, Tà Mun, Bà Rá, Đalmer, Rong Ah, Bu Le... Tuy nhiên. trong hàng chục nhóm đó thì họ chỉ quy lại thành bốn nhóm chính là nhóm Bu Dịp. nhóm Bu Đêh, nhóm Bu Lách và nhóm Bu Lợơ. Trong bến nhóm chính trên thì có hai nhóm chính nhất là nhóm Bu Lø ở thượng lưu và nhóm Bu Đêh ở hạ lưu. Người Xtiêng cần cù lao động, chịu khó làm ăn, đoàn kết với các dân tộc khác trong sự nghiệp đâu tranh dựng nước và giữ nước. Chỉ tính riêng huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, họ đã có nhiều người con hi sinh anh dũng cho Tổ quốc, xứng đáng là những tấm gương để hậu thế noi theo như Điểu Sòm, Điểu Sung, Điểu Giang. Điểu Mốt, Điểu Môn, Điểu Ong v.v...
2. Phong tục - tín ngưỡng của người Xtiêng khá phong phú và có những nét độc đáo được thể hiện qua các hiện tượng sau đây:
* Về sinh de
Bà con kể rằng: Ngày xưa người phụ nữ Xtiêng không biết đẻ. Khi nào cái thai trong bụng đã đủ ngày, đủ tháng thì người ta phải dùng đao mồ bụng người mẹ để lấy con ra nuôi và đành hi sinh người mẹ. Cảnh tượng dau xót đó gia đình nào cũng phải trải qua và cam chịu chứ không có cách nào cứu chữa. Đến lượt vợ Pơ Đa Khun chuẩn bị đẻ, Pơ Đa Khun không chịu mổ bụng để bỏ mẹ lấy con như cách làm quen thuộc của bà con trong bon làng vì vợ anh là một cô gái xinh đẹp nhất vùng, hai vợ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
29
===——————ễ=E——
chồng lại yêu nhau tha thiết. Anh đau khổ bỏ nhà ra đi và dự định không bao giờ trở lại. Anh cho rằng thà anh có chết dân, chết mòn trong rừng núi còn đỡ đau hơn là tự tay mình giết chết người vợ thương yêu của mình. Trong lúc lang thang giữa rừng, gặp con vật nào anh cũng hỏi xem có cách gì giúp vợ anh tự đẻ được không nhưng con nào cũng lắc đầu thất vọng. Càng đi, càng đau buồn mệt mỏi. Anh ngồi nghỉ dưới một gốc cây cổ thụ và định vùi thân tại đó luôn. Bông dưng, anh nghe tiếng kêu chí chéo trên cành, anh ngước mắt lên và nhìn thấy một con khi đang đẻ, đứa con của nó chui ra từ từ. Khi con ra hết thì thấy khỉ mẹ bôi một vật gì lên đầu rồi tiếp tục ăm con, không tỏ vẻ xót xa đau đớn. Vật đó thừa ra và rơi xuống đất. Pơ Đa Khun thấy lạ nhặt lên xem và nghĩ rằng đó là một thứ thuốc cần thiết làm cho con khi sinh đẻ được an toàn cả con lẫn mẹ. Anh vội vã chạy về nhà nói với vợ, bôi thuốc ấy lên đầu vợ và hướng dân vợ thực hiện đúng các động tác như lúc khi đẻ. Qua nhiên, sau đó, vợ anh đẻ được con mà không phải mổ bụng. Từ đó cả làng học theo vợ chồng anh và họ biết đẻ con bình thường như ngày nay. Và do vậy mà khi người phụ nữ Xtiêng đe xong thì có tục phun thuốc vào đầu, dặt thuốc trong nách và giữa bụng. Đó là loại thuốc gia truyền tự chế lấy (tiếng địa phương gọi là gundeh).
- Khi người mẹ có thai thì kiêng ăn thịt con mên và thịt con trăn.
- Khi đẻ con. gia chủ phải sắm một eon heo (hoặc một con gà) và một ché rượu nhỏ để cúng thần, cúng xong thì biếu bà đỡ các thứ ấy. (Nếu bà đỡ là
người ngoài thì chỉ cần cúng gà chứ không phải cúng heo).
- Trước sân nhà của người vừa đẻ con phải đặt một cái sừng trâu và một cái nỏ giả để phòng ngừa ma quỷ, thần dữ đến hại đứa trẻ.
- Rau của đứa trẻ được cắt bằng dao nứa. Cắt xong bỏ vào ống bương hoặc vỏ quả bầu, đậy nắp cẩn thận rồi để tại nhà. Sau 8 ngày đêm thì đưa ống đựng rau treo vào một cành cây trong vườn (hoặc trong rãấy) theo ý thích của mình. Nếu ai chặt phá cây ấy thì sẽ bị nhà chủ phạt theo luật tục đã định vì mất rau là điều rất kiêng kị. Rau phải đưa đi treo thật sớm tránh để người ta nhìn thấy.
- Những nhà hiếm con, sinh con thường hay chết thì khi đứa bé vừa ra đời, người ta sẽ lấy một vật gì đó tuỳ ý ở trong nhà, đặt nó vào trong ấy rồi đưa ra để ngoài đường như thể mình bỏ nó. Sau đó một người bà con sẽ đem nó về giao lại cho mẹ đứa bé làm như kiểu người kia nhờ nuôi hộ. Như vậy nó sẽ thoát được cái “dớp” trong nhà, sẽ được may mắn và không chết yếu như anh chị nó nữa.
- Những nhà chỉ nuôi được con trai hay chỉ nuôi được con gái thì khi sinh con người ta cũng làm như vậy (gia vờ quảng ra ngoài đường), hoặc giả người ta sẽ cho đứa bé đeo vòng tai như con gái để nó được may mắn (đối với người không được con tral).
- Nếu đẻ con gái thì chủ nhà làm các dụng cụ xúc cá, (con trai thì làm ná) rồi đưa đứa trẻ ra nhìn trời đất, nhìn các dụng cụ ấy để sau này theo đó mà hành nghiệp. Chủ nhà phải giả vờ 30
LÊ VĂN KỲ


làm động tác xúc cá hoặc bắn thú như để truyền dạy cho con.
- Đứa trẻ ra đời được 8 ngày thì làm lễ cúng đặt tên và cầu sức khoẻ. Tuy theo hoàn cảnh kinh tế của từng nhà mà lễ vật có thể là gà hoặc heo với một ché rượu nho (người Xtiêng hay gọi là tố rượu). Nhà giàu có thì mô trâu bò để tiếp bà con đến chúc mừng và cầu mong cho đứa trẻ bình an. Trong lễ cúng này nhất thiết phải mời bà đỡ đến dự. Lễ cúng tô chức tại nhà và do bà đỡ cúng. Tên của đứa trẻ được đặt theo tên của một người thân trong gia đình đã chết và người ta "lấy hồn”, lấy đồ dùng của người đã chết ấy đặt lên trên bàn để cúng cho đứa trẻ chóng lớn, không mắc bệnh tật. (Đối với người Xtiêng, nếu nhỡ đe eon trong rừng thì làm một con heo nhỏ cúng thần rồi đưa về nhà bình thường chứ không kiêng kị. năng nề như người M'nông. Lúc đẻ cũng tự đẻ trong nhà mình đang ở chứ không phải làm chòi riêng ở góc vườn). Nếu trong lúc mang thai mà người mẹ mơ thấy một ngươi lạ mặt nào đó nhưng nhớ được tên rõ ràng thì phải đặt tên đứa con đúng với tên người trong mộng. Trường hợp mơ thấy một người nào đó đến ở nhờ nhà mình và cố ý tìm kiếm một vật gì đấy có trong nhà thì khi đứa bé ra đời, gia đình sẽ không cho nó thấy cái vật ấy, nếu thấy thì nó có thể chết vì khi đã tìm được ất nó sẽ bỏ nhà ra đi. Đó là đối với những nhà hiếm hoi, đẻ con khó nuôi, còn đối với những nhà con đàn, cháu đống thì việc đặt tên con không phải cần trọng, cầu kì như vậy. Họ có thể chọn một cái tên tuỳ ý không cân liên quan đến hồn vía ông bà hoặc người thân đã khuất.
- Khoảng 3 đến 4 tuổi thì làm lễ cầu may mắn cho con để nó chóng lớn, không bệnh tật, không quấy nhiễu. Lễ đó được tiến hành theo nghi thức tắm cho đứa bé và cầu thần linh phù hộ. Nếu có đứa bé nào cùng tuổi. khác giới mà hai gia đình thích làm thông gia thì cho hai đứa bé đó tắm chung với nhau và coi như là một lễ hứa hôn. Trong lễ này cha mẹ phải trao kỉ vật cho đứa trẻ để làm tin. Lớn lên hai đứa sẽ là vợ chồng của nhau và không cần phải nhờ người làm mối. Nếu bên nào bội ước thì phải bồi thường theo luật tục đã định khi không có lí do chính đáng.
- Từ 10 tuổi trở lên thì có tục “eà răng”, “căng tai” kể cả con trai lẫn con gái. Thông thường phải nhờ người có kinh nghiệm đến làm cho. Không phải là cà tất cả hàm mà chỉ cà 6 cái răng cửa phía trên nên không ảnh hưởng nhiều đến ăn uống. Người Xtiêng cho rằng cà răng là làm cho người thêm đẹp, thêm hiền lành, để người ta khỏi nhầm với bọn ma lai hung dữ hay ăn thịt người. Tai thì đục lỗ để đeo các vật trang sức cho đẹp như ngà vol, vòng bạc... Họ đeo đủ thứ và đeo rất nhiều, cÓ người xệ ca tai mà vân cứ đeo tiếp. Lúc chết, các vật trang sức này sẽ được người chết mang đi cùng dù là quý hiếm, đắt tiền.
* Về hôn nhân
- Ngày trước, con trai khoảng 1õ tuổi, con gái khoảng 18 tuổi thì có thể tính chuyện hôn nhân. Khi biết nhau rồi thì họ sẽ nói với bố mẹ để bố mẹ nhờ người mai mối lo toan. Người làm mối phải là đàn ông và cả bên nam, bên nữ đều phải có ông mối (gọi là ray ur). Khi ông mỗi cho biết gia đình bên gái cho NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ả]


phép cầu hôn thì gia đình bên trai hẹn ngày làm lễ ăn hỏi. Lễ vật nhà trai đưa đến gồm một con gà trống sống, một ché rượu khoảng 5 lít, một xà gạc, một cây gươm, một cây lao, một con đao và một vài thứ trang sức. Nếu nhà gái đồng ý thì sẽ nhận các thứ lễ vật đó rồi lấy rượu, gà đưa lên bàn cúng thần linh. Cùng lúc ấy nhà trai kiếm một con heo đưa sang nhà gái làm cỗ để hai gia đình, hai ông mối cùng ăn và coi như đã đính hôn. Kể từ hôm đó bên nào vị phạm sẽ bị phạt một thành hai trong việc bồi hoàn lễ vật.
- Sau lễ ăn hỏi, đôi trai gái có thể cưới nhau trong vòng một năm tuỳ theo hoàn cảnh của họ. Lễ vật trong đám cưới do nhà trai mang đến thường là 3 con heo, 3 ché rượu, một bộ quần áo tự dệt cho cô dâu. Việc mời bà con ăn uống thì nhà trai lo cho nhà trai, nhà gái lo cho nhà gái. Nhà gái phải cử vài chục người cùng với bố mẹ vợ đến nhà trai đón rể vào lúc chiều tối. Khi chàng rể về ở nhà cô dâu thì phải cúng một con heo, một ché rượu do hai vợ chồng hành lễ. Anh ta chỉ cần mang theo tư trang của mình như quần áo. chăn màn. đao, gùi, xà gạc là đủ. Kể từ đấy chàng rể sẽ là một thành viên trong gia đình nhà vợ cho đến lúc nào có đủ tiền cưới thì mới được đưa vợ về nhà bố mẹ đẻ của mình chung sống. Vì vậy mà có rất nhiều người sau khi đã đẻ một vài đứa con mới đưa vợ về hoặc là phải ở trọn đời bên nhà vợ.
Nhưng đối với những người giàu có thì không phải ở rể ngày nào vì họ có đủ tiền để thực hiện một lễ cưới trọn vẹn. Trong trường hợp này, nhà trai cần phải có đủ các thứ sau đây để nộp cho nhà gái:
8 ché rượu + một xà lùng cho bố vợ (một xà lùng = 10 ché thường).
6 ché rượu + một xà lùng cho mẹ vợ.
Một con trâu mổ thịt + một con trâu kéo (sống).
Một ché rượu + một con heo để cúng thần.
(Xà lùng là một loại ché đặc biệt quý, riêng cái vỏ của nó cũng bằng giá tiền một con trâu tốt).
Trong một đám cưới như vậy, nhà trai cũng phải tổ chức ăn uống rất to, phải mổ một con trâu cắt đều mỗi bộ phận một miếng rồi xâu lại và chia hết cho các gia đình trong buôn. Bà con đến mừng thường là vải, quần áo, gà, heo, gạo tuỳ theo khả năng và quan hệ của từng người. Cưới xong, chàng rể phải ở lại nhà vợ 8 đêm rồi mới được rước dâu về. Khi rướe dâu, bố mẹ vợ cùng đi. Nhà trai phải đặt chiếc sừng trâu bên cửa chính để eô dâu bước đè lên. Nếu chưa bước qua sừng trâu thì chưa được vào. Cô đâu phải mang theo cơm nếp và thịt cho bố mẹ chồng ăn. Cô trùm khăn, đeo cườm rồi cùng chồng uống cạn chén rượu với ông mối. Sau đó hai vợ chồng ăn eơm với nhau và thắp hai cây nến bằng nhau. Nếu bên nào cháy nhanh hơn thì bên ấy phải trả nợ. Họ cho rằng bên chồng được thì hên, bên vợ được thì rủi. Cơm ăn cũng vậy, chồng được thì tốt, vợ được thì xấu. Nếu hết cùng thì hai bên bằng nhau (kể cả tuổi thọ). Cô dâu ở lại nhà chồng được 8 đêm thì quay về thăm bố mẹ đẻ của mình.
- Trong tục hôn nhân, người Xtiêng được phép lấy người các dân tộc khác. Nếu cùng dòng tộc thì cách 3 đời trở lên được lấy nhau (trừ đời thứ 7 - sau đó ca
LÊ VĂN KỸ
=—————— ễễ
lại lấy tiếp). Dưới 3 đời cũng có thể kết hôn với nhau được nhưng phải là con trai cô lấy con gái cậu chứ con trai cậu không được lấy con gái cô. Họ cũng có tục nối dây trên cơ sở thoä thuận. Nếu chết vợ hoặc chết chồng thì được phép đi lấy người khác nhưng phải trả lại của cai. * Về tung ma
- Khi trong gia đình có người sắp chết thì người nhà phải báo cho bà con biết để đến gặp mặt lần cuối cùng. Tiếp đeo cườm, để nguyên các đồ trang sức rồi mổ heo cúng ma lúc tắt thở.
đó là thay quần áo,
- Thi hài để trong nhà 3 ngày mới tổ chức mai táng.
- Quan tài làm bằng gỗ cả cây, dục lỗ, có nắp đậy. Đầu quan tài luôn luôn quay ra phía trước. Tư trang của người chết cũng được bỏ vào quan tài, nếu còn thừa thì đem đốt chứ không để lại hoặc cho ai.
- Mộ ngươi Xtiêng táng riêng từng ngôi một tại nghĩa trang công cộng, cách nhà chừng một cây số. Huyệt đào sâu từ một mét rưỡi đến hai mét, đầu người chết luôn luôn quay về phía mặt trời mọc. Bà con đưa tang khoảng 1ỗ đến 20 người và có đánh trống để tiễn biệt vong hồn. Đưa tang thường tổ chức vào ban ngày. Ở đây cũng có tục chia của cho người chết như các dân tộc thiêu số lân cận và cùng đưa ra mộ luôn. Mộ thường để theo dòng họ. Sau khi an táng, gia đình ra thăm mộ liên tục trong 7 ngày (nếu người chết là nam) hoặc 6 ngày (nếu người chết là nữ) và quét dọn mộ rất sạch sẽ, đồng thời mang theo một hoặc hai nắm cơm
bỏ vào trong ống để cúng ma. Nghĩ lễ này chỉ thực hiện trong tháng đầu, còn sau đó thì không phải làm nữa, không cúng giỗ vào ngày mất như người Kinh và cũng không có tục bỏ ma.
- Nhưng đối với người Xtiêng thuộc tộc Bu Đêh ở vùng hạ lưu thì tục tang ma có xê dịch chút ít. Họ không nhất thiết phải mai táng tại nghĩa trang công cộng mà có thể mai táng trên vườn rẫy của mình và thời gian thăm mộ cũng dài hơn. Ông Điểu Xia ở thôn Phu Mang 2, xã Long Hà, huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước đã từng để mộ vợ trong vườn rẫy của ông. Chúng tôi hỏi vì sao như vậy thì ông trả lời: “Vợ chồng tôi đã sống với nhau sáu, bay chục năm rất tình nghĩa. Nay bà ấy chết tôi rất buồn nên tôi để mộ bà ấy trong vườn cho đỡ nhớ thương, cách biệt và tiện bề thăm viếng”.
- Người Xtiêng để tang bằng cách cắt tóc của mình. Nếu người chết là vợ - chồng - cha - mẹ - con thì cắt hai bên. Cắt ít hay nhiều là tuỳ theo thứ bậc, quan hệ - gần thì cắt cao hơn. (Chắt không để tang; cháu không tang chú, bác, cô đì; anh em không tang nhau; bố mẹ không tang con).
- Khi mai táng xong. lối đi vào mộ sẽ được rào chằng lại để tà ma không theo vào nhà mình gây khó dễ.
- Đối với người chết nạn thì không được đưa xác vào nhà và phải làm lễ cúng khá to để cầu thần linh giúp đỡ, không cho con ma ấy về quấy nhiễu gia đình lần nữa. Lễ phẩm dâng cúng phải là vịt, chó, bò, heo, gà, rượu. Người hành lễ là một thầy cúng cao tay và phải thử bằng ngọn nến nhấp nháy để NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
33
CC ————————TE“XXXB BE ——————_Ặễẽễẽ
dự báo sự rủi ro. Nếu ngọn nến nhấp nháy loé sáng thì người nhà hãy cẩn thận vì hồn người chết nạn sẽ về quấy nhiễu gia đình. Đối với những trường hợp như thế thì sau khi mai táng người nạn 8 ngày, gia chủ phải làm lễ rửa máu. Người ta làm thịt một con chó, lấy máu của nó trộn với thịt, phân con dũi (và cả bột đất con dũi bới lên). Tất cả những thứ đó bỏ vào một cái chậu để cho mọi người dự tang và hàng xóm cùng đến rửa. Họ nhúng khăn mặt của mình vào chậu máu rồi lau lên người, sau đó phải đi tắm ở một con suối có đầu hướng về phía Tây. Nếu ai nhúng khăn vào chậu máu mà chậu đó sôi bọt lên thì người ấy sẽ bị ảnh hưởng xấu (nghĩa là sau này cũng chết nạn như thế). còn khăn của ai không sôi bọt thì bình thường. không phải lo.
- Chết nạn là nỗi ám ảnh nặng nề đối với đồng bào Xtiêng. Họ cho rằng linh hồn người đó không được đầu thai vào kiếp khác nên cứ luẩn quấn đâu đó rồi về quấy nhiều người vô tội (nhất là người nhà). Xác của người chết nạn sẽ bị Thần dữ tìm ăn bởi nó là loài hút máu, chỉ ăn thịt người chết nạn, chết đâm chém chứ không ăn thịt người chết do bệnh tật. Vì thế mà trước đây nhà ai có người chết nạn trong đó thì họ phải bỏ ca nhà, cả vườn đi nơi khác ở. Nếu chết ở rẫy thì cũng bỏ rẫy luôn và người nào đi phát rẫy mới cũng không phát ở nơi gần mộ người chết nạn để tránh thân dữ khát máu chúng sẽ tìm cách ăn luôn ca mình.
* Về làm ăn, sinh hoạt
- Trước khi đi chọn rẫy không phải cúng. Khi đã chọn được rầy rồi thì phát một bãi nhỏ lấy gà, rượu cúng thần để
xin được báo mộng về điểm lành, điềm dữ, đồng thời chặt một đoạn cây lồ ô làm dấu. Nếu trong đêm ấy mà chủ rẫy mơ thấy những điều ác mộng như cháy nhà, bị gãy răng, giết trâu, bắn nai, bắn mên thì đó là điểm xấu, không nên làm rẫy nơi ấy nữa. Còn nếu chiêm bao thấy một dòng sông có vũng nước trong lành; thấy một thác nước, một vườn cây có trái ngọt xum xuê hoặc một ngọn núi thì đấy là điểm tốt cứ yên tâm mà làm tiếp.
- Nếu thấy con mên, con trăn, sừng nai và xác hoặc đuôi con chìm Ha na chúc giữa rẫy thì phải bỏ cái rẫy ấy đi. (Ha na chúc là theo cách gọi của ông Điểu Mềm ở thôn 4, xã Đắk Ơ, Phước Bình Phước chứ nhiều người không biết tên con chim ấy là chim gì, chỉ biết nó có đuôi dài, cánh trắng - rất độc, không được gần gũi, đối mặt.
Long,
- Khi bắt đầu phát rẫy thì phải mổ heo, gà lấy máu cúng thần và đãi người giúp việc để đảm bảo nhanh chóng. an toàn. Không phát rẫy gần mộ người bị chết nạn, nơi đầu hoặc cuối nguồn nước; nơi có nhiều cây cổ thụ: nơi có đá tô ong hay đỉnh cao nhất của đổi vì những chỗ ấy là đất thiêng, là chỗ trú ngụ của thần linh và quỷ đữ.
- Khi đốt rẫy cũng phải cúng gà, rượu để tránh mọi rủi ro có thể xẩy ra.
- Phải cúng gà, rượu (hoặc heo) trước khi trỉa lúa để cầu mong thần linh phù hộ cho lúa mọc đều, không bị chim muông, chuột bọ vào phá.
- Khi lúa lên xanh, sắp làm đòng thì biện lễ cúng thần cầu cho mưa thuận gió hoà. Chủ nhà phải vót một que tre có ngù cắm vào bàn cúng mới đủ lễ. 34
LÊ VĂN KỸ
————-ễễễễễ——ễễ———-
- Bước vào mùa thu hoạch cũng phải cúng rượu, gà để xin phép thần linh đưa lúa về nhà.
- Nhà nào thu hoạch được 70 gùi thóc trở lên thì làm lễ cúng tạ ơn thần (70 gùi thì cúng gà, rượu, 100 gùi thì cúng heo và khao đãi bà con).
- Khi đưa lúa vào kho phải mổ heo cúng để giữ hồn lúa lại với gia chủ đến mùa sau.
- Người Xtiêng hầu hết đều có nhà chòi giữa rẫy nhưng chỉ là để trú ngụ lúc sản xuất và giải quyết những bữa ăn phụ. Nơi ở chính của họ là các ngôi nhà dài trong buôn. Nhà dài ở đây cũng chỉ dài vừa phải (khoảng 5Ôm, chứa được 6 đến 7 hộ) chứ không dài đằng đặc như nhà người M nông ngày trước. Trong ngôi nhà ấy, bố mẹ ở ngoài cùng, con cháu ở giữa, từng hộ có từng bếp riêng. (Ø Đắk Ở nay không còn nhà dài nữa và cũng không thấy ai ở nhà sàn).
- Khi mua được vật quý có giá trị cao về kinh tế như voi, xà lùng cổng chiêng trọn bộ, trâu hay nhặt được tiền hoặc vàng bạc là phai làm heo, rượu cúng thần.
- Lễ eúng voi phải thực hiện trong nhiều giai đoạn và khá cầu kì kể từ lúc đi săn voi (hoặc mua voi về), khi voi ốm. voi có chửa, voi đẻ, voi cắt ngà, thuần dưỡng voi, voi chết, v.v... Người chủ voi cũng phải giữ gìn, kiêng kị nhiều thứ như hạn chế đến nhà người chết, người có đám cưới, cuộc vui... Vì nếu chủ voi đến thăm, mừng thì theo phong tục Xtiêng, người được thăm, được mừng ấy phải làm heo, làm rượu cúng voi cho voi được yên ổn. Như thế thật là quá tội vì kiếm được con heo,
ché rượu đâu phải là dễ đối với những người nghèo khó. Chúng tôi đã được chứng kiến cảnh này ở nhà ông Điều Nhớt (thôn 4, đội 1 xã Đắk ỞƠ) cách đây nửa năm. Đó là lần ông ta mua con voi từ Quảng Trực đưa về rồi biện lễ cúng voi tại nhà rất linh đình và lần ông đi dự đám cưới con ông Điểu Đơm ở Đắk Rung (Đăk Lắk). Vì là người ruột thịt trong gia đình nên không thể không di dự cưới nhưng khi ông đi về được một tuần thì bốn người ở Đắk Rung cách Đắk Ở 300 cây số đã phải băng rừng, vượt suối mang heo, rượu đến nhà ông Nhót cúng voi cho đúng phong tục. Ông Nhót cũng rất ái ngại nhưng biết làm sao được, đành phai lưu khách ở lại đăm bảy ngày cho bõ công đi về. Thật chỉ là độc đáo và cầu kì. Ông Nhớt hiện có hai con voi, cách đây vài năm một con voi của ông bị chết nên ông càng cần trọng trong việc đối xử với nó. Ông bảo rằng: những người thích ăn thịt voi thì không nuôi được voi, nếu cứ liều nuôi thì nó sẽ giết mình và ăn lại mình. Chủ voi rất sợ vol đẻ vì theo quan niệm của người Xtiêng thì voi đẻ là đem lại xúi quẩy cho cä buôn. Do đó lúc voi chửa chủ voi phải kiếm một con trâu, một con heo và rượu cúng thần để giải den cho buôn làng. Khi voi đe cũng phải cúng như vậy, lại còn phải thêm một con gà, một con vịt, một con chó trên mâm cỗ vì khi đẻ, máu sẽ chảy ra nhiều làm ô uế đất đai của thần, thần sẽ phạt. Cho nên, mặc dầu voi rất quý (con voi mà ông Điểu Nhót vừa mua là bốn mươi triệu đồng) nhưng những người có voi lại rất sợ voi đẻ, v.v...
3. Sở dĩ phải cúng nhiều và kiêng kị nhiều như vậy là vì người Xtiêng cho NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI



răng xung quanh mình có rất nhiều thân, nhiều ma như ma Rừng (Pơ ra ry), thần Nước (Pơ na ga), thần Đá (Pơ ra luk), thần Thác (Pơ ra liêng), Thần núi (Pøơ ra đô). thần Bếp (Pøơ ra day), thân Lúa (Pơ ra va) v.v... Nó có thể giúp mình hoặc hại mình tuỳ theo cách mình ứng xử. Tốt nhất là phải cúng nhiều, phải có niềm tin và lòng thành kính...
- Về vũ trụ thì đồng bào quan niệm: chung quanh họ có 9 thế giới đó là thế giới vô hình và thế giới hữu hình. Thế giới vô hình có nhiều tầng khác nhau - là nơi trú ngụ của các vị thần. Còn thế giới hữu hình chỉ có một tầng - là nơi ở của loài người và muôn vật.
Tầng cao nhất là Trời (Trôk) - là nơi ở của Yau Krung, Yau Knhing, Yau Vrăh (tức là chúa Trời, người làm ra tất ca những gì trong vũ trụ).
Tầng tiếp theo là bên kia của hướng Đông. Nơi đây có một không gian yên tĩnh, cây có mọc theo từng loài, không có ánh sáng mặt trời, không cần lương thực vẫn sống được.
Tầng tiếp là tầng nằm giữa bên này và bên kia. Nơi đây có rào chắn bằng đá. có một hang nhỏ làm đường đi qua, hang này có khả năng khép mở tự động. Trong hang có nhiều loài quái vật canh giữ. Phía sau bức tường bằng hang đá ấy có một vực thăm. Vực là một hồ lửa và sức nóng của mặt trởi.
Tầng tiếp nữa là hướng Đông của trái đất - nơi mặt trời mọc.
Hai tầng tiếp theo là phân giữa của trời - là nơi ở của yang krðng và vring klang (thần hiền lẫn thần dữ).
Tầng nữa là hướng mặt trời lặn. Đây là điểm cuối của trời đất và có hang động để đi vào thế giới bên kia (cõi chết). Tầng tiếp theo là nơi linh hồn người chết trú ngụ. Đời sống ỏ đây trái ngược với xã hội người trần và họ nhỏ bé hơn.
Tầng nữa là thế giới của loài người và muôn vật sinh sống.
Tầng cuối cùng là tảng dưới mặt nước. Đây là nơi ở của thần sông. Khi có người bị chết đuối thì vong hồn ấy sẽ được gặp thần sông và biến thành một thành viên do thần này cai quản. Đời sông dưới ấy cũng tương tự như xã hội loài người v.V...
Tóm lại, ý thức tín ngưỡng của người Xtiêng thật trừu tượng, đa dạng mà đây chỉ mới là một số do ông Điểu Đứk ở Bu Gia Phúc (Phước Long, Bình Phước) kể lại cho chúng tôi hay trong những chuyến điền dã.
- Ma lai cũng là một hiện tượng rất nguy hiểm đối với bà con. Ma lai vốn là những con người sinh ra, lớn lên giữa buôn làng, cũng làm ăn, sinh hoạt như mọi người khác nhưng sau đó bị ma quỷ ám vào làm mất hẳn tính người và trỏ thành người ma” đáng kinh sợ. Nó có thể làm chết người, chết gia súc, chết cây trồng hoặc đốt nhà cửa bất cứ một al, bất cứ lúc nào. Nó không chỉ gây hại trong buôn nó ở mà còn có thể đi quấy nhiễu cä những buôn lân cận. Vì vậy đối với loại ma lai này người ta phải trừng trị thẳng tay - phải kịp thời phát hiện được nó rồi bắt trói lại và giết chết tại chỗ. Tuy nhiên, nhận điện được ma lai một cách
(Xem tiếp trang 66) 68


BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU...
(Tiếp theo trang 35) chính xác không phải là chuyện đơn giản vì nó là “ma -lẩn người” và khi ấn, khi hiện thật khó xác định. Nếu không cẩn thận thì có thể giết oan một người dân hoặc cũng có thể là để một con ma lọt lưới. Chính vì thế mà trước khi quyết định giết một con ma lai nào đó thì cả cộng đồng phải họp bàn thật kĩ và phải cử những người có kinh nghiệm, có uy tín đi theo dõi, thể nghiệm và dùng thuốc để thử. Thông thường người ta thử bằng chì. Đốt cho chì nóng chảy rồi đổ vào lòng bàn tay con ma lai xem nó phản ứng thế nào. Để khỏi oan khuất, họ phải thử đến 70 lần mới kết luận. Đây là vấn để hết sức khó khăn thông qua một loạt động tác kiên nhãn, tỉ mi nên đòi hỏi người hành sự phải cẩn trọng và công mình như một vị quan toà chân chính. Cũng có những con ma lai có thể thuần dưỡng được và người ta đưa nó về nuôi như một người ở và sẽ dựng vợ, gả chồng cho nó nếu nó thực sự thành người. (Ma lai là một hiện tượng phức tạp trong đời sống tín ngưỡng của nhiều tộc người ở Tây Nguyên nên chưa thể nói trọn trong bài viết ngắn này)
* *
Trở lên là mấy nét sơ bộ về phong tục, tín ngưỡng của người Xtiêng mà bước đầu chúng tôi ghi nhận. Hi vọng sẽ được giới thiệu, trao đổi tiếp trong một địp khác.
L.V.K