
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 11(72).2013
99
TĂNG CƯỜNG CHỐNG GIAN LẬN THUẾ TẠI CÁC CÔNG TYCÓ
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
STRENGTHENING THE FIGHT AGAINST TAX FRAUD AT FDI ENTERPRISES
IN DANANG CITY
Đặng Vinh
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Email: dangvinh71@yahoo.com.vn
TÓM TẮT
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế quốc tế và cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ, đầu tư
nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi nước, nhất là các nước đang phát
triển như Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, trong khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trong cả
nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng, vẫn luôn tồn tại các hiện tượng tiêu cực. Trong đó phổ biến là
việc các doanh nghiệp FDI lợi dụng những bất cập trong chính sách và công tác quản lý để thực hiện hành vi
gian lận. Các hành vi gian lận của doanh nghiệp FDI được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng
mức độ tinh vi và phức tạp nhất phải kể đến là hành vi gian lận như: Trốn thuế, chuyển giá, gây ô nhiễm môi
trường, khai báo không trung thực trong kết quả kinh doanh…
Từ khóa: toàn cầu hóa; gian lận thuế; trốn thuế; chuyển giá; ô nhiễm môi trường
ABSTRACT
In the trend of economic globalization and scientific and technological revolution, foreign direct investment
plays an important role in the development of every nation, especially in a developing country like Vietnam.
However, apart from positive aspects, there are many negative ones in the area of foreign direct investment in the
country in general and in Danang City in particular. Among those, that the FDI enterprises make use of the
government policy and management imperfectness to commit frauds is popular. The deceits of the FDI
enterprises are in different forms, but the most sophisticated ones include tax fraud, transfer pricing, causing
environmental pollution, false reporting business turnover, etc.
Key words: Globalization; tax fraud; tax evasion; transfer pricing; environmental pollution
1. Đặt vấn đề
Đối với nước ta nói chung và thành phố Đà
Nẵng nói riêng, FDI là một bộ phận không thể
thiếu được trong tổng vốn đầu tư phát triển KT-
XH. Nó là điều kiện quan trọng để khai thác và
phát triển các nguồn lực trong nước.Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực, trong khu vực đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong cả nước nói chung
và thành phố Đà Nẵng nói riêng, vẫn luôn tồn tại
các hiện tượng tiêu cực.Thực trạng đó đã gây thất
thu nghiêm trọng cho ngân sách nhà nước, làm
giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, làm giảm hiệu quả việc thu hút và sử
dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
nói chung và TPĐN nói riêng.
Nhận thấy được những hậu quả đó, trong
thời gian qua cùng với cả nước TPĐN đã áp
dụng một số biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế
gian lận của các doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên
các biện pháp đó vẫn chưa thực sự hiệu quả nên
các hành vi gian lận trong các doanh nghiệp FDI
vẫn diễn ra phổ biến với mức độ hết sức nghiêm
trọng.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận về gian lận
2.1.1. Khái niệm về gian lận
Theo từ điển Tiếng Việt “Gian lận là hành
vi cố ý lừa dối, giấu diếm, xuyên tạc sự thật với
mục đích tư lợi”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
240 “Gian lận là những hành vi cố ý làm sai lệch
thông tin kinh tế, tài chính do một hay nhiều
người trong hội đồng quản trị, ban giám đốc,
nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện, làm ảnh
hưởng đến báo cáo tài chính”.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 11(72).2013
100
Từ đó ta có thể hiểu Gian lận là hành vi vi
phạm hay lợi dụng những quy định của pháp luật,
bằng các thủ đoạn khác nhau để giảm một phần
nghĩa vụ phải nộp hoặc để hưởng lợi không đúng
từ các chính sách pháp luật của nhà nước.
2.1.2. Khái niệm hạn chế gian lận
Hạn chế gian lận là ngăn ngừa hành vi
gian lận của đối tượng nộp trong một giới hạn,
để các hành vi này không gây hậu quả nghiêm
trọng. Nếu không ngăn ngừa được cơ quan chức
năng phải phát hiện kịp thời, có biện pháp kịp
thời chống gian lận cũng như xử phạt thích đáng
hành vi gian lận.
2.2. Các hình thức gian lận chủ yếu tại doanh
nghiệp FDI
2.2.1. Gian lận về thuế
- Khái niệm gian lận thuế: Gian lận thuế là
hành vi xác định giá cho các giao dịch giữa các
doanh nghiệp liên kết trái với quy định của pháp
luật làm giảm số thuế phải nộp.
Mục đích cuối cùng của hoạt động gian
lận thuế là tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tối
thiểu hóa thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
cho các chính phủ.
2.2.2. Các hình thức sau trong gian lận thuế
trong các doanh nghiệp FDI
a) Gian lận thuế thông qua hoạt động
chuyển giao hàng hóa hữu hình và dịch vụ
Việc chuyển giao hàng hóa, dịch vụ giữa
công ty mẹ với công ty con hoặc giữa các công
ty con với nhau là một trong những hoạt động
thường xuyên của của các doanh nghiệp FDI.
Thông qua họat động này, các doanh nghiệp FDI
có thể thực hiện việc chuyển lợi nhuận sao cho
có lợi nhất bằng cao hơn hoặc thấp hơn giá thị
trường hoặc cung cấp dưới dạng miễn phí. Lợi
ích quan trọng nhất của thủ đoạn này là tối thiếu
hóa số thuế phải nộp trên bình diện toàn cầu để
lợi nhuận ròng thu được là lớn nhất.
Với thủ đoạn này, các doanh nghiệp FDI
có thể tìm cho mình một mức giá chuyển
nhượng khiến cho mức thuế phải nộp của cả tập
đoàn là nhỏ nhất.
b) Gian lận thuế thông qua hoạt động
chuyển giao tài sản hữu hình trong nội bộ các
doanh nghiệp
Chuyển giao tài sản để hình thành TSCĐ
của doanh nghiệp, mua hoặc thuê tài sản để vận
hành sản xuất, gia công chế biến. Về nguyên tắc,
việc chuyển giao tài sản hữu hình phải dựa trên sự
nhất trí của hai bên đối tác và phải dựa trên giá thị
trường. Nhưng thực tế, việc xác định giá của các
tài sản góp vốn không đơn giản và không được
thực hiện đúng theo quy định. Các công ty đa quốc
gia (MNC) thường nâng giá tài sản nhập khẩu vào
các quốc gia có thuế suất thấp. Thủ đoạn này đã
mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư nước
ngoài, như: tăng tỷ lệ góp vốn để từng bước giành
quyền chi phối, tăng mức trích khấu hao hàng năm
từ đó tăng giá thành sản phẩm, từ đó tạo ra "lỗ giả"
nhằm tránh thuế của nước chủ nhà.
c) Gian lận thuế thông qua hoạt động
chuyển giao tài sản vô hình
Hoạt động chuyển giao các tài sản vô hình
bao gồm hoạt động chuyển giao công nghệ, nhãn
mác, bản quyền... giữa các thành viên trong tập
đoàn. Thực tế việc chuyển giao công nghệ trong nội
bộ tập đoàn MNC thực hiện thông qua hình thức
phổ biến là: một thành viên trong tập đoàn (thường
là công ty mẹ) tiến hành nghiên cứu và phát triển
công nghệ một cách độc lập rồi bán lại cho các
thành viên khác. Về nguyên tắc, giá bán của các tài
sản vô hình đều phải tuân theo các nguyên tắc giá
thị trường tương ứng với giá chuyển nhượng giữa
các bên giao dịch độc lập. Tuy nhiên, bản chất của
việc sở hữu tài sản vô hình là độc quyền nên khó có
thể tìm thấy một giao dịch tương đương để so sánh.
Các doanh nghiệp FDI thường lợi dụng đặc điểm
này để chuyển lợi nhuận cho nhau nhằm tránh thuế
thông qua thủ đoạn chuyển một khoản tiền thanh
toán với giá rất cao cho một doanh nghiệp khác
trong cùng một tập đoàn.
d) Gian lận thuế thông qua hoạt động vay
vốn giữa các doanh nghiệp trong nội bộ tập đoàn
Trong nội bộ tập đoàn hoạt động vay vốn có
thể là một cơ hội để các doanh nghiệp FDI chuyển
lợi nhuận cho nhau với mục đích tránh thuế. Đặc
điểm của phương thức này là tạo ra khoản vay giữa
các thành viên trong nội bộ tập đoàn, từ đó làm
phát sinh các khoản thanh toán dưới dạng lãi tiền
vay. Với việc áp dụng mức lãi suất cao hơn hoặc
thấp hơn lãi suất thị trường, các doanh nghiệp FDI

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 11(72).2013
101
có thể chuyển lợi nhuận từ nước có thuế suất cao
sang nước có thuế suất thấp hay chuyển lợi nhuận
về công ty mẹ một cách không hạn chế.
e) Gian lận thuế thông qua hoạt động
góp vốn ẩn giữa các doanh nghiệp trong nội
bộ tập đoàn
Để tài trợ vốn cho họat động kinh doanh,
một doanh nghiệp có thể tăng vốn bằng cách
tăng vốn góp cổ phần hoặc vay vốn. Đứng trên
giác độ thuế, hình thức vay vốn có lợi hơn so với
hình thức tăng vốn tự có, vì khoản tiền trả lãi
vay được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế, trong
khi đó cổ tức chia cho cổ đông hoặc chủ đầu tư
góp vốn liên doanh thì không được tính vào chi
phí mà phải lấy từ lợi nhuận sau thuế để chia.
Chính từ đặc điểm này khiến các công ty mẹ lựa
chọn hình thức tài trợ vốn cho công ty con bằng
phương thức cho vay vốn thay vì tài trợ trực tiếp
bằng hình thức góp vốn cổ phần để giảm gánh
nặng thuế phải nộp. Hình thức tài trợ vốn như
vậy được gọi là góp vốn ẩn.
f) Gian lận thuế thông qua hoạt động
xóa nợ giữa các doanh nghiệpFDI
Việc một doanh nghiệp thành viên xóa nợ
cho một thành viên khác trong tập đoàn cho phép
MNC có 2 lợi thế: thứ nhất, khoản nợ được xóa
(theo luật pháp của nhiều nước) sẽ được khấu trừ
vào thu nhập tính thuế; thứ hai, cho phép chuyển
phần vốn đó mà thực chất là một phần lợi nhuận
của doanh nghiệp đó sang một doanh nghiệp
thành viên khác nhằm mục đích gian lận thuế.
Trên đây là những hình thức gian lận thuế
của các doanh nghiệp FDI thông qua định giá
chuyển nhượng. Thực tế cho thấy đây là những
hình thức phổ biến và tinh vi nhất mà các doanh
nghiệp FDI thường sử dụng để gian lận thuế
nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi
cả tập đoàn.
2.2.3. Ảnh hưởng của gian lận thuế qua định giá
chuyển nhượng tới các nước tiếp nhận đầu tư
a) Gian lận thuế qua định giá chuyển
nhượng làm giảm số thu về thuế, gây thất thu
nghiêm trọng cho NSNN
Thông qua việc nâng giá đầu vào có chủ
đích và hạ giá sản phẩm đầu ra dưới mức giá thị
trường tại một công ty con hay một chi nhánh tại
nước có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
cao, một MNC có thể tối thiểu hóa số thuế phải
nộp ghi trên hóa đơn của nước đó. Điều này dẫn
đến một hệ quả tất yếu là các nước tiếp nhận đầu
tư sẽ bị thất thu thuế. Hơn thế, mức độ thất thu
thuế này có ảnh hưởng nghiêm trọng đối với tổng
thu ngân sách nhà nước. Đó là bởi các MNC là
những tập đoàn có quy mô lớn, trong đó có rất
nhiều MNC có doanh số trên 100 tr USD và có
đến hơn 50% giao dịch thương mại là giao dịch
nội bộ, như vậy khi các MNC thực hiện hành vi
gian lận thuế thì số thuế gian lận được là rất lớn.
b) Gian lận thuế qua định giá chuyển
nhượng làm giảm phúc lợi xã hội
Thuế là công cụ quan trọng để nhà nước
phát triển. Việc thất thu về thuế sẽ giới hạn sức
mạnh của chính phủ trong việc theo đuổi các
chính sách kinh tế, làm cho việc phân bổ nguồn
lực bị méo mó và kế hoạch phân phối lại nguồn
lực của Chính phủ có thể không thực hiện được.
c) Gian lận thuế qua định giá chuyển
nhượng tạo ra môi trường cạnh tranh thiếu
công bằng giữa các doanh nghiệp
Khi MNC đầu tư trực tiếp vào một nước
nào đó dưới hình thức liên doanh, chính sách
ĐGCN sẽ dẫn đến thua lỗ kéo dài ở các liên
doanh - công ty con, dẫn đến phía đối tác ở nước
nhận đầu tư sẽ bị giảm vốn dần, có thể dẫn đến
tình trạng mất vốn, từ đó bị các công ty mẹ thôn
tính hoàn toàn. Đây chính là cách thâm nhập vào
thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài.
Mặt khác, gian lận thuế qua định giá
chuyển nhượng của các MNC đã đẩy các doanh
nghiệp ở nước nhận đầu tư vào một thế yếu
trong cạnh tranh, trong khi các MNC có thể tạo
sự độc quyền về sản phẩm thông qua chính sách
hạ giá thành sản phẩm đầu ra. Điều này sẽ khiến
các nhà đầu tư trong nước không có khả năng
tham gia vào những ngành bị khống chế bởi các
MNC, làm giảm tính cạnh tranh của hàng trong
nước, làm tăng giá sản phẩm cho người tiêu
dùng và tạo nên sự phụ thuộc của nền kinh tế
vào các hoạt động của MNC.
d) Gian lận thuế qua định giá chuyển
nhượng làm ảnh hưởng đến lợi ích thương
mại của quốc gia

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 11(72).2013
102
Việc xác định giá chuyển nhượng không
đúng với giá thị trường có ảnh hưởng tiêu cực lên
điều khoản thương mại và cán cân thanh toán của
nước nhận đầu tư. Khi các MNC định giá thấp
hàng xuất khẩu và định giá cao hàng nhập khẩu sẽ
làm tăng tỷ trọng nhập khẩu, giảm tỷ trọng xuất
khẩu trong cán cân thanh toán của các nước này.
Ngoại thương không phản ánh đúng tự do thương
mại trên thị trường thế giới khi các MNC toàn
quyền kiểm soát thương mại ở nhiều quốc gia. Do
đó, phân phối lại thu nhập quốc tế từ nước nhận
đầu tư sang chính quốc thông qua hoạt động
ĐGCN có thể làm giảm phúc lợi kinh tế của nước
nhận đầu tư và của nền kinh tế toàn cầu.
Tóm lại, hậu quả của gian lận thuế qua định
giá chuyển nhượng của các MNC là rất lớn đối với
các nước tiếp nhận đầu tư. Do vậy, việc hạn chế
gian lận thuế qua định giá chuyển nhượng ở các
doanh nghiệp FDI trên lãnh thổ nuớc mình luôn là
mối quan tâm hàng đầu của cơ quan thuế các nước.
2.3. Tình hình gian lận thuế của các công ty
đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.3.1. Tình hình thu hút vốn đăng ký và khả năng
thực hiện
Nhìn chung số dự án FDI đăng ký thực
hiện ngày càng đa dạng, phong phú và nhiều
nước đã và đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào
thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên nguồn vốn thực
hiện còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với số vốn đăng
ký và vốn thực hiện chung trong cả năm chiếm
tỷ lệ rất thấp. Đây là vấn đề còn rất hạn chế
trong hiệu quả thu hút nguồn vốn FDI của thành
phố Đà Nẵng (Hình 1).
54,324 62,987 74,210 124,045 147,758 122,193 138,867 158,760
212,133 232,810 328,197 432,242 588,823 700,309 935,489 1,069,784
501,561
940,948
1,741,511
2,500,000 2,640,000 2,749,180 3,055,623 3,098,402
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Vốn trong năm
Vốn thực hiện
Tổng vốn đầu tư
Hình 1. Tình hình vốn đầu tư đến 31/12/12
Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được
cấp phép và thực hiện vốn.
Số lao động của doanh nghiệp đang hoạt
động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chia theo
khu vực kinh tế.
2.3.2. Lợi nhuận thu được từ các công ty có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nhìn chung các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng có
số dự án đăng ký ngày càng tăng và số vốn đăng
ký ngày càng lớn. Tuy nhiên vốn thực hiện và
những đóng góp của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài còn rất hạn chế và rất nhiều
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại thành phố Đà Nẵng kinh doanh không hiệu
quả trong thời gian dài.
2.3.3. Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh
154
37,988 28,970
77,666
-
2,882 27,564 3,650
173,856
103,078
7,360 5,983 5,847
(36,278) (31,712)
DN nhà nước
DN ngoài nhà nước
DN FDI
Hình 2. Lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp
(Nguồn cục thống kê thành phố Đà Nẵng)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 11(72).2013
103
2.3.4. Tình hình thu thuế của các doanh nghiệp
FDI trong thời gian qua
Tỷ trọng thuế gián thu trong tổng số thu
thuế từ khu vực doanh nghiệp FDI tại TP Đà
Nẵng luôn chiếm tỷ lệ còn rất khiêm tốn, tỷ
trọng thuế TNDN chỉ chiếm từ 5%- 11%. Có thể
nhận thấy một điều, so với lượng vốn FDI rất lớn
được đầu tư vào Việt Nam thì kết quả này không
được như mong đợi. Điều này khó có thể giải
thích do hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp FDI chưa thật hiệu quả. Bởi vì, các
doanh nghiệp FDI luôn được đánh giá là các
doanh nghiệp năng động, nhạy bén, các nhà đầu
tư nước ngoài cũng là những người có năng lực,
có kinh nghiệm quản lý. Thêm vào đó, chính
sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt
Nam nói chung và TPĐN nói riêng đã ngày càng
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các
doanh nghiệp FDI. Như vậy, kết quả thu từ khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài không được như
mong đợi nhiều khả năng là do các hành vi gian
lận thuế của doanh nghiệp FDI.
+ Thuế và phí đã nộp ngân sách của doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chia theo
khu vực kinh tế (Bảng 1).
Bảng 1. Tình hình thu thuế của các doanh nghiệp FDI (Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm/ khu vực
2007
2008
2009
2010
Khu vực nhà nước
894,56
925,89
11044,02
1152,53
Khu vực FDI
236,68
259,05
151,26
409,07
Khu vực ngoài nhà nước
940,83
1288,08
1687,59
1721,11
TỔNG SỐ
2072,07
2423,02
2882,87
3282,71
Nguồn chi cục thuế Đà Nẵng
2.3.5. Tình hình gian lận thông qua trốn thuế và
chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại thành
phố Đà Nẵng và các dịa phương trong cả nước
Hiện nay các Doanh nghiệp FDI trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng và cả nước nói
chung làm ăn kiểu “chuyển giá, chuyển vốn”, rồi
sau đó báo lỗ... khiến bị thất thu thuế là đáng báo
động và cần có giải pháp để hạn chế tình trạng này.
“Vô đạo đức” - như lời ông Margaret
Hodge, chủ tịch Ủy ban kiểm toán công Quốc hội
Anh, nói về các thủ đoạn chuyển giá để né thuế
của các tập đoàn đa quốc gia hiện nay (Tuổi Trẻ
11-12). Tại VN, với hàng chục năm hoạt động
nhưng không đóng một đồng thuế thu nhập doanh
nghiệp vì thua lỗ(?), các tập đoàn đa quốc gia như
Coca Cola, Adidas, Metro... cùng nhiều tập đoàn
khác chưa được điểm tên đã và đang tạo ra sự bất
công không chỉ trong môi trường đầu tư, mà với
cả những hộ kinh doanh và những người làm
công ăn lương, những đối tượng vẫn phải nộp
thuế thu nhập từ những đồng thu nhập còm cõi.
Điều bất bình thường hơn nữa là dù liên tục
kêu lỗ, nhưng các tập đoàn này liên tục tăng vốn,
mở rộng thị phần, đánh bật các đối thủ khác.
Chẳng hạn chỉ trong bốn năm (2009-2012), Adidas
VN đã xây dựng đến 50 cửa hàng ở các thành phố
lớn trong cả nước. Metro cũng tăng trưởng chóng
mặt với 19 trung tâm bán sỉ tại 14 tỉnh thành trong
cả nước chỉ sau hơn 10 năm có mặt tại VN. Thậm
chí “thua lỗ” hàng ngàn tỉ đồng, vượt quá vốn đầu
tư ban đầu, nhưng Coca Cola vẫn tuyên bố tiếp tục
rót thêm 300 triệu USD vào VN trong ba năm tới...
Tiền đâu để những tập đoàn này vẫn “hào phóng”
ném vào các dự án mở rộng này sau hàng chục
năm thua lỗ? Câu trả lời có lẽ chờ cơ quan thuế
làm rõ trong thời gian tới.
Trong năm 2012, khi thanh tra, kiểm tra
gần 1.500 doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài có
dấu hiệu chuyển giá, cơ quan thuế đã giảm lỗ hơn
3.300 tỉ đồng, nhiều doanh nghiệp từ lỗ thành lãi,
truy thu và xử phạt gần 623 tỉ đồng... Những con
số này, theo cơ quan thuế thừa nhận, vẫn còn quá
nhỏ bé so với con số thực tế nếu được “khai quật”.
2.4. Các giải pháp để ngăn ngừa tình trạng
gian lận thuế trong các doanh nghiệp FDI tại
thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra,