14
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Quản lý hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp
của ngân hàng thương mại: Kinh nghiệm quốc tế và
bài học cho Việt Nam
Ngày nhận: 26/12/2024 Ngày nhận bản sửa: 16/02/2025 Ngày duyệt đăng: 03/03/2025
Tóm tắt: Sử dụng phương pháp tổng quan phân tích tài liệu nghiên cứu, bài
viết cung cấp khái niệm mục đích của hoạt động đầu trái phiếu doanh
nghiệp của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, bài viết tổng hợp kinh
nghiệm quốc tế về quản lý hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các
ngân hàng thương mại tại các quốc gia bao gồm Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh
Trung Quốc. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất một số khuyến nghị
cho Việt Nam nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu trái phiếu
doanh nghiệp của ngân hàng thương mại, bao gồm: (i) nâng cao vai trò quan
trọng của hệ thống ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của trái phiếu
doanh nghiệp; (ii) tăng cường khung pháp giám sát; (iii) nâng cao hiệu
quả quản trị rủi ro trong đầu tư trái phiếu doanh nghiệp; và (iv) nâng cao tính
minh bạch thông tin và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.
Managing corporate bond investment activities of commercial banks: International
experiences and lessons for Vietnam
Abstract: Using the method of overview and analysis of research documents, the article provides definition
and purposes of corporate bond investment activities of commercial banks. In addition, the article
summarizes international experience in managing corporate bond investment activities of commercial
banks in countries including the United States, the United Kingdom and China. From there, lessons are
drawn and some recommendations are proposed for Vietnam to manage and improve the efficiency of
corporate bond investment activities of commercial banks, including: (i) enhancing the important role
of the commercial banking system in the development of corporate bonds; (ii) strengthening the legal
framework and supervision; (iii) improving the effectiveness of risk management in corporate bond
investment; and (iv) improving information transparency and ensuring the rights of investors.
Keywords: Corporate bond, Corporate bond investment, Commercial banks
Doi: 10.59276/JELB.2025.03.2856
Nguyen, Van Tien1, Nguyen, Nhat Minh2, Pham, Phu Minh3
Email: tiennv@hvnh.edu.vn1, minhnn@hvnh.edu.vn2, phamphuminh@mpi.gov.vn3
Organization: Banking Academy of Vietnam1,2, Central Institute for Economic Management, Vietnam3
Nguyễn Văn Tiến1, Nguyễn Nhật Minh2, Phạm Phú Minh3
Học viện Ngân hàng, Việt Nam1,2, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Việt Nam3
NGUYỄN VĂN TIẾN - NGUYỄN NHẬT MINH - PHẠM PHÚ MINH
15
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Từ khóa: Trái phiếu doanh nghiệp, Đầu trái phiếu doanh nghiệp, Ngân hàng
thương mại
1. Giới thiệu
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang
diễn ra những biến chuyển mạnh mẽ,
hoạt động đầu trái phiếu doanh nghiệp
(TPDN) của các ngân hàng thương mại
(NHTM) đang ngày càng trở thành một
yếu tố quan trọng trong việc phát triển thị
trường tài chính Việt Nam. TPDN không
chỉ một công cụ huy động vốn hiệu quả
cho các doanh nghiệp còn một kênh
đầu hấp dẫn cho các NHTM. Qua đó,
NHTM thể đa dạng hóa danh mục tài
sản, tăng cường khả năng quản lý rủi ro và
ổn định nguồn thu nhập từ lãi suất (Balyuk,
2019). Trong thời gian qua, nhu cầu về vốn
của các doanh nghiệp tăng cao, đặc biệt
trong các lĩnh vực sở hạ tầng, công nghệ
năng lượng (Le, 2019; Cowling & Liu,
2021). Do đó, việc đầu vào TPDN đã
trở thành một lựa chọn chiến lược cho các
NHTM nhằm gia tăng lợi nhuận đảm
bảo tính thanh khoản.
Tuy nhiên, hoạt động đầu TPDN tại
Việt Nam vẫn gặp nhiều thách thức, từ
việc thiếu hụt khung pháp chặt chẽ đến
sự thiếu minh bạch trong thông tin về các
doanh nghiệp phát hành. Điều này không
chỉ ảnh hưởng đến quyết định đầu của
các NHTM còn làm giảm tính hấp dẫn
của thị trường TPDN đối với các nhà đầu
cá nhân và tổ chức. Để khắc phục những
hạn chế này, việc nghiên cứu áp dụng
các bài học từ kinh nghiệm quốc tế rất
cần thiết. Nhiều quốc gia như Hoa Kỳ,
Vương Quốc Anh Trung Quốc đã phát
triển thị trường TPDN một cách mạnh mẽ
với những chế pháp chính sách
quản đa dạng. Tại Hoa Kỳ, hoạt động
kinh doanh TPDN bắt đầu phát triển từ đầu
thế kỷ 20 đã trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau, từ những quy định nghiêm ngặt
sau cuộc Đại khủng hoảng đến sự phát
triển mạnh mẽ trong giai đoạn 1980- 2000.
Vương Quốc Anh Trung Quốc cũng đã
có những bước tiến đáng kể trong việc xây
dựng khung pháp lý và cải cách thị trường,
tạo ra một môi trường đầu ổn định
minh bạch.
Sử dụng phương pháp tổng quan phân
tích tài liệu nghiên cứu tiền nhiệm, bài viết
làm khái niệm mục đích của hoạt
động đầu TPDN của các NHTM. Đồng
thời, bài viết trình bày các kinh nghiệm
quốc tế trong quản hoạt động đầu
TPDN của các NHTM tại Hoa Kỳ, Anh
Trung Quốc, từ đó rút ra những bài học cho
Việt Nam. Những khuyến nghị nhằm cải
thiện hoạt động đầu tư TPDN tại Việt Nam
sẽ được đưa ra, với mục tiêu nâng cao tính
minh bạch, quản rủi ro hiệu quả hơn
bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Qua đó,
chúng ta có thể kỳ vọng vào một thị trường
TPDN vững mạnh bền vững trong tương
lai, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của
đất nước.
2. Khái niệm mục đích hoạt động đầu
tư trái phiếu doanh nghiệp của các ngân
hàng thương mại
2.1. Khái niệm trái phiếu doanh nghiệp
Về khái niệm, trái phiếu các chứng
khoán nợ trung và dài hạn, được phát hành
bởi chính phủ hay các công ty, trong đó,
người phát hành cam kết thanh toán tiền
lãi suất (coupon) định kỳ hàng năm hoặc
nửa năm hoàn trả tiền gốc khi đến hạn
(Nguyễn Văn Tiến, 2019). Tại Việt Nam,
Quản lý hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng thương mại:
Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
16 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
Luật Chứng khoán năm 2019 định nghĩa
trái phiếu loại chứng khoán xác nhận
quyền lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với một phần nợ của tổ chức phát hành.
Trong khi đó, Nghị định 155/2020/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Chứng khoán đã định nghĩa chi tiết
hơn về trái phiếu loại chứng khoán
kỳ hạn từ 01 năm trở lên do doanh nghiệp
phát hành, xác nhận quyền lợi ích hợp
pháp của người sở hữu đối với một phần
nợ của tổ chức phát hành. Theo đó, thể
hiểu TPDN là một loại chứng khoán nợ do
các công ty phát hành để huy động vốn từ
các nhà đầu tư. Khi mua TPDN, nhà đầu tư
thực chất cho công ty vay tiền với cam kết
nhận lại số tiền gốc cùng với lãi suất trong
một khoảng thời gian nhất định. TPDN
thường các đặc điểm như mệnh giá,
lãi suất coupon kỳ hạn, tương tự như
các loại trái phiếu khác. Lợi ích chính của
TPDN khả năng tạo ra nguồn thu nhập
ổn định cho các nhà đầu thông qua các
khoản lãi suất định kỳ. Lãi suất này thường
được xác định tại thời điểm phát hành
thể dao động tùy thuộc vào độ tín nhiệm
của doanh nghiệp, mức độ rủi ro tình
hình thị trường.
2.2. Hoạt động đầu trái phiếu doanh
nghiệp của các ngân hàng thương mại
Mặc một hoạt động thông thường
của các NHTM, tuy nhiên, cho đến nay
vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nghiên
cứu hay văn bản về khái niệm “hoạt động
đầu tư TPDN của các NHTM”. Theo Rose
(2002), các ngân hàng thường phân bổ từ
1/5 đến 1/3 tổng tài sản sinh lời cho hoạt
động đầu chứng khoán. Trong đó, các
chứng khoán chủ yếu bao gồm tín phiếu và
trái phiếu Chính phủ, tín phiếu TPDN,
các loại hình chứng khoán nợ khác và một
lượng cổ phiếu hạn chế theo quy định của
pháp luật. Nghiên cứu này cho rằng, việc
nắm giữ chứng khoán có vai trò quan trọng
giúp các ngân hàng gia tăng thu nhập,
tăng cường thanh khoản tính đa dạng
trong danh mục tài sản của mình, qua đó
hạn chế rủi ro, giảm nghĩa vụ chịu thuế
đối với một phần thu nhập. Tại Việt Nam,
theo Luật Chứng khoán năm 2019, hai
khái niệm “đầu tư” và “kinh doanh” chứng
khoán được phân biệt. Khoản 15 Điều 4
đưa ra khái niệm: “Đầu chứng khoán
việc mua, bán, nắm giữ chứng khoán của
nhà đầu trên thị trường chứng khoán”,
trong khi đó Khoản 28 Điều 4 Luật này
giải thích thuật ngữ “Kinh doanh chứng
khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới
chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán, vấn đầu
tư chứng khoán, quản lý quỹ đầu chứng
khoán, quản danh mục đầu chứng
khoán và cung cấp dịch vụ về chứng khoán
theo quy định tại Điều 86 của Luật này”.
Như vậy, khái niệm “kinh doanh” nội
hàm bao quát hơn, không chỉ liên quan đến
hoạt động tự doanh, mua bán chứng khoán
nhằm tìm kiếm lợi nhuận mà còn bao gồm
cả các hoạt động phục vụ khách hàng nhằm
thu phí như môi giới, tư vấn, bảo lãnh phát
hành chứng khoán… (Luật Chứng khoán,
2019).
Do thiếu vắng các công trình nghiên cứu
đưa ra khái niệm về hoạt động đầu
TPDN của các NHTM, vậy, bài viết đề
xuất khái niệm như sau: hoạt động đầu
trái phiếu doanh nghiệp của các ngân hàng
thương mại hoạt động sử dụng vốn của
ngân hàng thương mại để mua các trái
phiếu do doanh nghiệp phát hành trên thị
trường sơ cấp hay thị trường thứ cấp, và có
thể nắm giữ chúng cho đến ngày đáo hạn
hoặc bán ra trên thị trường thứ cấp, nhằm
mục đích cung cấp nguồn dự phòng thanh
khoản cho ngân hàng, đồng thời đa dạng
hóa danh mục tài sản nhằm phân tán rủi ro.
NGUYỄN VĂN TIẾN - NGUYỄN NHẬT MINH - PHẠM PHÚ MINH
17
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Về mục đích, các NHTM đầu TPDN với
ba mục đích chính sau đây. Thứ nhất, hoạt
động đầu TPDN giúp các ngân hàng
thu nhập từ lãi suất trái phiếu. Khi ngân
hàng đầu vào TPDN, họ thường nhận
được lãi suất định kỳ, giúp duy trì dòng
tiền vào ổn định. Điều này rất quan trọng
trong bối cảnh các ngân hàng phải đảm bảo
khả năng thanh khoản chi trả các nghĩa
vụ tài chính của mình. Ngoài ra, TPDN
thường có lãi suất cao hơn so với trái phiếu
chính phủ, tạo ra cơ hội cho ngân hàng gia
tăng lợi nhuận. Việc đầu vào các doanh
nghiệp uy tín tiềm năng tăng trưởng
cũng giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro tín
dụng, đảm bảo rằng nguồn thu nhập từ lãi
suất sẽ không bị gián đoạn. Thứ hai, hoạt
động đầu TPDN cho phép các ngân hàng
giảm thiểu rủi ro. Theo đó, việc đa dạng hóa
danh mục đầu một chiến lược quan
trọng. Khi ngân hàng đầu tư vào nhiều trái
phiếu từ các doanh nghiệp khác nhau, họ
thể phân tán rủi ro tín dụng. Nếu một doanh
nghiệp gặp khó khăn tài chính không thể
trả nợ, tác động đến toàn bộ danh mục đầu
tư sẽ được hạn chế, giúp ngân hàng bảo vệ
vốn. Ngoài ra, ngân hàng thường thực hiện
các phân tích sâu sắc về tình hình tài chính
và khả năng sinh lời của các doanh nghiệp
phát hành trái phiếu. Bằng cách xác định
được những doanh nghiệp uy tín
khả năng phát triển bền vững, ngân hàng
thể lựa chọn các trái phiếu rủi ro thấp
hơn. Điều này không chỉ giảm thiểu khả
năng vỡ nợ còn tối ưu hóa lợi suất từ
các khoản đầu tư. Thứ ba, hoạt động đầu tư
trái phiếu cung cấp dự trữ thanh khoản
cho ngân hàng trong trường hợp cần thiết
nhờ vào tính thanh khoản của trái phiếu.
TPDN thường có thời hạn đáo hạn cố định,
với lãi suất được xác định ràng, giúp
ngân hàng dự đoán được dòng tiền vào từ
lãi suất trong suốt thời gian nắm giữ, từ đó
tạo ra một nguồn thu nhập ổn định và củng
cố khả năng thanh toán của ngân hàng.
Ngoài ra, TPDN có thể được giao dịch trên
thị trường thứ cấp, cho phép ngân hàng dễ
dàng mua bán chúng khi cần thiết để thu
hồi vốn. Trong trường hợp ngân hàng
nhu cầu thanh khoản đột xuất, họ thể
nhanh chóng bán trái phiếu để chuyển đổi
thành tiền mặt không gặp quá nhiều
khó khăn. Tính thanh khoản cao của TPDN
giúp ngân hàng duy trì khả năng chi trả
đáp ứng các yêu cầu tài chính khẩn cấp.
3. Kinh nghiệm quốc tế về quản hoạt
động đầu trái phiếu doanh nghiệp của
các ngân hàng thương mại
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc phát
triển hoạt động đầu TPDN của các
NHTM phụ thuộc vào sự phát triển của
thị trường tài chính tại từng quốc gia trong
mỗi giai đoạn phát triển. Do đó, các
chế, chính sách và khung khổ pháp lý điều
chỉnh hoạt động này cũng sự thay đổi
phù hợp theo từng giai đoạn, nhằm đảm
bảo các mục tiêu phát triển, cũng như thích
ứng với sự phức tạp ngày càng tăng của thị
trường trái phiếu và hệ thống NHTM.
3.1. Kinh nghiệm từ Hoa Kỳ
Hoạt động kinh doanh TPDN tại các
NHTM tại Hoa Kỳ lịch sử phát triển kéo
dài hơn một thế kỷ. Các giai đoạn chính và
các chính sách quan trọng ảnh hưởng
tới sự hình thành và tổ chức thực hiện hoạt
động này thể được chia thành các mốc
thời gian sau:
- Giai đoạn đầu (thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20).
Vào cuối thế kỷ 19, các NHTM tại Hoa Kỳ
chủ yếu tập trung vào việc cho vay ngắn
hạn các khoản tín dụng trực tiếp. Hoạt
động TPDN tại thời điểm này chưa phát
triển mạnh; trái phiếu chủ yếu do các công
ty lớn và Chính phủ phát hành.
Quản lý hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng thương mại:
Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
18 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
- Giai đoạn giữa thế kỷ 20 (1930- 1960).
Sau cuộc đại khủng hoảng (1929- 1933),
các NHTM Hoa Kỳ bắt đầu tham gia vào
việc cung cấp dịch vụ phát hành TPDN.
Trong giai đoạn này, các NHTM đóng vai
trò quan trọng giúp các doanh nghiệp huy
động vốn thông qua phát hành trái phiếu
trong bối cảnh nền kinh tế dần phục hồi.
Vào những năm 1930, trong bối cảnh Đại
khủng hoảng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
bắt đầu can thiệp vào các thị trường tài
chính để bảo vệ nền kinh tế hệ
thống ngân hàng. Theo đó, Đạo luật Glass-
Steagall (1933) (Maues, 2013) được thông
qua nhằm tách biệt hoạt động NHTM
hoạt động ngân hàng đầu tư. Mục tiêu
chính của đạo luật ngăn ngừa rủi ro tài
chính các NHTM thể gây ra nếu
tham gia vào các hoạt động đầu và kinh
doanh chứng khoán. Các NHTM không
được phép tham gia vào các hoạt động như
mua bán chứng khoán hoặc tham gia vào
các hoạt động đầu tư khác.
- Giai đoạn phát triển mạnh mẽ (1980-
2000). Trong những năm 1980 1990, thị
trường TPDN tại Mỹ phát triển mạnh mẽ.
Các NHTM bắt đầu tham gia vào việc môi
giới TPDN, đồng thời cung cấp dịch vụ
vấn tài chính phát hành trái phiếu cho
các công ty lớn nhỏ. Sự phát triển của
thị trường tài chính việc giảm bớt các
quy định của Chính phủ về các hoạt động
ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc giao dịch TPDN. Điều này đạt được
nhờ Đạo luật Gramm-Leach-Bliley được
ban hành năm 1999 (Lâm Chí Dũng, 2015)
với một trong những quy định quan trọng
bãi bỏ các điều khoản trong Đạo luật
Glass-Steagall (1933) về phân chia hoạt
động NHTM hoạt động ngân hàng đầu
tư. Điều này tạo ra các công ty tài chính/
ngân hàng đa năng, cho phép các tổ chức
tài chính cung cấp nhiều dịch vụ hơn
không bị ràng buộc bởi các quy định phân
chia ngành nghề.
- Giai đoạn sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu (2008 - nay). Khủng hoảng tài chính
năm 2008 đã ảnh hưởng sâu rộng đến
thị trường TPDN theo đó các NHTM
tại Mỹ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy
nhiên, sau đó hệ thống ngân hàng được
tái cấu trúc và các quy định mới về vốn
khả năng thanh toán được áp dụng để bảo
vệ các NHTM khỏi các rủi ro lớn. Trong
những năm gần đây, việc phát hành TPDN
tại Mỹ đã được cải thiện các NHTM
đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
các dịch vụ tài chính cho các công ty. Các
ngân hàng lớn như JPMorgan Chase, Bank
of America và Citigroup tiếp tục phát triển
các hoạt động môi giới, vấn phát hành
TPDN. Trong giai đoạn này, một số quy
định chính sách quan trọng được ban hành
áp dụng như: (i) Đạo luật Dodd-Frank
(2010) tập trung cải cách các quy định về
tài chính; tăng cường giám sát đối với các
ngân hàng và tổ chức tài chính, nhằm giảm
thiểu rủi ro hệ thống. Các NHTM phải tuân
thủ các yêu cầu nghiêm ngặt hơn về vốn
minh bạch tài chính, đồng thời phải đối
mặt với sự giám sát chặt chẽ từ các quan
như FED và Ủy ban Chứng khoán và Giao
dịch Hoa Kỳ (SEC) (Nguyễn Ngọc Mạnh,
2023); (ii) Quy định Basel III (2011) nhằm
tăng cường các yêu cầu vốn thanh khoản
cho các NHTM. Đối với hoạt động kinh
doanh TPDN, các ngân hàng phải duy trì
một lượng vốn tối thiểu để phòng ngừa
ứng phó trước các rủi ro liên quan đến thị
trường trái phiếu các tài sản tài chính
khác (Bank for International Settlements,
2011); (iii) Các quy định của SEC
FINRA, cụ thể SEC FINRA đã xây
dựng ban hành các quy định liên quan
đến việc phát hành, giao dịch giám sát
hoạt động kinh doanh TPDN. Các quy định
này nhằm bảo vệ nhà đầu đảm bảo
tính minh bạch trong các giao dịch TPDN.