Nguyễn Thị Bảo Ngọc1, Nguyễn Hữu Minh Hiếu2, Trần Đức Mạnh3, Trần Thị Hồng Hạnh4, Trần Phương Thảo5, Trần Thị Quế Tâm6 Trường Đại học Tài chính - Marketing, Việt Nam

Empirical study on the impact of foreign direct investment on exports: The Bayes approach

and consider the role of intermediary factors

Abstract: The article aims to analyze the impact of foreign direct investment on export activities of countries around the world when considering the role of exchange rates and accession to the World Trade Organization (WTO). The Bayesian method is used to process data from 40 countries in the period 1995- 2021, including 20 countries belonging to the WTO and 20 countries not belonging to the WTO. Research results show that FDI has a positive impact on countries' exports, especially for countries that have joined the WTO and when that country's real exchange rate decreases. Besides, the inflation rate, GDP growth rate, and trade openness have an impact on increasing exports. Domestic investment capital has the effect of inhibiting the export activities of countries. The government and policymakers need to focus on creating a favorable environment for foreign investors such as: Towards one-stop service; Support research and development of export products; Have an appropriate foreign policy. Besides, it is necessary to have a timely exchange rate adjustment policy to promote export activities.

Keywords: Exports, Foreign direct investment, Exchange rate, WTO accession Doi: 10.59276/JELB.2024.11.2706

Nguyen, Thi Bao Ngoc1, Nguyen, Huu Minh Hieu2, Tran, Duc Manh3, Tran, Thi Hong Hanh4, Tran, Phuong Thao5, Tran, Thi Que Tam6 Email: ntb.ngoc@ufm.edu.vn1, hieuminh1232003@gmail.com2, manhpro8xxx1503@gmail.com3, honghanhtranthi2512@gmail.com4, thaothao18062003@gmail.com5, tranquetam3102003@gmail.com6 Organization of all: University of Finance-Marketing, Vietnam

và khi tỷ giá hối đoái thực của quốc gia đó giảm. Bên cạnh đó, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng GDP, độ mở thương mại có tác động làm gia tăng xuất khẩu. Vốn đầu tư trong nước có tác động làm kìm hãm hoạt động xuất khẩu của các quốc gia. Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách cần tập trung đến việc tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: Hướng tới dịch vụ một cửa; Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển sản phẩm xuất khẩu; Có chính sách đối ngoại phù hợp. Bên cạnh đó cần có chính sách điều chỉnh tỷ giá kịp thời để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.

Từ khóa: Xuất khẩu, Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Tỷ giá hối đoái, Gia nhập WTO

1. Giới thiệu

FDI là một nguồn vốn gián tiếp hiệu quả để giúp các quốc gia tiếp cận được công nghệ tiên tiến và nâng cao chất lượng xuất khẩu vì nó là một nguồn tài chính và một nhóm tài sản tiềm năng phi nợ, như vốn, công nghệ, tiếp cận thị trường (nước ngoài), việc làm, kỹ năng, kỹ thuật quản lý và môi trường, trong đó có thể giải quyết các vấn đề về tăng trưởng thu nhập thấp, thiếu hụt tiết kiệm, đầu tư, xuất khẩu và thất nghiệp. Vai trò của nguồn vốn FDI với hoạt động xuất khẩu đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và chứng minh bằng những nghiên cứu thực nghiệm. Bằng mô hình, phương pháp và cách tiếp cận khác nhau, hầu hết các nghiên cứu này đều cho thấy FDI có tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của mỗi quốc gia, như nghiên cứu của Bhatt (2013, 2014); Purusa và Istiqomah (2018); Zhang và Song (2001). Điển hình gần đây có nghiên cứu của Hassan và Abd-Elmotaal (2021); Karimov (2020); Popovici (2018) đều chỉ ra rằng, FDI có tác động tích cực và có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động xuất khẩu của các quốc gia. Tuy nhiên cũng có một vài nghiên cứu chỉ ra rằng tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử, thời gian và đặc điểm của mỗi quốc gia mà mối quan hệ này có thể là cùng chiều hoặc ngược chiều hoặc không có tác động đáng

kể đến nhau (Gebremariam và cộng sự, 2022; Popovici, 2018). Từ những nghiên cứu đã được lược khảo, nhóm tác giả nhận thấy rằng vẫn chưa có sự đồng nhất trong quan điểm về mối quan hệ cũng như chiều tác động của FDI đến hoạt động xuất khẩu. Nhóm tác giả muốn cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm chứng minh rằng FDI có thực sự thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các quốc gia hay không. Bên cạnh đó, vai trò của tỷ giá hối đoái và sự gia nhập WTO của các quốc gia cũng cần được xem xét khi nghiên cứu tác động của FDI đến hoạt động xuất khẩu, điều mà trước đây chưa được nhiều nghiên cứu đề cập đến. Theo học thuyết ngang giá sức mua (Cassel, 1918) thì tỷ giá có mối quan hệ với lạm phát, hay nói cách khác tỷ giá thay đổi sẽ dẫn đến giá cả hàng hóa thay đổi và ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu của quốc gia đó. Không những vậy, sự thay đổi của tỷ giá ảnh hưởng đến tình hình lạm phát của quốc gia thì cũng ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào quốc gia đó. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008 đã minh chứng cho điều này. Khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra, tình trạng khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ dẫn đến sự sụt giảm FDI rõ rệt ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia

57

đang phát triển. Hơn thế nữa, với xu thế hội nhập của nền kinh tế, sự gia nhập vào các tổ chức lớn như WTO, IMF,… là điều tất yếu và cần thiết đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia mới nổi vì nó sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia đó. Thế nhưng yếu tố hội nhập vẫn chưa được đưa vào nhiều nghiên cứu để xem xét liệu nó có ảnh hưởng đến tác động của FDI đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia hay không. Với những phân tích trên, nhóm tác giả đã quyết định lựa chọn chủ đề: “Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu: Phương pháp tiếp cận Bayes và xem xét vai trò của các yếu tố trung gian”. Bài báo gồm có 5 phần. Ngoài phần 1 giới thiệu, phần 2 trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu. Phần 3 mô tả dữ liệu nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong khi phần 4 thể hiện kết quả hồi quy bằng phương pháp Bayes và phần 5 đưa ra kết luận cùng hàm ý chính sách.

2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và xuất khẩu Các học thuyết thương mại cổ điển của Ricardo (1817) và Heckscher-Ohlin cho rằng các yếu tố sản xuất trên phạm vi quốc tế có tính bất động (Abor và cộng sự, 2008). Mundell (1957) đã dựa trên mô hình H-O, giả định rằng các yếu tố sản xuất như vốn và lao động không bất động mà di chuyển giữa hai quốc gia ở một mức độ nhất định do sự khác biệt về giá giữa các quốc gia. Khi đó, giá ở cả hai thị trường hàng hóa và sản xuất sẽ có xu hướng cân bằng giữa các quốc gia. Tuy nhiên, theo Markusen (1983) thì sự di chuyển của các yếu tố sản xuất (vốn và lao động) và thương mại quốc tế là

hoạt động mang tính bổ sung. Horst (1976) có cùng quan điểm với lý thuyết bổ sung và ông lập luận rằng doanh nghiệp đa quốc gia (MNE) tham gia vào các hoạt động phi sản xuất, không tham gia trực tiếp đến hoạt động sản xuất ra hàng hóa với nước sở tại dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đối với các loại hàng hóa khác ở địa phương, có thể làm tăng xuất khẩu. Trước đây đã có rất nhiều nghiên cứu về tác động của FDI đến xuất khẩu của các quốc gia trên thế giới. Đa số các nghiên cứu đều chỉ ra rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động tích cực đến xuất khẩu. Nghiên cứu của Zhang và Song (2001); Purusa và Istiqomah (2018) đã chỉ ra đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động vô cùng tích cực tới nền xuất khẩu của các quốc gia và thậm chí còn tác động mạnh mẽ hơn so với tác động của vốn đầu tư trong nước. Majeed (2006) phân tích các yếu tố quyết định xuất khẩu ở các nước đang phát triển và kết quả cho thấy tác động của FDI đối với xuất khẩu là tích cực nhưng không đáng kể. Popovici (2018) cũng nghiên cứu về mối quan hệ này nhưng có kiểm tra sự khác biệt về tác động của FDI đối với thương mại trong cả lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Kết quả thực nghiệm cho thấy tác động của FDI đối với xuất khẩu là khác nhau tùy thuộc vào nhóm quốc gia và loại hoạt động kinh tế (Bhatt 2013, 2014; Basilgan và Akman, 2019; Karimov, 2020; Mukhtarov và cộng sự, 2019; Prasanna, 2010; Selimi và cộng sự, 2016 có kết quả cũng tương tự). Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy tác động tích cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế như nghiên cứu của Hassan và Abd-Elmotaal (2021) nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu nông sản, Islam (2022) và Ahmed và cộng sự (2023) nghiên cứu vai trò của dòng vốn trực tiếp nước ngoài đối với hiệu quả xuất khẩu, Do và cộng sự (2022) nghiên cứu về vấn đề tác

58

nền kinh tế, các nghiên cứu đều cho thấy rằng khi đồng nội tệ mất giá khiến giá xuất khẩu trong nước giảm, dẫn đến nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu (Bernard và Jensen, 2004; Staiger và Sykes, 2010).

động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới xuất khẩu ở Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó, có một số nghiên cứu đưa ra nhận định vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động ngược chiều với xuất khẩu hoặc không có tác động đáng kể. Điển hình có nghiên cứu của Gebremariam và cộng sự (2022) kiểm tra mối quan hệ thực nghiệm giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và hiệu suất xuất khẩu ở Ethiopia bằng cách sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian hàng năm trong giai đoạn 1992-2018 và cho thấy mối quan hệ giữa FDI và hiệu suất xuất khẩu là không đáng kể. Banzouzi và cộng sự (2022) tìm hiểu tác động của vốn đầu tư nước ngoài (Trung Quốc) tới xuất khẩu của Congo trong khoảng 2005-2014 và đưa ra nhận định rằng xuất khẩu của Congo chịu tác động tiêu cực của vốn đầu từ nước ngoài trong ngắn và dài hạn (Jawaid và cộng sự, 2016; Sargasyan và Grigoryan, 2017 có kết quả tương tự).

Vai trò của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ giữa FDI và xuất khẩu: Trong nghiên cứu về thị trường Nhật Bản, Iwaisako và Nakata (2017) nhận thấy rằng biến động tỷ giá hối đoái có liên quan đáng kể với những thay đổi trong xuất khẩu trong những năm 1980 ở Nhật Bản. Theo lý thuyết, sự tăng giá của đồng tiền quốc gia làm giảm xuất khẩu vì lúc này giá hàng hóa trong nước sẽ đắt hơn so với hàng hóa nước ngoài. Muhammad và cộng sự (2018) đã xác định tác động của biến động tỷ giá hối đoái thực đối với dòng vốn FDI chảy vào Nigeria từ năm 1970 đến năm 2014. Kết quả cho thấy tính biến động của tỷ giá hối đoái khiến các nhà đầu tư nước ngoài hoài nghi hơn với sự gia tăng bất ổn. Sự gia tăng bất ổn có thể ngăn cản dòng vốn FDI vào quốc gia này. Đã có rất nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và hiệu quả xuất khẩu trong

Vai trò của việc gia nhập WTO trong mối quan hệ giữa FDI và xuất khẩu Ngày nay, hội nhập kinh tế thế giới là một xu thế tất yếu, chỉ có gia nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia mới mở rộng được thị trường xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư và tiêu thụ sản phẩm. Khi gia nhập WTO, các nước phải cam kết về sự ổn định và minh bạch trong môi trường kinh doanh. Điều này làm gia tăng sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài, do đó, có thể làm tăng nguồn cung FDI. Bên cạnh đó, các quốc gia cũng thực hiện các chính sách mở cửa thị trường, giảm bớt rào cản thương mại, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất khẩu. Theo nghiên cứu của Eicher và Henn (2011) thì các quốc gia đồng ý với việc cắt giảm thuế quan trong quá trình đàm phán với các thành viên WTO thì những tác động tích cực đối với thương mại càng rõ ràng. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Van và cộng sự (2011) kết luận rằng gia nhập WTO có tác động tích cực đến sự đa dạng của hàng hóa xuất khẩu (một quốc gia bắt đầu kinh doanh các sản phẩm mới), nhưng đối với các sản phẩm xuất khẩu hiện tại thì tác động này là tiêu cực. Những kết quả trong nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng các đặc điểm kinh tế của quốc gia có tác động lớn đến thương mại trong WTO. Diệp và cộng sự (2018) phân tích các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2005- 2017. Kết quả ước lượng mô hình cho thấy việc gia nhập WTO là một trong các yếu tố tác động đến xuất khẩu và nó có tác động cùng chiều.

59

logic và thực tế hơn, độ tin cậy cao hơn so với các phương pháp truyền thống trước đây (Thach, 2020).

3. Mô hình, biến và dữ liệu

3.1. Mô hình

Qua phần lược khảo, nhóm tác giả nhận thấy vẫn còn một số khía cạnh nghiên cứu liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và xuất khẩu cần được khai thác làm rõ thêm và đây cũng là khoảng trống nghiên cứu mà nhóm tác giả cần lấp đầy: (1) Nhóm tác giả muốn cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm để chứng minh tác động tích cực của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu trong dài hạn vì chưa có sự thống nhất trong nhận định về chiều tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu của các quốc gia; (2) Nghiên cứu của nhóm tác giả đã xác định tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu bằng cách đưa biến giả WTO vào mô hình, điều mà ít được các nghiên cứu trước đây xem xét trong khi đó nghiên cứu của Van và cộng sự (2011) kết luận rằng gia nhập WTO có tác động tích cực đến sự đa dạng của hàng hóa xuất khẩu; (3) Theo lập luận ở trên thì việc gia nhập WTO và tỷ giá hối đoái có mối quan hệ với FDI và xuất khẩu nhưng có rất ít nghiên cứu xem xét vai trò của hai yếu tố này khi nghiên cứu tác động của FDI đến xuất khẩu nên nhóm tác giả đã đưa hai biến tương tác là FDIW (FDI với WTO) và FDIE (FDI với tỷ giá hối đoái) vào mô hình. Đây cũng là một điểm mới của nghiên cứu. Về phương pháp nghiên cứu, nhóm tác giả cũng nhận thấy các nghiên cứu trước đây chủ yếu sử dụng các phương pháp kinh tế lượng tần suất như PoolOLS, FEM, REM, GLS, GMM nhưng các phương pháp này tồn tại một số nhược điểm như cần có kích thước mẫu đủ lớn, cần có những giả định không phù hợp trong thực tế (khó có thể đạt được trong thực tế), không khắc phục được các khuyết tật của mô hình. Thêm vào đó, giá trị tần suất P chỉ ước tính được mức độ ý nghĩa của một dữ kiện chứ không cho chúng ta biết mức độ ý nghĩa của một giả thuyết. Do đó nhóm tác giả sử dụng phương pháp Bayes vì tính

Căn cứ vào các nghiên cứu của Diệp và cộng sự (2018); Majeed và cộng sự (2006); Popovici (2018), nhóm tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu thực nghiệm (1) để nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu: EXi,t = αo + βxFDIi,t + βyXi,t + εi,t (1) Theo Majeed và cộng sự (2006); Nguyen và cộng sự (2020), nhóm tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu thực nghiệm (2) để nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu có xem xét vai trò của sự gia nhập WTO và tỷ giá hối đoái (E): EXi,t = αo + βxFDIi,t + βy FDIWi,t + βz FDIEi,t + βk Xi,t + εi,t (2) Trong đó: i là quốc gia và t là thời gian EX là xuất khẩu của nước i trong năm t FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước i trong năm t; FDIW là biến tương tác giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự gia nhập WTO của nước i trong năm t; FDIW = FDI*WTO trong đó FDI là vốn đầu tư trưc tiếp nước ngoài được tính bằng % của GDP và WTO là biến giả (nhận giá trị 1 tại thời điểm các quốc gia đã gia nhập WTO và ngược lại sẽ nhận giá trị 0). Việc đề xuất biến theo gợi ý của Van và cộng sự (2011). FDIE là biến tương tác giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và tỷ giá hối đoái thực của nước i trong năm t; FDIE = FDI*E. Trong đó E là tỷ giá hối đoái thực (giá nước ngoài so với giá trong nước). Theo học thuyết ngang giá sức mua (PPP) được Cassel phát triển vào năm 1918 đã cho thấy tỷ giá hối đoái có mối quan hệ mật thiết với FDI và

60

xuất khẩu. X là tập hợp các biến kiểm soát bao gồm E- tỷ giá hối đoái thực, NC- vốn đầu tư trong nước, IF- tỷ lệ lạm phát, GDPg- tốc độ tăng trưởng kinh tế, TRADE- độ mở thương mại, WTO- hội nhập (sự gia nhập WTO); ε là sai số.

3.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

liệu quan sát được là cố định và thông số của mô hình là ngẫu nhiên. Phân phối hậu nghiệm của các thông số sẽ được ước tính dựa trên mẫu quan sát được và phân phối tiên nghiệm của thông số đó và sử dụng nó để diễn giải kết quả. Sự diễn giải dựa trên phân phối mẫu của dữ liệu hoặc đặc tính thống kê của dữ liệu. Nói cách khác, phân tích Bayesian trả lời câu hỏi dựa trên phân phối của thông số có điều kiện của mẫu quan sát được. Về phần xử lý số liệu, do phương pháp Bayes không bị phụ thuộc vào kích thước mẫu nên nhóm tác giả sau khi thu thập dữ liệu thì đối với các dữ liệu bị thiếu sót, nhóm vẫn bảo lưu và về cơ bản số quan sát của các biến cũng không bị trống quá nhiều. Trong 8 biến của mô hình thì có 3 biến đủ dữ liệu (1.080 quan sát), 4 biến có 1.026 quan sát và chỉ có 1 biến có 999 quan sát. Các biến đều được đo lường với đơn vị %, chỉ trừ biến WTO là biến giả nên nhận 2 giá trị (0 và 1).

4. Kết quả và thảo luận

4.1. Thống kê mô tả

Bài viết sử dụng bộ dữ liệu bảng của 40 nước trong đó có 20 nước thuộc tổ chức WTO và 20 nước không thuộc tổ chức WTO trong giai đoạn 1995- 2021. Mặc dù Hiệp định GATT 1947 là hiệp định quốc tế nhiều bên duy nhất điều chỉnh quan hệ thương mại hàng hoá trên phạm vi toàn cầu từ năm 1948 nhưng đến năm 1995 thì tổ chức WTO mới ra đời và liên tục tiếp nhận các thành viên cho đến nay. Tuy nhiên để đảm bảo bộ dữ liệu có độ bao phủ và không bị khuyết quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến kết quả nhiên cứu nên nhóm tác giả mới chỉ cập nhật dữ liệu đến năm 2021. Các dữ liệu này đã được tổng hợp từ các nguồn đáng tin cậy như: World Bank, World Trade Organization để nghiên cứu tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu của các quốc gia trong và ngoài tổ chức WTO. Nguồn dữ liệu và cách đo lường của các biến được nhóm tác giả trình bày trong Bảng 1.

Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả lấy mẫu của 40 nước trong đó có 20 nước thuộc tổ chức WTO và 20 nước không thuộc tổ chức WTO trong giai đoạn 1995- 2021. Trước khi tiến hành hồi quy thì tác giả tiến hành thống kê mô tả các biến liên quan đến xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và các biến khác. Kết quả cụ thể được trình bày trong Bảng 2.

4.2. Kết quả từ hồi quy Bayes

Phương pháp nghiên cứu Trong thống kê Bayes, với việc dữ liệu nghiên cứu được kết hợp với thông tin tiên nghiệm để tính toán phân phối hậu nghiệm, và kết quả được diễn giải dưới dạng phân phối xác suất các giá trị tham số, bất kể kích thước mẫu, do vậy, phương pháp Bayes có thể khắc phục được nhược điểm mẫu nhỏ trong các nghiên cứu (Zondervan- Zwijnenburg và cộng sự, 2017). Cách tiếp cận Bayes dựa trên giả định rằng mẫu dữ

Từ kết quả hồi quy tuyến tính Bayes của phương trình 1 (Bảng 3) và phương trình 2 (Bảng 4) cho thấy thuật toán MCMC đạt hiệu quả khi lấy mẫu. Đồng thời, các chuỗi

61

p ợ h g n ổ t ả i g c á t

m ó h N

l

n ồ u g N

o ả h k m a h t

: n ồ u g N

j

j

j

j

i

i

i

; ) 9 1 0 2 ( ự s g n ô c à v v o r a t h k u M

; ) 6 0 0 2 ( ự s g n ộ c à v d e e a M

) 8 1 0 2 ( ự s g n ộ c à v p ệ D

; ) 8 1 0 2 ( i c i v o p o P

; ) 1 2 0 2 ( l a a t o m E - d b A à v n a s s a H

; ) 8 1 0 2 ( h a m o q i t s I à v a s u r u P

; ) 1 0 0 2 ( g n o S à v g n a h Z

) 8 1 0 2 ( i c i v o p o P

) 8 1 0 2 ( ự s g n ộ c à v p ệ D

; ) 4 1 0 2 ( t t a h B

) 8 1 0 2 ( ự s g n ộ c à v p ệ D

; ) 8 1 0 2 ( h a m o q i t s I à v a s u r u P

) 6 0 0 2 ( ự s g n ộ c à v d e e a M

; ) 8 1 0 2 ( i c i v o p o P

) 6 0 0 2 ( ự s g n ộ c à v d e e a M

; ) 6 0 0 2 ( ự s g n ộ c à v d e e a M

u ệ i l

n ồ u g N

ữ d

k n a B d l r o W

k n a B d l r o W

k n a B d l r o W

k n a B d l r o W

k n a B d l r o W

k n a B d l r o W

k n a B d l r o W

e d a r T d l r o W

n o i t a z i n a g r O

-

+

+

+

+

+

+

+

g n ọ v ỳ K

)

)

%

%

i

( i

a ủ c %

( a đ

i

ớ v o s u a s

i

) P D G a ủ c %

( c ớ ư n g n o r t á g

m ă n

i

I

i

g n ờ ư

l

h n ì h ô m g n o r t g n ụ d ử s n ế i b c á c ả t ô M

p ậ h n a g ã đ

i

o Đ

)

a ủ c u ẩ h k t ấ u x à v u ẩ h k p ậ h n

%

) P D G a ủ c %

. 1 g n ả B

i

i

i

i

i

i

( c ớ ư r t

i

) P D G a ủ c %

p ậ h n a g a ư h c : ) 2 ( c ặ o h

( u ẩ h k t ấ u x ị r t á g g n ổ T

i à o g n c ớ ư n p ế i t c ự r t ư t u ầ đ n ố v n ồ u g N

(

ớ v o s i à o g n c ớ ư n á G

ộ n ư t u ầ đ n ố v n ồ u g n g n ổ T

) P D G

P C a ủ c g n ộ đ n ế b ự S

m ă n

ộ n c ố u q m ẩ h p n ả s g n ổ t g n ă t a g ự S

ị r t á g g n ổ T

: ) 1 ( ị r t á g n ậ h N

( a g c ố u q

I

u ệ i

E

F I

h

X E

C N

D F

í

O T W

g P D G

E D A R T

K

i

i

c ự h t i á o đ

t á o s

i

n ế i b n ê T

m ể

i

i

i

p ậ h n

i

i

i

i

u ẩ h k t ấ u X

ế t h n k g n ở ư r t g n ă t ộ đ c ố T

ạ m g n ơ ư h t ở m ộ Đ

ộ H

c ớ ư n p ế i t c ự r t ư t u ầ Đ

à o g n

ố h á g ỷ T

k n ế B

c ớ ư n g n o r t ư t u ầ đ n ố V

p ậ l c ộ đ n ế B

t á h p m ạ l ệ l ỷ T

c ộ u h t ụ h p n ế B

62

Bảng 2. Thống kê mô tả các biến

Biến Quan sát Độ lệch chuẩn Giá trị trung bình Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất EX 1,026 43,6913 37,6083 0,0054 228,9938

FDI 1,026 4,0581 8,3843 -2,3452 2,9979

E 999 109,7457 50,6087 10,7965 620,672

NC 1,026 23,7074 8,8879 1,1573 70,3314

IF 1,080 14,5749 92,4822 -31,5659 2630,123

GDPg 1,080 3,5241 8,9736 -50,3385 149,973

TRADE 1,026 88,8644 67,1374 0,0210 437,3267

WTO 1,080 0,4361 0,4961 0 1

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp qua kết quả từ STATA 17

Bảng 3. Kết quả hồi quy (phương trình 1)

Sai số chuẩn Khoảng tin cậy 95% EX Giá trị trung bình FDI 0,0003 -0,0239 0,1487 0,0626

E 0,0000 -0,0276 -0,0040 -0,0157

NC 0,0002 -0,2255 -0,1017 -0,1632

IF 0,0000 -0,0025 0,01188 0,0047

GDPg 0,0002 -0,0446 0,1073 0,0316

TRADE 0,0000 0,5166 0,5409 0,5288

WTO 0,0032 -0,1161 2,0727 0,9821

_cons 0,0048 -0,4939 2,7237 1,1113

var 0,0293 102,5004 122,2441 112,0282

1 Tỷ lệ chấp nhận trung bình

Hiệu quả trung bình nhỏ nhất 0,9764

1 Giá trị chẩn đoán Gelman-Rubin Rc lớn nhất

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp qua kết quả từ STATA 17

MCMC của cả hai mô hình (1) và (2) đều thỏa yêu cầu về hội tụ. Cụ thể, tỷ lệ chấp nhận trung bình của mô hình (1) và (2) lần lượt là 1 và 1; hiệu quả nhỏ nhất trung bình của mô hình phương trình 1 là 0,9764 và phương trình 2 là 0,9801 đều lớn hơn mức cho phép tối thiểu là 0,01 nên chỉ số hiệu quả của các tham số của cả hai phương trình đều lớn hơn 0,01. Ngoài ra, nghiên cứu cần xem xét giá trị Gelman-Rubin Rc, theo

Gelman và Rubin (1992) giá trị chẩn đoán Gelman-Rubin Rc của bất kỳ hệ số nào của mô hình lớn hơn 1,2 thì mô hình sẽ bị xem là không hội tụ. Như vậy nghiên cứu chỉ cần xem xét giá trị Gelman-Rubin Rc lớn nhất trong không vượt quá 1,2. Kết quả tại Bảng 3 và Bảng 4 cho thấy giá trị Gelman- Rubin Rc lớn nhất của mô hình phương trình 1 là 1 và phương trình 2 là 1 đáp ứng được yêu cầu do Gelman và Rubin (1992)

63

Bảng 4. Kết quả hồi quy (phương trình 2)

Sai số chuẩn Khoảng tin cậy 95% EX Giá trị trung bình

0,9686 0,0011 0,6023 1,3422 FDI

-0,0078 0,0000 -0,0198 0,0042 E

-0,1557 0,0002 -0,2179 -0,0931 NC

0,0039 0,0000 -0,0032 0,0110 IF

0,0111 0,0002 -0,0658 0,0869 GDPg

0,5314 0,0000 0,5181 0,5449 TRADE

0,2225 0,0035 -0,9706 1,4183 WTO

0,3406 0,0006 0,1311 0,5516 FDIW

-0,0126 0,0000 -0,0174 -0,0077 FDIE

0,9130 0,0048 -0,7012 2,5277 _cons

0,3092 0,0002 100,2795 119,6172 var

1 Tỷ lệ chấp nhận trung bình

0,9801

1 Hiệu quả trung bình nhỏ nhất Giá trị chẩn đoán Gelman-Rubin Rc lớn nhất

Nguồn : Nhóm tác giả tổng hợp qua kết quả từ STATA 17

Bảng 5. Xác suất hậu nghiệm cho phương trình 1

Độ lệch chuẩn Sai số chuẩn Giá trị trung bình 0,9221 prob1: (EX:FDI) > 0 0,2681 0,0015

0, 9956 prob1: (EX:E) < 0 0,0664 0, 0004

1,0000 prob1: (EX:NC) < 0 0,0000 0,0000

0,9002 prob1: (EX:IF) > 0 0,2997 0, 0017

0, 7962 prob1: (EX:GDPg) > 0 0,4029 0, 0023

1,0000 prob1: (EX:TRADE) > 0 0,0000 0,0000

0,9612 prob1: (EX:WTO) > 0 0,1931 0,0011

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp qua kết quả từ STATA

đề xuất. Bên cạnh sai số chuẩn (Standard Deviation) cho hệ số hồi quy, bảng kết quả hồi quy Bayes còn cung cấp thông số về sai số chuẩn E. Thông số này cho biết tính vững của các chuỗi MCMC. Theo Flegal và cộng sự (2008), sai số chuẩn nhỏ hơn 6,5% thì độ lệch chuẩn là mức chấp nhận được và

sai số chuẩn nhỏ hơn 5% thì độ lệch chuẩn đạt mức tối ưu. Kết quả cho thấy các giá trị sai số chuẩn của các hệ số hồi quy đều thỏa mức tối ưu vì đều nhỏ hơn 5%. Tiếp đến, nhóm tác giả đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu của 40 quốc gia được lấy dữ liệu

64

Bảng 6. Xác suất hậu nghiệm cho phương trình 2

Độ lệch chuẩn Sai số chuẩn Giá trị trung bình prob1: (EX:FDI) > 0 1,0000 0,0000 0,0000

prob1: (EX:E) < 0 0,8999 0,3001 0,0017

prob1: (EX:NC) < 0 1,0000 0,0000 0,0000

prob1: (EX:IF) > 0 0,8584 0,3487 0,0020

prob1: (EX:GDPg) > 0 0,6121 0,4873 0,0028

prob1: (EX:TRADE) > 0 1,0000 0,0000 0,0000

prob1: (EX:WTO) > 0 0,6516 0,4765 0,0028

prob1: (EX:FDIW) > 0 0,9992 0,0289 0,0002

prob1: (EX:FDIE) < 0 1,0000 0,0000 0,0000

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp qua kết quả từ STATA

thông qua kết quả xác suất hậu nghiệm của mô hình 1 (Bảng 5) và mô hình 2 (Bảng 6). Kết quả cho thấy khi không xem xét và có xem xét vai trò của WTO và E trong mối quan hệ giữa FDI và xuất khẩu thì tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu sẽ có sự thay đổi về mức độ tác động, cụ thể như sau:

Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu Theo Bảng 5, FDI có tác động tích cực đến EX với xác suất tác động dương rất cao là 92,21%. Đồng quan điểm với Mukhtarov và cộng sự (2019), FDI là một động lực quan trọng của thương mại giúp giảm bớt những hạn chế về tài chính và cho phép các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có thể phát triển sản xuất và tận dụng lợi thế của nền kinh tế quy mô, giúp thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia đó. Thêm vào đó, muốn thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thì phải nâng cao chất lượng của hàng hóa xuất khẩu trong khi doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ có công nghệ sản xuất tiên tiến, quy trình sản xuất được tiêu chuẩn hóa thì mới có được sản phẩm chất lượng cao. Các công ty có vốn nước ngoài cũng

sẽ hiểu nhu cầu thị trường quốc tế tốt hơn và có thể thiết lập quan hệ xuất khẩu ở mức chi phí thấp hơn. Cuối cùng là các công ty có vốn nước ngoài sẽ có danh tiếng quốc tế cao hơn, khuyến khích sự tin tưởng giữa các bên thương mại và sự sống còn của sản phẩm xuất khẩu (Bashir và cộng sự, 2023). Kết quả nghiên cứu này tương đồng với kết quả của các nghiên cứu của Popovici (2018); Purusa và Istiqomah (2018), cụ thể: Popovici (2018) nghiên cứu tác động của FDI đến xuất khẩu ở các quốc gia thuộc khối EU bằng cách sử dụng phương pháp GMM với dư liệu trong giai đoạn từ 1999 đến 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy FDI hỗ trợ cho sự tăng trưởng của xuất khẩu của một quốc gia nhưng mức độ hỗ trợ sẽ khác nhau tùy thuộc vào nhóm quốc gia và loaị hình hoạt đồng của nền kinh tế. Nghiên cứu của Purusa và Istiqomah (2018) cũng cho thấy FDI có tác động tích cực đáng kể đến hoạt động xuất khẩu khi nhóm tác giả nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ này tại các nước thuộc khối ASEAN trong giai đoạn 2000- 2015 bằng phương pháp GLS. Tuy nhiên các nghiên cứu trước đây như Popovici (2018); Purusa và Istiqomah (2018) do chỉ sử dụng phương pháp kinh tế

65

xuất khẩu của một quốc gia mà còn cho thấy cụ thể bao nhiêu phần trăm khả năng xảy ra trường hợp này. Bên cạnh đó, FDI khi tỷ giá thực tăng lên sẽ có tác động tiêu cực đến xuất khẩu với xác suất tác động âm là 100%.

lượng tần suất nên kết quả nghiên cứu chỉ cho thấy được FDI có tác động tích cực đến xuất khẩu với hệ số tác động là dương và có ý nghĩa thống kê (khi dựa vào giá trị p) nhưng không cho thấy được xác suất xảy ra kết quả này là bao nhiêu phần trăm, nếu xác suất xảy ra thấp thì kết quả này không có độ tin cậy cao.

5. Kết luận và hàm ý chính sách

5.1. Kết luận

Bài nghiên cứu này nhằm phân tích tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu của các quốc gia trên thế giới khi có xem xét vai trò của tỷ giá hối đoái và việc quốc gia tham gia vào tổ chức WTO. Phương pháp Bayes đã được nhóm tác giả sử dụng để xử lý dữ liệu của 40 quốc gia trên thế giới giai đoạn 1995- 2021, trong đó có 20 quốc tham gia vào WTO. Kết quả đã chỉ ra FDI có tác động tích cực đến xuất khẩu của các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đã tham gia WTO và khi tỷ giá hối đoái thực của quốc gia đó giảm. Ngoài ra, các biến tỷ lệ lạm phát (IF), tốc độ tăng trưởng (GDPg), độ mở thương mại (TRADE) và hội nhập (WTO) có tác động làm gia tăng khả năng xuất khẩu. Các biến tỷ giá hối đoái thực (E) và vốn đầu tư trong nước (NC) có tác động làm kìm hãm khả năng xuất khẩu.

5.2. Hàm ý chính sách

Tác động của FDI đến xuất khẩu khi xem xét vai trò của hội nhập và tỷ giá hối đoái thực Theo Bảng 6 cho thấy khi xem xét vai trò của hội nhập và tỷ giá hối đoái thực trong mô hình thì FDI vẫn có tác động tích cực đến xuất khẩu nhưng với xác suất tác động dương ở mức cao hơn và đạt mức tuyệt đối 100%. Điều này có thể thấy rằng sự hội nhập và tỷ giá hối đoái thực có vai trò điều tiết đối với mối quan hệ giữa FDI và xuất khẩu. Cụ thể, FDI khi quốc gia đó đã gia nhập WTO (FDIW) sẽ có tác động tích cực đến xuất khẩu với xác suất tác động dương là 99,92%. Thực tế cho thấy rằng, việc gia nhập WTO sẽ giúp cho các quốc gia mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế và nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các quốc gia trong tổ chức WTO cũng như các quốc gia khác trên thế giới nhờ có sự đảm bảo của tổ chức. Điều này sẽ giúp việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài của các quốc gia trở nên dễ dàng hàng và các quốc gia sẽ có nguồn để đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu (Diệp và cộng sự, 2018). Nghiên cứu của Diệp và cộng sự (2018) chỉ dừng lại ở việc cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng việc gia nhập WTO là một trong các yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của một quốc gia mà không có xem xét vai trò của WTO trong mối quan hệ giữa FDI và xuất khẩu. Trong khi đó nghiên cứu của nhóm tác giả không chỉ cho thấy sự gia nhập WTO có tác động thúc đẩy mối quan hệ tích cực giữa FDI và

Để đảm bảo rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại hiệu quả cao cho sự phát triển hoạt động xuất khẩu của các quốc gia trên thế giới, nhóm tác giả đề xuất một số hàm ý chính sách. Chính phủ cần áp dụng các chính sách hỗ trợ hoạt động thương mại như: Hướng tới giao dịch một cửa để đơn giản hóa các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài rót vốn đầu tư và tiếp cân thị trường;

66

Cung cấp hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI nắm bắt các cơ hội thị trường xuất khẩu và phát triển chiến lược tiếp cận thị trường; cung cấp hỗ trợ tài chính và chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp FDI tham gia vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm xuất khẩu; Tạo điều kiện cho sự phát triển các khu công nghiệp gần các cảng và cửa khẩu quan trọng; Có chính sách đối ngoại phù hợp để đôi bên cùng có lợi nhằm duy trì mối quan hệ quốc tế lâu dài giữa các quốc gia; Có chính sách điều chỉnh tỷ giá kịp thời để kiềm chế lạm phát cũng như thúc đẩy hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa giữa các quốc gia...

nghiên cứu Khi nghiên cứu tác động của FDI đến xuất khẩu, nhóm tác giả mới chỉ nghiên cứu trong phạm vi 40 quốc gia (20 quốc gia thuộc WTO và 20 quốc gia không thuộc WTO). Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về mối quan hệ này, nhóm tác giả mới chỉ xem xét vai trò của sự gia nhập WTO và tỷ giá trong khi còn nhiều yếu tố khác cũng cần xem xét khi nghiên cứu mối quan hệ này. Nhóm sẽ mở rộng phạm vi các quốc gia và có sự so sánh kết quả giữa nhóm quốc gia đang phát triển và phát triển. Nhóm cũng sẽ xem xét vai trò của các yếu tố khác như chỉ số năng lực cạnh tranh quốc giá, thể chế… khi nghiên cứu tác động của FDI đến xuất khẩu.■

Hạn chế nghiên cứu và để xuất hướng

Tài liệu tham khảo

Abor, J., Adjasi, C. K., & Hayford, M. C. (2008). How does foreign direct investment affect the export decisions of firms in Ghana? African Development Review, 20(3), 446-465. https://doi.org/10.1111/j.1467-8268.2008.00193.x Ahmed, S. F., Mohsin, A. K. M., & Hossain, S. F. A. (2023). Relationship between FDI inflows and export performance: An empirical investigation by considering structural breaks. Economies, 11(3), 73-80. https://doi.org/10.3390/ economies11030073 Banzouzi, J. M. K., Atsamekou, C. S. A., & Etoka-Beka, A. S. (2022). Effects of Chinese FDI on Congolese exports. Theoretical Economics Letters, 12(6), 1608-1623. https://doi.org/10.4236/tel.2022.126089

Bashir, M. A., Dengfeng, Z., Radulescu, M., Secara, C. G., Staciu-Tolea, C., & Gong, Z. (2023). Sustainable FDI and comparative advantage for product export survival: A developing countries perspective. Economic Research- Ekonomska Istraživanja, 36(3), 1-25. https://doi.org/10.1080/1331677X.2022.2164035

Basilgan, M., & Akman, A. S. (2019). An empirical analysis on the impact of foreign direct investments on export performance: Turkey case. International Journal of Economics and Finance Studies, 11(2), 89-105. https://doi. org/10.34109/ijefs.201911206 Bernard, A. B., & Jensen, J. B. (2004). Entry, expansion, and intensity in the US export boom, 1987–1992. Review of International Economics, 12(4), 662-675. https://doi.org/10.1111/j.1467-9396.2004.00473.x

Bhatt, P. R. (2013). Causal relationship between exports, FDI and income: The case of Vietnam. Applied Econometrics and International Development, 13(1), 161-176. https://econpapers.repec.org/RePEc:eaa:aeinde:v:13:y:2013 :i:1_13 Bhatt, P. R. (2014). Foreign direct investment in ASEAN countries, 1990-2012. Revista Galega de Economía, 23(4), 133-144. http://dx.doi.org/10.15304/rge.23.4.2790

Cassel, G. (1918). Abnormal deviations in international exchanges. The Economic Journal, 28, 413-415. Vũ Bạch Diệp, Nguyễn Thị Phương Thảo. Ngô Hoài Thu (2018). Phân tích các yếu tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU bằng mô hình trọng lực. Tạp chí Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 7, 72-78. Do, D. A., Song, Y., Do, H. T., Tran, T. T. H., & Nguyen, T. T. (2022). The effect of foreign direct investment inflow on exports: Evidence from Vietnam. The Journal of Asian Finance, Economics and Business, 9(2), 325-333. https:// doi.org/10.13106/jafeb.2022.vol9.no2.325 Eicher, T. S., & Henn, C. (2011). In search of WTO trade effects: Preferential trade agreements promote trade strongly, but unevenly. Journal of International Economics, 83(2), 137-153. https://doi.org/10.1016/j.jinteco.2010.10.003 Flegal, J. M., Haran, M., & Jones, G. L. (2008). Markov chain Monte Carlo: Can we trust the third significant figure? Statistical Science, 23(2), 250-260. https://www.jstor.org/stable/27645897

Gebremariam, T. K., & Ying, S. (2022). The foreign direct investment-export performance nexus: An ARDL based empirical evidence from Ethiopia. Cogent Economics & Finance, 10(1), 1-15. https://doi.org/10.1080/23322039.

67

2021.2009089 Gelman, A., & Rubin, D. B. (1992). Inference from iterative simulation using multiple sequences. Statistical Science, 7, 457–472. https://doi.org/10.1214/ss/1177011136 Hassan, H. E., & Abd-Elmotaal, A. A. (2021). Impact of foreign direct investment on agricultural exports in Arab countries: An empirical analysis. Indian Journal of Economics and Business, 20(4), 335-347. Heckscher, E. F., Ohlin, B. G., Flam, H., & Flanders, M. (1991). Heckscher-Ohlin trade theory (H. Flam & M. J. Flanders, Eds.). MIT Press. Horst, T. (1976). American multinationals and the US economy. The American Economic Review, 66(2), 149-154. https://www.jstor.org/stable/1817212

Islam, M. M. (2022). The role of foreign direct investment (FDI) inflows on export performance in developing economies: Evidence from Bangladesh. South Asian Journal of Social Studies and Economics, 16(3), 49-57. https://doi. org/10.9734/SAJSSE/2022/v16i3615

Iwaisako, T., & Nakata, H. (2017). Impact of exchange rate shocks on Japanese exports: Quantitative assessment using a structural VAR model. Journal of the Japanese and International Economies, 46, 1-16. https://doi.org/10.1016/j. jjie.2017.07.001

Jawaid, S. T., Raza, S. A., Mustafa, K., & Karim, M. Z. A. (2016). Does inward foreign direct investment lead to export performance in Pakistan? Global Business Review, 17(6), 1296-1313. https://doi.org/10.1177/0972150916660394 Karimov, M. (2020). The impact of foreign direct investment on trade (export and import) in Turkey. European Journal of Interdisciplinary Studies, 6(1), 1-17. https://doi.org/10.26417/ejis.v5i1.p6-17 Majeed, M. T., Ahmad, E., & Khawaja, M. I. (2006). Determinants of exports in developing countries. The Pakistan Development Review, 45(4), 1265-1276. https://www.jstor.org/stable/41260681 Markusen, J. R. (1983). Factor movements and commodity trade as complements. Journal of International Economics, 14(3-4), 341-356. https://doi.org/10.1016/0022-1996(83)90009-0 Muhammad, S. D., Azu, N. P., & Oko, N. F. (2018). Influence of real exchange rate and volatility on FDI inflow in Nigeria. International Business Research, 11(6), 73-82. https://doi.org/10.5539/ibr.v11n6p73

Mukhtarov, S., Alalawneh, M. M., Ibadov, E., & Huseynli, A. (2019). The impact of foreign direct investment on exports in Jordan: An empirical analysis. Journal of International Studies, 12(3), 38-47. https://doi.org/10.14254/2071- 8330.2019/12-3/4 Mundell, R. A. (1957). International trade and factor mobility. The American Economic Review, 47, 321-335. https:// www.jstor.org/stable/1811242

Nguyen, X. H., Nguyen, T. P. T., Nguyen, T. L., Tang, M. H., & Nguyen, T. N. (2020). Impact of foreign direct investment on economic restructuring in Bac Ninh. European Journal of Business and Management, 12(15), 19-25. https://doi.org/10.7176/EJBM/12-15-03 Popovici, O. C. (2018). The impact of FDI on EU export performance in manufacturing and services: A dynamic panel data approach. Romanian Journal of Economic Forecasting, 21(1), 108-123. Prasanna, N. (2010). Impact of foreign direct investment on export performance in India. Journal of Social Sciences, 24(1), 65-71. https://doi.org/10.1080/09718923.2010.11892838

Purusa, N. A., & Istiqomah, N. (2018). Impact of FDI, COP, and inflation on exports in five ASEAN countries. Jurnal Ekonomi Pembangunan: Kajian Masalah Ekonomi dan Pembangunan, 19(1), 94-101. https://doi.org/10.23917/jep. v19i1.5832 Ricardo, D. (1817). On the principles of political economy and taxation (M. P. Fogart, Ed.). J.M. Dent & Sons, 1911; reprint 1965. Sargasyan, L. N., & Grigoryan, D. O. (2017). Impact of foreign direct investment on export: Case of Armenia. Научные исследования и современное образование, 29, 288-293.

Selimi, N., Reçi, K., & Sadiku, L. (2016). The impact of foreign direct investment on export performance: Empirical evidence for Western Balkan countries. ILIRIA International Review, 6(1), 57-66. https://doi.org/10.21113/ iir.2016.1.057 Staiger, R. W., & Sykes, A. O. (2010). Currency manipulation and world trade. World Trade Review, 9(4), 583-627. https://doi.org/10.1017/S1474745610000340

Thach, N. (2020). Learning-by-doing effect: Evidence from firms of an emerging economy. Accounting, 6(5), 795-804. Van Zandt, T., Mihov, I., & Dutt, P. (2011). Does WTO matter for the extensive and the intensive margins of trade? (No. 8293). CEPR Discussion Papers, 1-30. http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.1768347 Zhang, K. H., & Song, S. (2001). Promoting exports: The role of inward FDI in China. China Economic Review, 11(4), 385-396. https://doi.org/10.1016/S1043-951X(01)00033-5

Zondervan-Zwijnenburg, M., Peeters, M., Depaoli, S., & Van de Schoot, R. (2017). Where do priors come from? Applying guidelines to construct informative priors in small sample research. Research in Human Development, 14(4), 305-320. https://doi.org/10.1080/15427609.2017.1370966

68