
56
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu: Phương pháp tiếp
cận Bayes và xem xét vai trò của các yếu tố trung gian
Ngày nhận: 31/03/2024 Ngày nhận bản sửa: 02/08/2024 Ngày duyệt đăng: 27/08/2024
Tóm tắt: Bài viết nhằm phân tích tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đến hoạt động xuất khẩu của các quốc gia trên thế giới khi xem xét vai trò của
tỷ giá hối đoái và sự gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Phương
pháp Bayes được sử dụng để xử lý dữ liệu của 40 quốc gia trong giai đoạn
1995- 2021, trong đó có 20 quốc gia thuộc tổ chức WTO và 20 quốc gia không
thuộc tổ chức WTO. Kết quả nghiên cứu cho thấy FDI có tác động tích cực đến
xuất khẩu của các quốc gia đặc biệt đối với các quốc gia đã tham gia vào WTO
Empirical study on the impact of foreign direct investment on exports: The Bayes approach
and consider the role of intermediary factors
Abstract: The article aims to analyze the impact of foreign direct investment on export activities of
countries around the world when considering the role of exchange rates and accession to the World Trade
Organization (WTO). The Bayesian method is used to process data from 40 countries in the period 1995-
2021, including 20 countries belonging to the WTO and 20 countries not belonging to the WTO. Research
results show that FDI has a positive impact on countries' exports, especially for countries that have joined
the WTO and when that country's real exchange rate decreases. Besides, the inflation rate, GDP growth
rate, and trade openness have an impact on increasing exports. Domestic investment capital has the effect
of inhibiting the export activities of countries. The government and policymakers need to focus on creating
a favorable environment for foreign investors such as: Towards one-stop service; Support research and
development of export products; Have an appropriate foreign policy. Besides, it is necessary to have a
timely exchange rate adjustment policy to promote export activities.
Keywords: Exports, Foreign direct investment, Exchange rate, WTO accession
Doi: 10.59276/JELB.2024.11.2706
Nguyen, Thi Bao Ngoc1, Nguyen, Huu Minh Hieu2, Tran, Duc Manh3, Tran, Thi Hong Hanh4, Tran, Phuong
Thao5, Tran, Thi Que Tam6
Email: ntb.ngoc@ufm.edu.vn1, hieuminh1232003@gmail.com2, manhpro8xxx1503@gmail.com3,
honghanhtranthi2512@gmail.com4, thaothao18062003@gmail.com5, tranquetam3102003@gmail.com6
Organization of all: University of Finance-Marketing, Vietnam
Nguyễn Thị Bảo Ngọc1, Nguyễn Hữu Minh Hiếu2, Trần Đức Mạnh3,
Trần Thị Hồng Hạnh4, Trần Phương Thảo5, Trần Thị Quế Tâm6
Trường Đại học Tài chính - Marketing, Việt Nam

NGUYỄN THỊ BẢO NGỌC - NGUYỄN HỮU MINH HIẾU - TRẦN ĐỨC MẠNH -
TRẦN THỊ HỒNG HẠNH - TRẦN PHƯƠNG THẢO - TRẦN THỊ QUẾ TÂM
57
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
và khi tỷ giá hối đoái thực của quốc gia đó giảm. Bên cạnh đó, tỷ lệ lạm phát,
tốc độ tăng trưởng GDP, độ mở thương mại có tác động làm gia tăng xuất
khẩu. Vốn đầu tư trong nước có tác động làm kìm hãm hoạt động xuất khẩu
của các quốc gia. Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách cần tập trung
đến việc tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: Hướng
tới dịch vụ một cửa; Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển sản phẩm xuất khẩu; Có
chính sách đối ngoại phù hợp. Bên cạnh đó cần có chính sách điều chỉnh tỷ giá
kịp thời để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Từ khóa: Xuất khẩu, Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Tỷ giá hối đoái, Gia nhập WTO
1. Giới thiệu
FDI là một nguồn vốn gián tiếp hiệu quả để
giúp các quốc gia tiếp cận được công nghệ
tiên tiến và nâng cao chất lượng xuất khẩu
vì nó là một nguồn tài chính và một nhóm
tài sản tiềm năng phi nợ, như vốn, công
nghệ, tiếp cận thị trường (nước ngoài),
việc làm, kỹ năng, kỹ thuật quản lý và môi
trường, trong đó có thể giải quyết các vấn
đề về tăng trưởng thu nhập thấp, thiếu hụt
tiết kiệm, đầu tư, xuất khẩu và thất nghiệp.
Vai trò của nguồn vốn FDI với hoạt động
xuất khẩu đã được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm và chứng minh bằng những
nghiên cứu thực nghiệm. Bằng mô hình,
phương pháp và cách tiếp cận khác nhau,
hầu hết các nghiên cứu này đều cho thấy
FDI có tác động tích cực đến hoạt động xuất
khẩu của mỗi quốc gia, như nghiên cứu của
Bhatt (2013, 2014); Purusa và Istiqomah
(2018); Zhang và Song (2001). Điển hình
gần đây có nghiên cứu của Hassan và
Abd-Elmotaal (2021); Karimov (2020);
Popovici (2018) đều chỉ ra rằng, FDI có tác
động tích cực và có ý nghĩa rất lớn đối với
hoạt động xuất khẩu của các quốc gia. Tuy
nhiên cũng có một vài nghiên cứu chỉ ra
rằng tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử, thời
gian và đặc điểm của mỗi quốc gia mà
mối quan hệ này có thể là cùng chiều hoặc
ngược chiều hoặc không có tác động đáng
kể đến nhau (Gebremariam và cộng sự,
2022; Popovici, 2018). Từ những nghiên
cứu đã được lược khảo, nhóm tác giả nhận
thấy rằng vẫn chưa có sự đồng nhất trong
quan điểm về mối quan hệ cũng như chiều
tác động của FDI đến hoạt động xuất khẩu.
Nhóm tác giả muốn cung cấp thêm bằng
chứng thực nghiệm chứng minh rằng FDI
có thực sự thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
của các quốc gia hay không.
Bên cạnh đó, vai trò của tỷ giá hối đoái và
sự gia nhập WTO của các quốc gia cũng
cần được xem xét khi nghiên cứu tác động
của FDI đến hoạt động xuất khẩu, điều
mà trước đây chưa được nhiều nghiên cứu
đề cập đến. Theo học thuyết ngang giá
sức mua (Cassel, 1918) thì tỷ giá có mối
quan hệ với lạm phát, hay nói cách khác
tỷ giá thay đổi sẽ dẫn đến giá cả hàng hóa
thay đổi và ảnh hưởng đến tình hình xuất
khẩu của quốc gia đó. Không những vậy,
sự thay đổi của tỷ giá ảnh hưởng đến tình
hình lạm phát của quốc gia thì cũng ảnh
hưởng đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài chảy vào quốc gia đó. Cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới 2008 đã minh
chứng cho điều này. Khi cuộc khủng hoảng
tài chính xảy ra, tình trạng khó khăn trong
việc tiếp cận vốn tín dụng, tình trạng sụt
giá chứng khoán và mất giá tiền tệ dẫn
đến sự sụt giảm FDI rõ rệt ở nhiều quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia

Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu:
Phương pháp tiếp cận Bayes và xem xét vai trò của các yếu tố trung gian
58 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
đang phát triển. Hơn thế nữa, với xu thế hội
nhập của nền kinh tế, sự gia nhập vào các
tổ chức lớn như WTO, IMF,… là điều tất
yếu và cần thiết đối với các quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia mới nổi vì nó sẽ góp
phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc
tế của quốc gia đó. Thế nhưng yếu tố hội
nhập vẫn chưa được đưa vào nhiều nghiên
cứu để xem xét liệu nó có ảnh hưởng đến
tác động của FDI đến hoạt động xuất khẩu
của quốc gia hay không. Với những phân
tích trên, nhóm tác giả đã quyết định lựa
chọn chủ đề: “Nghiên cứu thực nghiệm
về tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến xuất khẩu: Phương pháp tiếp cận
Bayes và xem xét vai trò của các yếu tố
trung gian”. Bài báo gồm có 5 phần. Ngoài
phần 1 giới thiệu, phần 2 trình bày cơ sở lý
thuyết và tổng quan nghiên cứu. Phần 3 mô
tả dữ liệu nghiên cứu, mô hình nghiên cứu
và phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong
khi phần 4 thể hiện kết quả hồi quy bằng
phương pháp Bayes và phần 5 đưa ra kết
luận cùng hàm ý chính sách.
2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên
cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
xuất khẩu
Các học thuyết thương mại cổ điển của
Ricardo (1817) và Heckscher-Ohlin cho
rằng các yếu tố sản xuất trên phạm vi quốc
tế có tính bất động (Abor và cộng sự, 2008).
Mundell (1957) đã dựa trên mô hình H-O,
giả định rằng các yếu tố sản xuất như vốn
và lao động không bất động mà di chuyển
giữa hai quốc gia ở một mức độ nhất định
do sự khác biệt về giá giữa các quốc gia.
Khi đó, giá ở cả hai thị trường hàng hóa và
sản xuất sẽ có xu hướng cân bằng giữa các
quốc gia. Tuy nhiên, theo Markusen (1983)
thì sự di chuyển của các yếu tố sản xuất
(vốn và lao động) và thương mại quốc tế là
hoạt động mang tính bổ sung. Horst (1976)
có cùng quan điểm với lý thuyết bổ sung
và ông lập luận rằng doanh nghiệp đa quốc
gia (MNE) tham gia vào các hoạt động phi
sản xuất, không tham gia trực tiếp đến hoạt
động sản xuất ra hàng hóa với nước sở tại
dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đối với các loại
hàng hóa khác ở địa phương, có thể làm
tăng xuất khẩu.
Trước đây đã có rất nhiều nghiên cứu về tác
động của FDI đến xuất khẩu của các quốc
gia trên thế giới. Đa số các nghiên cứu đều
chỉ ra rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tác động tích cực đến xuất khẩu. Nghiên
cứu của Zhang và Song (2001); Purusa và
Istiqomah (2018) đã chỉ ra đầu tư trực tiếp
nước ngoài có tác động vô cùng tích cực tới
nền xuất khẩu của các quốc gia và thậm chí
còn tác động mạnh mẽ hơn so với tác động
của vốn đầu tư trong nước. Majeed (2006)
phân tích các yếu tố quyết định xuất khẩu
ở các nước đang phát triển và kết quả cho
thấy tác động của FDI đối với xuất khẩu
là tích cực nhưng không đáng kể. Popovici
(2018) cũng nghiên cứu về mối quan hệ
này nhưng có kiểm tra sự khác biệt về tác
động của FDI đối với thương mại trong cả
lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Kết quả thực
nghiệm cho thấy tác động của FDI đối với
xuất khẩu là khác nhau tùy thuộc vào nhóm
quốc gia và loại hoạt động kinh tế (Bhatt
2013, 2014; Basilgan và Akman, 2019;
Karimov, 2020; Mukhtarov và cộng sự,
2019; Prasanna, 2010; Selimi và cộng sự,
2016 có kết quả cũng tương tự). Các nghiên
cứu gần đây cũng cho thấy tác động tích
cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế như
nghiên cứu của Hassan và Abd-Elmotaal
(2021) nghiên cứu tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đến xuất khẩu nông sản,
Islam (2022) và Ahmed và cộng sự (2023)
nghiên cứu vai trò của dòng vốn trực tiếp
nước ngoài đối với hiệu quả xuất khẩu, Do
và cộng sự (2022) nghiên cứu về vấn đề tác

NGUYỄN THỊ BẢO NGỌC - NGUYỄN HỮU MINH HIẾU - TRẦN ĐỨC MẠNH -
TRẦN THỊ HỒNG HẠNH - TRẦN PHƯƠNG THẢO - TRẦN THỊ QUẾ TÂM
59
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tới xuất khẩu ở Việt Nam.
Nhưng bên cạnh đó, có một số nghiên cứu
đưa ra nhận định vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tác động ngược chiều với xuất khẩu
hoặc không có tác động đáng kể. Điển
hình có nghiên cứu của Gebremariam và
cộng sự (2022) kiểm tra mối quan hệ thực
nghiệm giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và
hiệu suất xuất khẩu ở Ethiopia bằng cách
sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian hàng năm
trong giai đoạn 1992-2018 và cho thấy mối
quan hệ giữa FDI và hiệu suất xuất khẩu
là không đáng kể. Banzouzi và cộng sự
(2022) tìm hiểu tác động của vốn đầu tư
nước ngoài (Trung Quốc) tới xuất khẩu của
Congo trong khoảng 2005-2014 và đưa ra
nhận định rằng xuất khẩu của Congo chịu
tác động tiêu cực của vốn đầu từ nước ngoài
trong ngắn và dài hạn (Jawaid và cộng sự,
2016; Sargasyan và Grigoryan, 2017 có kết
quả tương tự).
Vai trò của tỷ giá hối đoái trong mối quan
hệ giữa FDI và xuất khẩu:
Trong nghiên cứu về thị trường Nhật Bản,
Iwaisako và Nakata (2017) nhận thấy rằng
biến động tỷ giá hối đoái có liên quan đáng
kể với những thay đổi trong xuất khẩu
trong những năm 1980 ở Nhật Bản. Theo
lý thuyết, sự tăng giá của đồng tiền quốc
gia làm giảm xuất khẩu vì lúc này giá hàng
hóa trong nước sẽ đắt hơn so với hàng hóa
nước ngoài. Muhammad và cộng sự (2018)
đã xác định tác động của biến động tỷ giá
hối đoái thực đối với dòng vốn FDI chảy
vào Nigeria từ năm 1970 đến năm 2014.
Kết quả cho thấy tính biến động của tỷ giá
hối đoái khiến các nhà đầu tư nước ngoài
hoài nghi hơn với sự gia tăng bất ổn. Sự gia
tăng bất ổn có thể ngăn cản dòng vốn FDI
vào quốc gia này. Đã có rất nhiều nhà kinh
tế học nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ
giá hối đoái và hiệu quả xuất khẩu trong
nền kinh tế, các nghiên cứu đều cho thấy
rằng khi đồng nội tệ mất giá khiến giá xuất
khẩu trong nước giảm, dẫn đến nâng cao
khả năng cạnh tranh xuất khẩu (Bernard và
Jensen, 2004; Staiger và Sykes, 2010).
Vai trò của việc gia nhập WTO trong mối
quan hệ giữa FDI và xuất khẩu
Ngày nay, hội nhập kinh tế thế giới là một
xu thế tất yếu, chỉ có gia nhập vào các tổ
chức kinh tế quốc tế, các quốc gia mới
mở rộng được thị trường xuất, nhập khẩu,
tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
đầu tư và tiêu thụ sản phẩm. Khi gia nhập
WTO, các nước phải cam kết về sự ổn định
và minh bạch trong môi trường kinh doanh.
Điều này làm gia tăng sự tin tưởng của các
nhà đầu tư nước ngoài, do đó, có thể làm
tăng nguồn cung FDI. Bên cạnh đó, các
quốc gia cũng thực hiện các chính sách mở
cửa thị trường, giảm bớt rào cản thương
mại, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất
khẩu. Theo nghiên cứu của Eicher và Henn
(2011) thì các quốc gia đồng ý với việc
cắt giảm thuế quan trong quá trình đàm
phán với các thành viên WTO thì những
tác động tích cực đối với thương mại càng
rõ ràng. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Van
và cộng sự (2011) kết luận rằng gia nhập
WTO có tác động tích cực đến sự đa dạng
của hàng hóa xuất khẩu (một quốc gia bắt
đầu kinh doanh các sản phẩm mới), nhưng
đối với các sản phẩm xuất khẩu hiện tại thì
tác động này là tiêu cực. Những kết quả
trong nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng
các đặc điểm kinh tế của quốc gia có tác
động lớn đến thương mại trong WTO. Diệp
và cộng sự (2018) phân tích các yếu tố tác
động đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang thị trường EU trong giai đoạn 2005-
2017. Kết quả ước lượng mô hình cho thấy
việc gia nhập WTO là một trong các yếu tố
tác động đến xuất khẩu và nó có tác động
cùng chiều.

Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất khẩu:
Phương pháp tiếp cận Bayes và xem xét vai trò của các yếu tố trung gian
60 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
Qua phần lược khảo, nhóm tác giả nhận
thấy vẫn còn một số khía cạnh nghiên cứu
liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và
xuất khẩu cần được khai thác làm rõ thêm
và đây cũng là khoảng trống nghiên cứu
mà nhóm tác giả cần lấp đầy: (1) Nhóm tác
giả muốn cung cấp thêm bằng chứng thực
nghiệm để chứng minh tác động tích cực
của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
xuất khẩu trong dài hạn vì chưa có sự thống
nhất trong nhận định về chiều tác động của
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất
khẩu của các quốc gia; (2) Nghiên cứu của
nhóm tác giả đã xác định tác động của việc
gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu
bằng cách đưa biến giả WTO vào mô hình,
điều mà ít được các nghiên cứu trước đây
xem xét trong khi đó nghiên cứu của Van
và cộng sự (2011) kết luận rằng gia nhập
WTO có tác động tích cực đến sự đa dạng
của hàng hóa xuất khẩu; (3) Theo lập luận
ở trên thì việc gia nhập WTO và tỷ giá hối
đoái có mối quan hệ với FDI và xuất khẩu
nhưng có rất ít nghiên cứu xem xét vai trò
của hai yếu tố này khi nghiên cứu tác động
của FDI đến xuất khẩu nên nhóm tác giả đã
đưa hai biến tương tác là FDIW (FDI với
WTO) và FDIE (FDI với tỷ giá hối đoái)
vào mô hình. Đây cũng là một điểm mới
của nghiên cứu. Về phương pháp nghiên
cứu, nhóm tác giả cũng nhận thấy các
nghiên cứu trước đây chủ yếu sử dụng các
phương pháp kinh tế lượng tần suất như
PoolOLS, FEM, REM, GLS, GMM nhưng
các phương pháp này tồn tại một số nhược
điểm như cần có kích thước mẫu đủ lớn,
cần có những giả định không phù hợp trong
thực tế (khó có thể đạt được trong thực tế),
không khắc phục được các khuyết tật của
mô hình. Thêm vào đó, giá trị tần suất P
chỉ ước tính được mức độ ý nghĩa của một
dữ kiện chứ không cho chúng ta biết mức
độ ý nghĩa của một giả thuyết. Do đó nhóm
tác giả sử dụng phương pháp Bayes vì tính
logic và thực tế hơn, độ tin cậy cao hơn
so với các phương pháp truyền thống trước
đây (Thach, 2020).
3. Mô hình, biến và dữ liệu
3.1. Mô hình
Căn cứ vào các nghiên cứu của Diệp và
cộng sự (2018); Majeed và cộng sự (2006);
Popovici (2018), nhóm tác giả đưa ra mô
hình nghiên cứu thực nghiệm (1) để nghiên
cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến xuất khẩu:
EXi,t = αo + βxFDIi,t + βyXi,t + εi,t (1)
Theo Majeed và cộng sự (2006); Nguyen
và cộng sự (2020), nhóm tác giả đưa ra mô
hình nghiên cứu thực nghiệm (2) để nghiên
cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến xuất khẩu có xem xét vai trò của
sự gia nhập WTO và tỷ giá hối đoái (E):
EXi,t = αo + βxFDIi,t + βy FDIWi,t + βz FDIEi,t
+ βk Xi,t + εi,t (2)
Trong đó: i là quốc gia và t là thời gian
EX là xuất khẩu của nước i trong năm t
FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước
i trong năm t;
FDIW là biến tương tác giữa đầu tư trực
tiếp nước ngoài và sự gia nhập WTO của
nước i trong năm t; FDIW = FDI*WTO
trong đó FDI là vốn đầu tư trưc tiếp nước
ngoài được tính bằng % của GDP và WTO
là biến giả (nhận giá trị 1 tại thời điểm các
quốc gia đã gia nhập WTO và ngược lại sẽ
nhận giá trị 0). Việc đề xuất biến theo gợi ý
của Van và cộng sự (2011).
FDIE là biến tương tác giữa đầu tư trực
tiếp nước ngoài và tỷ giá hối đoái thực của
nước i trong năm t; FDIE = FDI*E. Trong
đó E là tỷ giá hối đoái thực (giá nước ngoài
so với giá trong nước). Theo học thuyết
ngang giá sức mua (PPP) được Cassel phát
triển vào năm 1918 đã cho thấy tỷ giá hối
đoái có mối quan hệ mật thiết với FDI và