533
QUẢN LÝ TÀI SẢN TRÍ TUỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
PGS,TS. Nguyễn Quốc Thịnh, ThS. Nguyễn Thị Vân Quỳnh
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt: Tài sản trí tuệ loại tài sản hình, ngày càng được đánh giá cao chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn về giá trị trong số các tài sản của doanh nghiệp. Hoạt động quản
tài sản trí tuệ thực sự cần thiết, song dường như vẫn chưa thực sự được chú trọng
nhiều doanh nghiệp nhỏ vừa của Việt Nam. Bài viết tập trung làm những tiếp cận
pháp lý, quản trị về tài sản trí tuệ nội dung chính quản tài sản trí tuệ trong doanh
nghiệp. Nghiên cứu thực trạng các nội dung quản lý tài sản trí tuệ tại 245 doanh nghiệp để
đưa ra những nhận định và đánh giá về nhận thức cũng như năng lực triển khai quản lý tài
sản trí tuệ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam. Dù còn hạn chế về quy mô mẫu
và phạm vi, đối tượng doanh nghiệp được nghiên cứu, nhưng kết quả đã phần nào cho thấy
những điểm cần khắc phục trong các doanh nghiệp về quản lý tài sản trí tuệ.
Từ khoá: Tài sản trí tuệ, Quản lý tài sản trí tuệ, Sở hữu trí tuệ, Thương hiệu, Nhãn hiệu
INTELLECTUAL PROPERTY ASSETS MANAGEMENT IN SMALL
AND MEDIUM ENTERPRISES
Abstract: Intellectual property (IP) assets is an intangible asset, which is increasingly
appreciated and accounts for an increasing proportion of the value of the assets of the
enterprise. IP assets management is really necessary, but it seems that it is still not really
focused in many small and medium enterprises in Vietnam. The article focuses on
clarifying the legal and administrative approaches to IP and the main content of IP assets
management in enterprises. Research on the current status of IP assets management
contents at 245 enterprises to make judgments and assessments about the awareness and
capacity of implementing IP management of small and medium enterprises in Vietnam.
Although there are limitations in the sample size and scope and subjects of the businesses
studied, the results have partly shown the points that need to be overcome in enterprises in
terms of intellectual property management.
Keywords: Intellectual Property Assests, Intellectual Property Assets Management,
Intellectual Property (IP), Trademark, Brand
1. Đặt vấn đề
Tài sản trí tu(TSTT) loại i sản nh dưới dạng quyền i sản, mặc
đang ngày càng thhiện vai trò của chúng trong đóng góp cho sự phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng dường như lại ít được c ý trong phát
triển bảo vchúng. Trong số các nguyên nhân của hạn chế trên, ngoài tính vô nh
dẫn đến khó nhận diện đo đếm của tài sản ttuệ, còn nguyên nhân từ chính nhận
534
thức của nh đạo doanh nghiệp (DN). Từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa (DNNVV), có thnhận thấy, phần nhiều các doanh nghiệp nhìn nhận vTSTT n
một loại tài sản quý, khó hình dung và thường chxuất hiện những doanh nghiệp
khoa học công nghệ, doanh nghiệp quy mô lớn, bởi đa phần chúng thường được nhắc đến
c sáng chế (SC), nhãn hiệu (NH), kiểu dáng ng nghiệp (KDCN). Tuy nhiên, bên
cạnh những đối tượng n được nêu trên, TSTT n rất nhiều những đối tượng khác
như các sáng kiến, cải tiến, c tác phẩm văn học nghệ thuật, c mật kinh doanh
do chính các thành viên trong doanh nghiệp tạo ra từ qtrình lao động sáng tạo của họ
cũng như những tài sản được doanh nghiệp tiếp nhận hoặc liên kết tạo ra tcác bên khác
nhau. Chính vậy, việc quản lý tốt TSTT đvừa bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của
các nhân tchc, vừa khai thác chúng cho những mục đích khác nhau là việc làm
rất cần thiết, góp phần tạo dựng nh ảnh thương hiệu (TH) nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Bài viết, bên cạnh nhận diện các loại tài sản nội dung quản lý TSTT trong
doanh nghiệp nói chung đặc biệt DNNVV nói riêng, sẽ phân tích thực trạng hoạt
động quản lý TSTT (dựa trên nghiên cứu điển hình tại một số DNNVV) trên các khía cạnh
như nhận thức của doanh nghiệp, các hành động tạo nguồn tài sản, thực hiện bảo vệ tài sản
tổ chức khai thác TSTT để từ đó tìm ra được những hạn chế các DNNVV cần khắc
phục để thể quản lý tốt hơn nữa TSTT của mình, góp phần phát triển thương hiệu của
doanh nghiệp cũng như thương hiệu sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng ra thị trường.
Phương pháp nghiên cứu định nh được sử dụng để xác định các vấn đề thực trạng
quản lý TSTT (thông qua phỏng vấn 30 lãnh đạo khảo sát 215 đối tượng quản trong
doanh nghiệp thương mại, dịch vụ ăn uống, sản xuất đồ gỗ, gia công khí, công nghệ
thông tin, may mặc, chế biến thực phẩm). Với những doanh nghiệp vừa sản xuất, vừa kinh
doanh dịch vụ đã gợi ý cho đáp viên chọn về nhóm DN sản xuất hay dịch vụ tuỳ theo giá
trị thu nhập cao hay thấp. Thời gian thu thập dữ liệu cấp trong khoảng tháng 6, 7 8
năm 2019 tháng 6, 7 năm 2020 tại Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, Thanh Hoá, Lào Cai. Các
dữ liệu được xử lý qua Excel và sử dụng phương pháp quy nạp để đưa ra những nhận định
và đánh giá chung về hoạt động quản lý TSTT trong doanh nghiệp.
2. Một số vấn đề lý luận về quản lý tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp
2.1. Tiếp cận về tài sản trí tuệ
Theo Luật Dân sự Việt Nam 2015, Điều 105, tài sản thể vật, tiền, giấy tờ
giá quyền tài sản. Quyền tài sản quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền i sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất các quyền tài sản khác. Các
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ loại tài sản hình, không hiện hữu dưới hình thái vật
chất nhưng lại có trị giá bằng tiền. Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), tài sản trí
tuệ (Intellectual Assets) loại tài sản được hình thành từ kết quả của quá trình lao động
trí óc, sáng tạo của con người, gồm những nhân tố trí tuệ cá nhân hoặc tổ chức thể
kiểm soát hoặc xác lập quyền sở hữu, (Cục SHTT, 2013) chẳng hạn như: các cơ sở dữ liệu,
các quy trình tác nghiệp, các mật kinh doanh, các quyết công nghệ, ... Như vậy, mặc
dù không được khái niệm trong Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi Luật SHTT 2009, nhưng
535
từ tiếp cận của Luật Dân sự WIPO, tài sản trí tuệ được hiểu quyền tài sản đối với các
đối tượng SHTT (Cục SHTT, 2005).
Trong một tổ chức, bằng cách này hay cách khác, từng nhân hoặc tập thể qua quá
trình lao động cuộc sống hàng ngày, luôn những sáng tạo, duy để thay đổi cuộc
sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh kết quả hình thành những tài sản trí tuệ (rất đa
dạng với quy và mức độ sáng tạo khác nhau) nhằm thoả mãn những nhu cầu của cá nhân
ng như tổ chức. Một bài thơ, một bản nhạc, một sự cải tiến quy trình, một sáng kiến trong
marketing, cung ứng sản phẩm, một kiểu dáng cho sản phẩm, một bản vẽ thiết kế mẫu hàng
hoá đều những TSTT (Ma Lianyuan, 2000). Trong số những TSTT được tạo ra, thể
nhữngi sản thoản yêu cầu bảo hộ theo quy định của pháp luật, chúng được gọi tên
các đối tượng sở hữu trí tuệ (Intellectual Property - IP), chẳng hạn: Nhãn hiệu, Kiểu dáng
ng nghiệp, sáng chế, mật kinh doanh, quyền tác giả, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng...
Khi tổ chức hoặc nhân thực hiện các thủ tục hoặc biện pháp bảo hộ thích ứng cho các đối
tượng sở hữu trí tuệ theo quy định, sẽ phát sinh quyền của tổ chức đối với các đối tượng này
lúc đó, khái niệm quyền sở hữu trí tuệ được nhắc đến (IP Right).
Một cách khái quát nhất, thể hình dung, TSTT trong một tổ chức sẽ bao gồm
những đối tượng SHTT được quy định cụ thể trong các văn bản luật những tài sản khác
chưa được bao quát bởi quy định pháp luật (chẳng hạn, ý tưởng kinh doanh, những sản
phẩm chưa hoàn chỉnh của quá trình lao động sáng tạo… Những tài sản này, trong giới hạn
nhất định thể hiểu chúng thuộc nhóm đối tượng sở hữu công nghiệp các mật kinh
doanh). Từ đây, thể thấy các TSTT trong một tổ chức sẽ bao gồm rất nhiều những tài
sản cụ thể với mức độ đa dạng quy rất khác nhau và tất cả chúng đều được tạo ra
nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định của cá nhân tổ chức gồm cả nhu cầu về vật
chất tinh thần. thế, việc tăng cường quản lý đối với TSTT việc làm rất cần thiết,
nhất là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt hơn.
2.2. Các nội dung quản lý tài sản trí tuệ
Quản tài sản trí tuệ tập hợp các định hướng, quyết định hành động hướng
đến hình thành, kiểm soát, xác lập quyền sở hữu, khai thác bảo vệ quyền lợi hợp pháp
đối với các tài sản trí tuệ của tổ chức nhân (Nguyễn Quốc Thịnh, 2020). Quản lý tài
sản trí tuệ cần được tiếp cận cả cấp độ duy chiến lược thực tiễn triển khai, gồm
hoạch định sở hữu ttuệ, tổ chức triển khai các hoạt động liên quan đến tài sản trí tuệ và
giám sát, đánh giá hoạt động sở hữu trí tuệ cũng như quá trình khai thác các TSTT (Cục
SHTT, 2013).
Quản TSTT hoàn toàn không chỉ quản lý việc xác lập quyền bảo hộ đối với
các TSTT doanh nghiệp đang sở hữu quan trọng hơn cả là phải hoạch định được
chiến lược phát triển nguồn tài sản từ cả bên trong và bên ngoài tổ chức, quản lý được các
quyền liên quan đến tài sản (gồm cả quyền định đoạt/chiếm hữu đến quyền sử dụng, khai
thác và quyền nhân thân của các bên liên quan), hoạch định chiến lược khai thác hợp lý
nhất, hiệu quả cao nhất các tài sản hiện có và tài sản tương lai.
Quản lý TSTT gồm 3 nhóm nội dung chủ yếu: Quản lý nguồn tài sản, Quản lý
quyền tài sản Quản khai thác tài sản (Cục SHTT, 2013, Nguyễn Quốc Thịnh, 2014,
2019, 2020).
536
2.2.1. Qun lý ngun tài sn
Quản lý nguồn tài sản trí tuệ là quản lý quá trình hình thành các tài sản trí tuệ từ các
nguồn khác nhau, gồm cả bên trong bên ngoài doanh nghiệp. TSTT được hình thành từ
quá trình lao động trí óc, sáng tạo của đội ngũ - đó nguồn lực sáng tạo thường được
gọi tên nguồn vốn trí tuệ. Từ nguồn vốn trí tuệ, nếu được kích thích, tạo điều kiện sẽ
hình thành các TSTT. vậy, vấn đề rất quan trọng để hình thành TSTT phải tạo được
môi trường làm việc nhân văn, cởi mở, năng động kich thích được các nguồn sáng tạo
thông qua các chính sách, ưu đãi, đầu tư nhất định từ tổ chức. Quản lý nguồn tài sản sẽ tập
trung vào các nội dung cụ thể như:
- Nhận diện các TSTT trong doanh nghiệp. Quá trình nhận diện cần bao quát hết tất
cả các loại tài sản đã đang có với những thông tin chi tiết nhất có thể về tài sản như: Tên
gọi nhóm tài sản, nguồn gốc tài sản, tình trạng hiện tại của tài sản, tình trạng bảo hộ,
phạm vi sử dụng khai thác, nguy cơ bị xâm phạm và tình hình xửxâm phạm (nếu có)…
- Chính sách kích thích sáng tạo của doanh nghiệp nhằm tạo môi trường tốt nhất
cho hình thành các TSTT cả bên trong thu hút các nguồn lực từ bên ngoài của doanh
nghiệp. Các tài sản có thể có nguồn từ những hoạt động có tổ chức của doanh nghiệp cũng
như nguồn từ các hoạt động tự phát của các cá nhân.
Các hoạt động tổ chức của doanh nghiệp, thường là: Quá trình tự thiết kế sáng
tạo mới cho sản phẩm và quy trình; Quá trình tự cải tiến, đổi mới sản phẩm, thiết bị và quy
trình hiện có; Quá trình đặt hàng, nhận chuyển giao, nhận chuyển nhượng từ các tổ chức và
cá nhân bên ngoài…
Các hoạt động tự phát của các nhân thể là: Những cải tiến sản phẩm, quy
trình gắn với hoạt động của doanh nghiệp; Các sáng chế liên quan hoặc không liên quan
đến hoạt động của doanh nghiệp; Các tác phẩm văn học nghệ thuật, thiết kế đồ học, m
thuật ứng dụng, chương trình máy tính… Mặc những hoạt động tự phát nhân thể
không liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng khi
được khuyến khích stạo những động lực nhất định cho quá trình duy sáng tạo của
người lao động trong nhiều trường hợp sẽ c động đến đội ngũ, động lực hình thành
nguồn TSTT.
2.2.2. Qun lý quyn tài sn
Theo quy định pháp luật của Việt Nam cũng n hu hết các quốc gia trên thế
gii, quyền tài sn đối với c đối tượng SHTT có th được phát sinh một ch tđộng
hoc phát sinh điều kiện tng qua các thtc đăng ký xác lp tại các quan
thẩm quyền.
Với các đối tượng như quyền tác giả các quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu được phát sinh tự động không cần bất kỳ một thủ tục c lập nào, nghĩa
khi một bài thơ, một tác phẩm âm nhạc được sáng tác, một công trình khoa học, một
cuốn sách được công bố, một chương trình y tính được thiết kế, một tác phẩm hội hoạ
được hình thành… thì ngay lập tức quyền tài sản đã được xác lập. Chính quyền được
phát sinh tự động không cần thủ tục đăng ký bảo hộ (Trần Văn Nam, 2016) nên quản lý đối
với các quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả có khá nhiều phức tạp hơn.
537
Với các đối tượng SHTT như tên thương mại, mật kinh doanh, nhãn hiệu nổi
tiếng, quyền sở hữu cũng được phát sinh tự động (không cần làm thủ tục đăng ký bảo hộ)
nhưng có điều kiện kèm theo. Cụ thể, với tên thương mại, điều kiện đặt ra là doanh nghiệp
phải sử dụng hợp pháp tên thương mại đó; với mật kinh doanh, điều kiện phải
được một cách hợp pháp và thực hiện các biện pháp bảo mật các bí mật kinh doanh đó; với
nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên sở sử dụng, không phụ thuộc vào
thủ tục đăng ký.
Với các đối tượng SHTT còn lại như nhãn hiệu (gồm nhãn hiệu thông thường, nhãn
hiệu tập thể, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu chứng nhận), sáng chế, KDCN, thiết kế bố trí
mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, giống y trồng thì quyền sở hữu chỉ được phát sinh trên
sở cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục xác lập.
Quản lý quyền tài sản thường tập trung vào các nội dung như (Nguyễn Quốc Thịnh,
2020):
- Quản quá trình xác lập quyền. Với những đối tượng quyền được phát sinh
tự động thì chúng cần được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định (như các vật
phẩm lưu trữ, thể hiện). Bên cạnh đó, cũng thể cũng tiến hành các thủ tục đăng ký bảo
hộ, hoặc công bố tác phẩm. Với những đối tượng mà quyền phải được tiến hành các thủ tục
xác lập thì phải khẩn trương làm các thủ tục đăng bảo hộ (vì luật Việt Nam hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều áp dụng quy tắc first to file - ưu tiên xác lập trước). Với các
đối tượng quyền phát sinh tự động điều kiện thì vấn đề quan trọng phải áp dụng
các điều kiện để được pháp luật bảo hộ.
- Quản phân định quyền. Để hình thành tài sản, thể sự tham gia của nhiều
bên cả về vật chất duy, vậy, việc phân định quyền tài sản cho các bên liên quan
được xem khá quan trọng. Bên cạnh đó, cần phân định về quyền nhân thân (như đối
với quyền tác giả, quyền đối với KDCN, sáng chế…), quyền sử dụng khai thác đối với
các tài sản khác nhau cho c tổ chức nhân cả bên trong bên ngoài doanh nghiệp.
Tranh chấp rất dễ xảy ra khả năng sáng tạo có thể bị suy giảm trầm trọng nếu không
phân định được rõ về các quyền đối với TSTT.
- Quản lý bảo vệ tài sản xử lý các tình huống xâm phạm, tranh chấp đối với
TSTT. Đây là những nội dung liên quan đến công tác bảo mật tài sản, dự báo rủi ro, chống
sa sút thương hiệu và xử lý các tình huống xâm phạm, tranh chấp (nếu có).
2.2.3. Qun lý khai thác tài sn
Tài sản trí tuệ nếu không được khai thác thương mại sẽ không kích thích được quá
trình sáng tạo. Vì vậy quản lý khai thác tài sản đóng vai trò rất quan trọng. Tuỳ theo loại tài
sản, tính hữu dụng của tài sản điều kiện của doanh nghiệp cũng như nhu cầu thị trường
mà TSTT thể được khai thác ở các quy cấp độ, hình thức khác nhau. Về phạm vi
khai thác, có thể là tự khai thác hoặc các hoạt động chuyển giao, chuyển nhượng.
- Tự khai thác TSTT đưa các tài sản hiện (từ nguồn tự của doanh nghiệp
hoặc nhận chuyển giao, chuyển nhượng) vào ng dụng thực tế sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp. Đây là hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp đối với rất nhiều loại tài sản
khác nhau. Vấn đề đặt ra làm sao để thể khai thác tối đa c TSTT doanh nghiệp