
ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
331
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KẾ TOÁN SINH THÁI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM
Trần Anh Quang
Trường Đại học Lao động – Xã hội
Tóm tắt
Hệ thống thông tin tích hợp đầy đủ các yếu tố kinh tế, xã hội và sinh thái cần được
thiết lập tại bất kỳ một tổ chức nhằm hướng đến phát triển bền vững. Xuất phát từ sự ảnh
hưởng của những hoạt động từ các cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
đến môi trường sinh thái, gây ô nhiễm và làm ảnh hưởng đến môi trường sống, suy kiệt nguồn
tài nguyên thiên nhiên,… kế toán sinh thái đã được áp dụng rất sớm tại các doanh nghiệp
trên thế giới. Bài báo này bắt đầu bằng việc phân tích tổng quan nghiên cứu về kế toán sinh
thái của một số quốc gia trên thế giới và định hướng ứng dụng nhằm cung cấp hướng dẫn cho
sự phát triển trong tương lai tại Việt Nam.
Từ khóa: Phát triển bền vững, kế toán sinh thái, ứng dụng
OVERVIEW OF RESEARCH ON ECOLOGICAL ACCOUNTING IN SOME
COUNTRIES IN THE WORLD AND APPLICATION ORIENTATION IN VIETNAM
Abstract
Where sustainable development is concerned, it is necessary to establish new
information systems that integrate economic, social and ecological factors. Ecological
accounting has been widely implemented in numerous enterprises in the world for years as it
is considered an effective tool to mitigate the environmental impacts from manufacturing
processes of enterprises as well as individuals. This paper begins by analyzing an overview of
research on ecological accounting in some countries in the world and application orientation
in Vietnam. All of these efforts in this paper forwarding an ecological accounting framework
that aims to provide a guide for future development in Viet Nam.
Keywords: Sustainable Development, Ecological Accounting, application
1. Đặt vấn đề
Sau hàng trăm năm phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, một số
doanh nghiệp (DN) kinh doanh luôn theo đuổi mục tiêu duy nhất là lợi nhuận, bỏ qua lợi ích
công cộng, bao gồm các yếu tố như lợi ích của người tiêu dùng, sinh thái và ô nhiễm môi
trường. Do đó, hạch toán trách nhiệm xã hội đã ra đời nhằm ngăn ngừa, loại bỏ và bù đắp
những rủi ro này (Jain và cộng sự, 2007). Một số quốc gia phát triển như Mỹ, Đức và Anh đã
tập trung nghiên cứu về kế toán trách nhiệm xã hội, nhiều học giả và chuyên gia kế toán đã

332
ICYREB 2021 | CHỦ ĐỀ 1: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TOÀN CẦU HÓA
bắt đầu quan tâm về mối quan hệ giữa nguồn lực và kế toán. Kế toán tài nguyên đã tiếp thu
các nguyên tắc và phương pháp của kinh tế tài nguyên, kinh tế sinh thái, kinh tế phát triển bền
vững và các ngành khác (Lone và cộng sự, 1993). Hiện nay, kế toán tài nguyên đã dần được
chia thành các nhánh mới như kế toán tài nguyên rừng và kế toán biển.
Từ cuối những năm 1980, dân số, tài nguyên, môi trường và phát triển trở thành bốn
vấn đề quan trọng mà nhân loại phải đối mặt. Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết và quan trọng của
kế toán trong sự phát triển kinh tế xã hội, các DN ngoài việc tập trung phát triển hoạt động
kinh doanh đã mở rộng trọng tâm sang hệ thống môi trường gắn với DN hình thành một lĩnh
vực mới gọi là kế toán môi trường (Uno và cộng sự, 1998). Kế toán môi trường xác định và
đo lường chi phí môi trường, trách nhiệm môi trường và lợi ích môi trường. Sau nhiều thập kỷ
phát triển, kế toán môi trường được chia thành kế toán tài chính môi trường và kế toán quản
trị môi trường. Các nghiên cứu lý luận đã được ứng dụng vào thực tiễn thúc đẩy sự phát triển
bền vững của DN. Với việc con người khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên bừa bãi,
môi trường và hệ sinh thái đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Kế toán môi trường không thể đo
lường đầy đủ tác động bên ngoài của hoạt động con người, do đó một số học giả đã đưa ra
khái niệm kế toán sinh thái (Kopp, R.J, 1999).
Kế toán sinh thái không phải là một khái niệm mới tuy nhiên đây là một lĩnh vực khá
mớ mẻ. Kế toán xã hội và kế toán trách nhiệm xã hội, kế toán tài nguyên và kế toán môi
trường có mối quan hệ mật thiết với kế toán sinh thái. Nói một cách tương đối, quan điểm về
hạch toán sinh thái linh hoạt hơn; không chỉ giới hạn ở ô nhiễm môi trường mà nó còn xem
xét mối quan hệ giữa tài nguyên, môi trường và hiệu quả kinh tế (Lei và cộng sự, 2014).
Trong những năm gần đây, thế giới thường xuyên xảy ra các thảm họa tự nhiên nên
vấn đề môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường (BVMT) đang trở nên bức thiết mang tính
toàn cầu. Các yêu cầu về môi trường sinh thái ngày càng chặt chẽ và đang trở thành rào cản
thương mại to lớn buộc các doanh nghiệp (DN) có cách nhìn nhận mới về vấn đề môi trường
sinh thái khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD). Các chính phủ luôn hướng
tới phát triển bền vững, đạt sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế cùng tiến bộ xã hội và
BVMT. Do đó, các DN ngoài quá trình sản xuất ra các sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu thị
trường còn phải tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường sinh thái và đảm bảo quá trình
xử lý các đầu ra khác bao gồm các chất thải theo đúng quy định. Vì vậy, các DN cần có sự
tiếp cận mới về kế toán sinh thái (KTST) giúp DN xác định rõ chi phí môi trường sinh thái
(CPMTST) trong quản lý và sản xuất, giúp DN đánh giá được đầy đủ các CPMTST nhằm cân
đối thu chi nội bộ và phân bổ vào từng sản phẩm.
2. Kết quả và thảo luận
2.1. Tổng quan nghiên cứu về kế toán sinh thái của một số quốc gia trên thế giới
Kể từ những năm 1990, có rất nhiều nghiên cứu về “kế toán tài nguyên” và “kế toán
môi trường”. Nhiều DN đã quan tâm thực hành kế toán này (Uno và cộng sự, 1998). Kế toán
tài nguyên và môi trường có những thành tựu đáng kể về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên,
nhiều vấn đề phức tạp trong các lĩnh vực bao gồm tài nguyên, môi trường sinh thái và sức

ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
333
khỏe xuất hiện đã thúc đẩy các học giả mở rộng nghiên cứu về tính toán ô nhiễm môi trường
cho toàn bộ lĩnh vực sinh thái (Common và cộng sự,1995). Hiện tại, các nghiên cứu về hạch
toán sinh thái vẫn đang được thực hiện tuy nhiên vẫn chưa có quan điểm thống nhất.
2.1.1. Tại Mỹ và Canada
Kế toán sinh thái được hiểu là quá trình phân tích các vấn đề môi trường sinh thái
trong đó DN sử dụng phương pháp chi phí môi trường. Cho đến nay có một số quan điểm
khác nhau về kế toán sinh thái. Birkin, F. (2000) cho rằng kế toán sinh thái dựa trên sự tích
hợp của các khái niệm sinh thái và kinh tế, phương pháp đo lường và giá trị, đánh giá hiệu
suất, kiểm soát và cung cấp thông tin cho mục đích ra quyết định và lập báo cáo. Steele, B.M.
(2001) kế toán sinh thái phản ánh ý nghĩa của kế toán hoặc thống kê sinh thái. Quan điểm của
Lei, K., Zhou, S. and Wang, Z. (2014) cho rằng kế toán sinh thái là một hệ thống thông tin mô
tả, tính toán và đo lường thông tin liên quan đến môi trường sinh thái. Một số học giả khác
trong đó có Rebitzer, G., Loerincik, Y. and Jolliet, O. (2002) cho rằng kế toán sinh thái là
một thuật ngữ được sử dụng để đánh giá vòng đời. Bên cạnh đó, cũng có những quan điểm
khác nhau về nghiên cứu mô hình lý thuyết. Birkin đề xuất mô hình “burden-based” và chỉ ra
rằng hầu hết các tài sản và hoạt động kinh tế có mối quan hệ mật thiết và các chức năng cơ
bản được đo lường bằng mức công suất tiêu thụ. Ngoài ra, Birkin và Ranghieri đã phát triển
mô hình hệ thống kế toán sinh thái “Overpass”, bao gồm khung khái niệm và ma trận dự án
do EU tài trợ với tên gọi “sự phát triển bền vững của hệ thống bảo vệ môi trường du lịch”.
Trong khi một số nhà kinh tế nhận định chi phí trong 1 DN bao gồm cả các chi phí xã
hội và môi trường theo Isenmann, R. and Marx-Gómez, J. (2004) một số kế toán viên và học
giả tập trung nghiên cứu tác dụng của báo cáo môi trường DN và kế toán quản trị môi trường.
Theo Birkin, F. (2003) hạch toán sinh thái dựa trên mối quan hệ giữa triết lý sinh thái và các
giá trị kinh tế.
Với việc nghiên cứu sâu về kế toán sinh thái, nhiều học giả đã quan tâm nhiều hơn đến
sự ảnh hưởng của môi trường sinh thái. Rees, W.E. (1992), nhà kinh tế sinh thái người
Canada lần đầu tiên đề xuất khái niệm sự ảnh hưởng của môi trường sinh thái. Ewing, B. and
Goldfinger, S. (2010) cho rằng sự ảnh hưởng của môi trường sinh thái được đo lường bằng tỷ
lệ giữa việc sử dụng tài nguyên của con người và ảnh hưởng của việc sử dụng này đối với hệ
sinh thái.
2.1.2. Tại Liên minh Châu Âu
Các quốc gia tại Liên minh Châu Âu (EU) đã tập trung nghiên cứu rộng rãi các khía
cạnh môi trường và sinh thái, bao gồm cả vấn đề về thuế sinh thái. Điều chỉnh và đổi mới các
sai lệch về thuế hiện có, và áp dụng thuế sinh thái, cải cách thuế nhằm thúc đẩy chất lượng
môi trường. Nếu thuế suất năng lượng thấp hơn tỷ lệ lao động, thì việc cải cách thuế sinh thái
có thể thúc đẩy việc làm. Schneider, A. (2015) cho rằng thuế sinh thái là một công cụ chính
sách môi trường hữu ích. Thuế sinh thái có phạm vi điều tiết rộng, vì các thành viên EU đã áp
thuế đối với nhiên liệu, sản phẩm và các hành động gây hại cho môi trường, chẳng hạn như
Thụy Điển đánh thuế khí tự nhiên và carbon và Đức đánh thuế ô nhiễm nước.

334
ICYREB 2021 | CHỦ ĐỀ 1: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TOÀN CẦU HÓA
Việc thực hiện thuế sinh thái đã làm giảm đáng kể lượng phát thải khí đối với môi
trường sinh thái và ở một mức độ nhất định nó góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ môi
trường. Về mặt thực tiễn xã hội, các thành viên của EU đã thiết lập các sáng kiến sinh thái; ví
dụ, các khu công nghiệp sinh thái và việc thiết lập cơ chế bồi thường sinh thái. Bắt đầu từ
những năm 1990, trước những mất mát to lớn do các thảm họa sinh thái khác nhau gây ra, các
thành viên EU đã tích cực phát triển ngành công nghiệp sinh thái dưới hình thức các khu công
nghiệp sinh thái, từ việc thành lập Công viên Holland’s Amsterdam đến việc mở rộng Pháo
đài Đan Mạch.
Nhờ có các cơ chế chính sách đền bù sinh thái khác nhau, nền nông nghiệp và lâm
nghiệp ở EU đã phục hồi ở mức độ đáng kể. Năm 2005, Hội đồng EU đã thông qua điều
khoản 1698/2005 coi đấu giá là một công cụ hữu ích để bảo vệ môi trường sinh thái nông
nghiệp. EU áp đặt các khoản trợ cấp liên quan đến sản xuất nông nghiệp sinh thái bằng cách
ban hành “Chính sách Nông nghiệp Chung, CAP.” Bất kể hệ thống được xây dựng hoặc áp
dụng như thế nào, việc đền bù sinh thái lâm nghiệp của EU được nâng cao thông qua sự kết
hợp giữa dán nhãn sinh thái và quản lý bền vững, Liên minh Châu Âu đã hình thành một hệ
thống đền bù sinh thái lâm nghiệp tương đối hoàn chỉnh.
2.1.3. Tại Nhật Bản
Khác với Mỹ và một số quốc gia tại Liên minh Châu Âu, Nhật Bản - một trong những
quốc gia có nền kinh tế phát triển tập trung nghiên cứu sự khan hiếm tài nguyên thiên nhiên
và đưa ra phương thức phát triển của nền kinh tế. Ý tưởng về sự phát triển của nền kinh tế gắn
liền với kế toán sinh thái. Phương thức kinh tế đã thúc đẩy sự phát triển của hạch toán sinh
thái ở Nhật Bản ở một mức độ nhất định. Ở cấp độ vĩ mô, các nhà nghiên cứu tập trung phần
lớn vào các khu công nghiệp sinh thái và hoạt động của ngành công nghiệp tái chế. Ngoài ra,
một số nghiên cứu khác tập trung vào chu trình chuyển hóa vật chất và phân tích dòng vật
chất ví dụ như nghiên cứu của Haxhimoto, S. and Moriguchi, Y. (2004).
Các nghiên cứu về hạch toán sinh thái ở Nhật Bản bắt nguồn từ những năm 1970,
Giáo sư Kiyoshi Kurosawa đã tìm hiểu mối liên hệ giữa hạch toán sinh thái và vấn đề ô nhiễm
môi trường. Dựa trên nghiên cứu này, Kawano Masao và cộng sự đã tập trung nghiên cứu các
khía cạnh kinh tế của kế toán môi trường, kế toán môi trường ở cấp độ doanh nghiệp và kế
toán tài nguyên. Sau gần mười năm nghiên cứu, nội dung nghiên cứu của Masao, K. (2006),
kế toán sinh thái đã được sửa đổi dựa trên mối quan hệ giữa báo cáo môi trường và tính bền
vững cũng như kế toán môi trường. Bộ Môi trường quyết định xây dựng kế toán sinh thái để
nghiên cứu các vấn đề xã hội, kinh tế và môi trường. Một cuộc khảo sát về các vấn đề xã hội
chẳng hạn như xem xét mối liên hệ giữa hợp lý hóa các dự án nước và cách các doanh nghiệp
cân bằng gánh nặng chi phí tài nguyên nước so với việc bảo trì các công trình đường thủy và
vốn môi trường. Kawano Masao đã nghiên cứu các vấn đề kinh tế như gánh nặng chi phí và
duy trì vốn, và phát triển kinh tế, xã hội và môi trường theo các nguyên tắc hạch toán sinh
thái.
2.1.4. Tại Úc

ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
335
Trong lĩnh vực nghiên cứu và thực hành kế toán sinh thái tại Úc, Stefan Schaltegger
và Roger (2000) đã xây dựng một khuôn khổ hệ thống hoàn chỉnh về kế toán môi trường vi
mô. Nghiên cứu này đã đề cập đến sự khác biệt trong kế toán môi trường và kế toán sinh thái.
Theo kế toán truyền thống, kế toán sinh thái là quá trình thu thập, phân loại, phân tích và cung
cấp thông tin môi trường. Dựa trên quan điểm này, kế toán sinh thái là một bộ phận của kế
toán môi trường, và sự khác biệt thể hiện trong việc ghi chép, theo dõi và đo lường tác động
môi trường theo đơn vị hiện vật. Năm 1992, Chính phủ Úc đã ban hành “Hiệp định về môi
trường” đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong quản lý kinh tế, môi trường sinh thái và
bền vững. Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Úc đã yêu cầu doanh nghiệp đo lường và công bố
đặc điểm chất lượng thông tin tài chính và tác động của môi trường.
2.1.5. Tại Trung Quốc
Với sự phát triển của lý thuyết kế toán, một số học giả đã nhận thấy những khiếm
khuyết trong hệ thống kế toán hiện tại liên quan đến phát triển bền vững. Theo Zhang, Y. and
Zhang, W. (2011), do nhu cầu của chính phủ và các bên liên quan về thông tin kế toán sinh
thái, sự xuất hiện của hạch toán sinh thái đã trở nên khả thi và cần thiết. Ngoài ra, một số học
giả trong đó có Yu, Y. (2014) đã giải thích khả năng và sự cần thiết của việc hình thành các
chuẩn mực kế toán sinh thái trong quan điểm chiến lược vĩ mô quốc gia. Phát triển bền vững
đòi hỏi hạch toán sinh thái và có thể xây dựng hạch toán sinh thái theo kinh nghiệm hạch toán
môi trường. Phát triển bền vững đặt ra yêu cầu và thách thức mới về hạch toán sinh thái từ ba
cấp độ: chính phủ, doanh nghiệp và xã hội. Trong những điều kiện nhất định, kế toán sinh thái
có liên quan đến sự phát triển của lý thuyết kế toán hiện hành và đòi hỏi sự hỗ trợ của một nền
tảng cụ thể.
2.1.6. Tại Việt Nam
Kế toán sinh thái là một công cụ cần thiết không chỉ giúp doanh nghiệp đáp ứng các
yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái mà còn cải thiện hiệu quả kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh. Kế toán sinh thái đang là một phương pháp hết sức mới mẻ ở Việt Nam cũng như
các quốc gia đang phát triển khác trên thế giới. Hơn nữa, việc nghiên cứu, triển khai áp dụng
kế toán sinh thái vào Việt Nam đặc biệt mới mẻ và đang đi những bước khởi đầu. Do vậy, số
lượng công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề này còn rất hạn chế.
Một số nghiên cứu của các tác giả mới chỉ tập trung vào vận dụng tài liệu hướng dẫn
kế toán môi trường tại Việt Nam. Bài báo “Kế toán quản trị môi trường tại Nhật Bản và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc (2014). Tập trung nghiên
cứu kế toán môi trường tại các công ty Nhật Bản, chỉ ra được các lợi ích khi doanh nghiệp áp
dụng kế toán môi trường và bài học kinh nghiệm cho việc ứng dụng kế toán quản lý môi
trường trong các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến khái niệm kế
toán môi trường, kế toán tài chính môi trường, kế toán quản trị môi trường, phương pháp xác
định, quy trình ghi nhận và cung cấp thông tin về các yếu tố tài sản, nợ phải trả, chi phí, thu
nhập môi trường trong doanh nghiệp, mô hình kế toán môi trường trong hệ thống kế toán
doanh nghiệp.