NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21
NHỮNG QUAN NIỆM
TRONG TANG MA
CỦA NGƯỜI CHĂM
BẢLAMÔN
PHAN QUỐC ANHỈ)
ang ma là một nghỉ lễ quan trọng
ta trong các nghỉ lễ vòng đời của
người Chăm Bàlamôn, trong đó chứa
đựng các quan niệm về vũ trụ, về nhân
sinh tích hợp qua diễn trình văn hoá
vừa phong phú, vừa phức tạp của người
Chăm. Về tang ma của người Chăm
Bàlamôn đã có một số bài viết, nhưng
mới chỉ tập trung miêu thuật, chưa
nghiên cứu sâu quan niệm tín ngưỡng
ân sau những hình thức và nội dung
các lễ thức.
Hiện nay, những quan niệm trong
trong tín ngưỡng vòng đời của người
Chăm Bàni và người Chăm Bàlamôn
Ninh Thuận có mẫu số chung của lớp
văn hoá bản địa và đều tổn tại biểu
hiện của chế độ mẫu hệ, nhưng lại có
sự khu biệt khá xa do những tư tưởng
triết lý của những tôn giáo khác nhau.
Trong khi ở người Chăm theo Bàn],
những lễ thức từ khi sinh ra và con
người tồn tại ở cõi sống được coi là quan
trọng và hành lễ theo những nguyên
tắc chặt chẽ như lễ đặt tên, lễ trưởng
thành... thì những lễ thức ấy không
quan trọng ở người Chăm Bàlamôn.
Ngược lại, trong khi người Chăm Bàni
°) Sở Văn hoá Thông tin Ninh Thuận, NCS
Viện Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật.
không coi trọng lắm nghỉ lễ tang ma thì
người Chăm Bàlamôn lại rất coi trọng.
Qua quá trình điền dã, khảo sát một số
nghỉ lễ tang ma của người Chăm
Bàlamôn Ninh Thuận, bước đầu chúng
tôi đưa ra những nhận định về quan
niệm của người Chăm về cõi sống và cõi
chết.
1. Quan niệm về vía và hồn ma
Hầu hết các dân tộc đều có quan
niệm về hồn, vía và hồn ma. Người
Chăm cũng quản niệm ở người sống có
hồn (Ssuan - đọc là Suan)” và vía
(Thơp hay saÈ) và hồn ma sau khi chết.
Khi có người chết nếu ông thầy không
yểm bùa để bắt giữ hồn lại thì sẽ trỏ
thành vong hồn (Ssuøanthap). Nếu
người chết không bình thường và không
được thực hiện các lễ thức cúng vái thì
vong hồn biến thành hồn ma (phắt)
quay lại quấy phá cõi sống. Người
Chăm rất sợ hồn ma hay vong hồn chết
trẻ (praub patra). Để giải thoát cho
những vong hồn này, người Chăm phải
tiến hành làm các nghỉ lễ như lễ ehuai
(lễ trả nợ lâu đời) trong lễ rap praung
(lễ múa lớn). Trước khi người chết tắt
thở, gia đình phải đặt người chết nằm
dưới đất, ngoài quan niệm con người
sinh ra từ đất mẹ và khi chết lại trở về
với đất mẹ, còn một lý do nữa là nếu
không chết ở dưới đất, hồn người chết
sẽ bị ma bắt đi. Vì vậy, nếu chết ở trên
giường, phải mời thầy pháp (grù bhut)
đến làm lễ gọi hồn (ei angan ssuan).
Những người chết không bình thường
không được làm nghỉ lễ tang ma ở trong
làng mà phải làm ở ngoài ruộng để làm
lễ trừ ma. Những người sau khi chết vì
lý do nào đó chưa thể làm lễ hoả táng
được ngay thì phải đem đi "chôn gửi".
22
PHAN QUỐC ANH
Trong thời gian chôn gửi, khi chưa hoả
táng thì hồn vẫn còn quấn quanh đâu
đó nên gia đình, tộc họ dù khó khăn
đến mấy cũng phải lo làm lễ hoả táng
thì linh hồn mới được giải thoát. Người
Chăm quan niệm, nếu làm không đúng
quy trình nghỉ lễ, trong quá trình làm
lễ có sơ suất hoặc làm không thành
tâm, người chết không những không tái
sinh được mà còn hoá thành hồn ma về
gây mọi tai hoạ. Trong nghỉ lễ tang ma,
ngoài các chức sắc pà xế (passeh) làm
chủ lễ, phải có một ông thầy cúng (gru
urang) đem một mâm lễ ra bên ngoài
nhà lễ để cúng các vong hồn đói đang
lang thang, vất vưởng ở cõi trần về phá
lễ tang. Sau đó, ông thầy đến ngã ba
đường để "bắt ma" vào một chiếc hố rồi
lấp đất lại, trấn yếm bằng bùa chú. Khi
khiêng người chết đi hoä táng, phải có
ông thầy cúng giữ nhà làm một mâm lễ
cúng trấn giữ tà ma (ôn khi sang),
xung quanh nhà phải chặt cây rào
(tượng trưng) yểm bùa bốn phương tám
hướng khuôn viên nhà, đóng chặt cổng
lại. Khi bốn ông khiêng quan tài đi hoả
táng về phải làm nghi thức hét thật to
báo với thầy giữ nhà là đã làm đầy đủ lễ
thức cho người chết, không có hồn ma
nào bám theo về. Ông thầy giữ nhà cũng
hét thật to báo là ở nhà không có ma nào
về. Trước khi mở cổng, ông thầy phải rắc
tro từ cổng vào và đốt một đống lửa giữa
sân để phòng ma quay lại.
2. Quan niệm về cõi chết
Theo các nhà nghiên cứu tôn giáo,
các tôn giáo trên thế giới đều có nguồn
gốc từ quan niệm linh hồn sau khi chết
[2, tr15]. Vì vậy, nghi lễ tang ma là nơi
thể hiện sâu đậm nhất giáo lý của mỗi
tôn giáo.
Như nhiều dân tộc khác trên thế
giới, người Chăm tin rằng con người có
phần thể xác và phần linh hồn. Phần
thể xác có thể bị chết, bị phân huỷ
nhưng linh hồn tồn tại trường cửu. Sự
khu biệt là ở chỗ quan niệm về thế giới
bên kia của mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo
có khác nhau. Thậm chí, có tộc người
còn hình dung ra con đường để đi đến
thế giới siêu hình ấy. G§. Từ Chi đã
nghiên cứu và sơ đồ hoá cõi Mường ma
theo quan niệm của người Mường, theo
đó, người Mường cho rằng vũ trụ "ba
tầng, bốn thế giới", trong đó có "mường
pưa tín" dành cho người chết ở trong
lòng đất. Giữa “mường pưa tín” (mường
ma) và "mường pưư” (mường con người
đang sống) có mối liên hệ với nhau và
nối với nhau bằng một đường ống" {3,
tr13 - B521.
Là một cư dân Đông Nam Á, trước
khi nền văn hoá Ấn Độ đến với Chăm
Pa thì người Chăm đã xây dựng nên
nền văn minh khá phát triển của mình.
Quan niệm phổ biến của người Đông
Nam Á là sau khi chết, hồn sẽ sang cõi
ma và sẽ đầu thai vào thai nhi do bà
mụ nặn ra trong bụng mẹ. Nếu coi
người Chăm là chủ nhân của Văn hoá
Sa Huỳnh thì có thể thấy quan niệm
"chết là sự đầu thai, sự tái sinh" có
trước khi tiếp nhận quan niệm về cõi
sống chết từ Ấn Độ. Đó là cách người
5a Huỳnh chôn người trong chum, mô
tả thai nhi trong bụng mẹ để tái sinh
cho người chết.
Khi tiếp nhận tôn giáo Bàlamôn,
một mặt, văn hoá bản địa bị giải cấu
trúc, một mặt người Chăm đã bản địa
hoá tư tưởng giáo lý Bàlamôn. Nhưng,
về cơ bản, tư tưởng Bàlamôn giáo đã
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
2ð
hằn sâu trong tâm khẩm của người
Chăm. Chúng tôi mạnh dạn đưa ra vài
sọ sánh quan niệm vũ trụ luận của
người Chăm Bàlamôn với một số quan
niệm vũ trụ luận của Bàlamôn giáo thể
hiện qua kinh Vêda.
Người Chăm Bàlamôn quan niệm
thế giới bên kia có ba cõi. Cõi thứ nhất
là cõi “paii chí yang qkarah”, là cõi
thiên đàng ở trên trời, dành cho linh
hồn những người "chết tốt", những
người khi sống ở trần gian không có tội
lối. Cõi thứ hai là cõi “lú !á” là cõi trần,
khi chết được đầu thai trở lại làm người
hay súc vật nào đó, tuy theo mức độ
công lao, đạo đức hay tội lỗi khi sống ở
trần gian. Cõi thứ ba là cõi “xu xá” hoặc
"nưrặb” là cõi địa ngục, dành cho linh
hồn những người khi sống ở trần gian
có nhiều tội lỗi [4, tr37]. Trong ba cõi
trên, cõi thiên đường trên trời cao có
bảy tầng được phân bố theo vùng của
thần mặt trăng, thần mặt trời, vùng
sáng là dải ngân hà, vùng tối vũ trụ là
tầng cao nhất. Người Chăm có câu
thành ngữ:
Tachuh tăn tănưh riya, tachuh tăn
aharah.
Có nghĩa là:
Bảy tầng địa ngục, bảy cõi thiên
đàng.
Trong nghi lễ tang ma, trên đường
khiêng người chết ra nơi hoả táng, khi
chuẩn bị quay đầu thi hài, ông thầy chỉ
cây gậy lên tầng nào của vũ trụ thì linh
hồn người chết được lên vùng đó [5,
tr79 - 84]. Sự quyết định linh hồn
người chết sẽ được về cõi nào ở thế giới
bên kia của người Chăm Bàlamôn rất
phức tạp, tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu
tố: người chết ở đẳng cấp nào, chết năm
bao nhiêu tuổi, chết vì lý do gì (chết
bình thường, chết không bình thường).
Người chết nếu là tăng lữ Bàlamôn thì
linh hồn được lên tầng cao nhất, siêu
thoát về cõi vĩnh hằng, thoát khỏi vòng
luân hồi.
Vũ trụ luận trong kinh Vêda cũng
chia thế giới làm ba cõi: Cõi hạ giới
(Prithiui) do thần lửa Agnl cai quản;
Cõôi không trung (trung gian -
antaribsha) do thần gió Vâyu cai quản;
Cõi thiên giới (2yøus) do thần mặt trời
Surya cai quản [6, tr70].
Việc phân chia các tầng ở cõi thiên
đàng hiện nay Chăm
Bàlamôn hẳn là có dấu ấn quan niệm
vũ trụ của kinh Vêda cổ đại, chỉ khác là
trên cõi thiên của người Chăm Bàlamôn
là bảy tầng còn theo kinh Vêda lại là
sáu tầng, tầng cao nhất là tầng ngự trị
của Yama, kinh Rig - Veda viết:
của người
"Tầng trời cao cả nhất trong sáu
tầng trời rộng lớn ở Tribadrubas.
.. Hỡi người chết, hãy tiến lên, tiến
uề phía trước trên con đường của tổ
tiên, nơi ông bà đã bước trước chúng ta.
Lên tầng trời cao nhất, anh sẽ gặp
Yama cùng ông bè tiên tổ, anh sẽ được
giải thoát tự do hoặc theo nghiệp luân
hồi" [T, tr83].
Như vậy, có thể thấy quan niệm về
vũ trụ luận và vòng đời người Chăm
theo Bàlamôn, mặc dù đã chồng xếp
nhiều lớp văn hoá, nhưng dấu ấn của
Bàlamôn giáo vẫn còn khá đậm. Dù có
nhiều biến thiên, nhưng những quan
niệm cơ bản về vũ trụ luận, về cõi sống
và cõi chết trong vòng đời về cơ bản vẫn
chịu sự ảnh hướng của tư tưởng kinh
24
PHAN QUỐC ANH
Vêda, vẫn tỗn tại dằng dai trong đời
sống linh người Chăm
Bàlamôn. Xuyên suốt hàng loạt lễ thức,
những chuỗi biểu tượng phức tạp trong
nghi lễ tang ma của người Chăm cũng
chỉ với mục đích thể hiện quan niệm về
cõi sống, cõi chết, về sự tái sinh và triết
giáo luân hồi giải thoát.
tâm của
3. Quan niệm về đẳng cấp và các
"loại chết"
Trong xã hội Chăm hôm nay, sự
phân biệt đẳng cấp đã mất mà chỉ còn
tên gọi, nhưng trong nghì lễ tang ma,
quan niệm ấy vẫn còn rõ nét, thể hiện ở
sự quy định các loại lễ tang dành cho
các dòng họ. Dù hôm nay, người chết có
giàu có đến đâu, làm đến chức vụ gì
trong xã hội mới, nếu thuộc dòng họ,
đẳng cấp thấp vẫn chỉ được làm những
lễ tang nhỏ, thậm chí không được làm
lễ hoá táng mà chỉ làm địa tắng với
quan niệm, hoả táng thì linh hồn được
lên thiên đàng, địa táng thì xuống địa
ngục. Nhiều người rất nghèo, nhưng
khi chết lại được làm lễ hoä táng lớn
nếu người đó thuộc dòng họ đẳng cấp
cao. Bàlamôn giáo là tôn giáo phân biệt
đẳng cấp khắc nghiệt, cơ sở giáo lý
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho
tầng lớp tăng lữ. Khi vào Chăm Pa, tư
tưởng này đã thống trị trong các triều
đại Chăm Pa trước đây để bảo vệ cho
giai cấp quý tộc, vua chúa.
Luật tục người Chăm Bàlamôn vẫn
như một hằng số văn hoá về sự phân
biệt đẳng cấp và thể hiện rõ nét nhất
trong tang lễ. Đẳng cấp của người chết
khác nhau thì làm tang lễ khác nhau
như lễ tang chôn, lễ hoä táng "hai
thầy", lễ hoả táng "bốn thầy".
- Lễ tang chôn (Đam Jăp brah) chỉ
dành cho đẳng cấp nông nô “hœÌun
halăb”. Trong người Chăm Bàlamôn ở
Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay, tồn
tại một số dòng họ chỉ được làm lễ tang
chôn (địa táng) mà người Chăm gọi là
"đòng "Chăm chôn" (Cham
baung - Cham dar). Đa số các nhà
nghiên cứu người Chăm cho rằng, sở dĩ
những dòng họ này không được thiêu
mà chỉ được chôn là vì đây là những
dòng họ trước đây thuộc đẳng cấp tôi
tớ, cùng định, nhưng cũng có những ý
kiến khác”, Số tộc họ thuộc "dòng
chôn" này không nhiều, chủ yếu tập
trung ở thôn Phước Lập, huyện Ninh
Ehướn, 8 thôn, Bình Righàa, buyển Nănh
Hải. Ở Bình Thuận cũng có một làng
Chăm vừa có "dòng chôn", vừa có "dòng
thiêu". Lễ tang chôn chỉ có một thầy
làm lễ, nghỉ thức cũng giống như lễ hoä
táng nhưng đơn giản hơn nhiều.
- Lễ hoả táng (đam chuh). Nghi lễ
hoả táng là nghi lễ quan trọng nhất của
người Chăm Bàlamôn và chỉ dành cho
những tộc họ thuộc dòng "Chăm thiêu”
(Chăm chuh). Mục đích của lễ hoä táng
là làm cho linh hồn siêu thoát lên thiên
đàng. Lễ hoá táng diễn ra rất phức tạp
trong bốn ngày và phải theo một kịch
bản tổng thể chặt chẽ được truyền lại
từ xa xưa bằng văn bản chữ Chăm cổ [9
tr79 - 84]. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi không miêu thuật các nghi lễ
tang ma mà chỉ tìm những quan niệm ẩn
đằng sau nội dung và hình thức nghỉ lễ.
chôn",
Đa số người Chăm Bàlamôn khi
chết đều được làm lễ hoä táng. Nhưng
trong số này lại chia ra làm nhiều loại
lễ hoả táng khác nhau. Đó là các loại lễ
tang nhỏ nhất từ lễ "hai thầy" đến lễ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
25
lớn nhất "bốn thầy". Trong lễ hoả táng
có lễ hoả táng tươi và lễ hoả táng khô.
Lễ hoảä táng tươi là lễ thiêu còn nguyên
thi hài. Lễ hoả táng khô là lễ thiêu hài
cốt, sau khi đã "chôn gửi" ít nhất một
năm. Loại đám tang nhỏ "hai thầy" còn
gọi là "đam xứt”, do hai thầy pà xế làm
lễ, dành cho đẳng cấp bình dân. Lễ
tang lớn "pruong” có "bốn thầy" (do bốn
thầy hành lễ) là lễ tang lớn nhất, dành
cho những đẳng cấp cao.
- Những quy định nghỉ lễ tang ma
theo lứa tuổi
Người chết nếu từ 16 tuổi trở lên
đến dưới 50 tuổi, được làm lễ tang đầy
đủ, nhưng cũng chỉ được làm đám nhỏ
"hai thầy". Người chết trên 50 tuổi, nếu
thuộc dòng họ thuộc đẳng cấp cao mới
được làm lễ tang "bốn thầy". Người chết
đúng 15 tuổi chỉ làm đám nhỏ, gọi là
đám “đam binah boh”, có nghĩa là đám
"nửa phần". Theo quan niệm của người
Chăm, dưới 15 tuổi là chưa hoàn thiện
một thực thể tín đồ, cho trẻ trở về với
cát bụi.
- Những quy định uề nghỉ thức tang
ma dành cho "các loại chết”
Nghi lễ tang ma người Chăm
Bàlamôn còn bị quy định bởi các "loại
chết", chết trong trường hợp nào, chết
khi bao nhiêu tuổi, có vợ, có chồng hay
có con chưa?
"Chết bình thường" (Mưiai sian),
hay còn gọi là "chết tốt", "chết lành" là
những người chết tại nhà, eòn nguyên
vẹn thi thể, không bị tật nguyền. Khi
tắt thở có người ôm, đỡ tay dưới đầu,
đầu người chết tựa vào ngực người đõ.
Sau khi tắt thở được đặt trên mặt đất.
Khi chết không rơi vào những ngày đại
ky: ngày hết trăng, mồng một, thứ năm
trong tuần.
"Chết không bình thường" (ÄMưiai
phào), hay còn gọi là "chết xấu", "chết
dữ" là khi người chết không hội đủ
những điều kiện của "chết bình thường"
nêu trên đều bị coi là "chết không bình
thường". Đó là những trường hợp không
chết ở nhà, chết do chiến tranh, bị
thương chết, chết do tai nạn, chết do tự
tử, người tật nguyền, chết không toàn
thây và kể cả những người chết đã lớn
tuổi nhưng chưa có vợ, có chồng, chết
dưới 15 tuổi .v.v... Với những loại chết
khác nhau sẽ có những thủ tục, nghỉ lễ
khác nhau. Những người "chết không
bình thường” sẽ không bao giờ được
nhập xương vào "kút" chính của dòng
họ mình và như vậy, linh hồn người
chết sẽ không được siêu thoát về thế
giới ông bà, tổ tiên.
Người Chăm rất sợ người chết tắt
thở vào ngày thứ năm (ngày xấu) hoặc
vào những giờ xấu. Mặc dù chết tại
nhà, có người đỡ nhưng nếu tắt thở vào
giờ xấu hay ngày xấu vẫn bị coi là "chết
không bình thường", "chết xấu" và sẽ
không được nhập kút. Để tránh tình
trạng này, nếu người sắp chết đã già
yếu và biết chắc là không thể sống được
nữa, người nhà đi mời một ông thầy pà
xế, thường là vị cả sư (podhia) và một
ông thầy pháp (grò pbuh) đến làm một
lễ cúng để lấy hồn người chết đi trước
khi người đó tắt thở. Lễ thức này gọi là
lễ “bah thòng”, có nghĩa là "cột dao", lễ
vật gồm trầu têm, rượu, ba quả trứng,
nến, trầm, một con dao. Mặc dù người
chết chưa tắt thở, nhưng sau khi làm lễ
này, hồn người chết đã được ông thầy
lấy đi. Người chết có thể nằm trên
26
PHAN QUỐC ANH
giường, không phải để xuống đất và
không cần người nhà đỡ thường trực
chờ tắt thở nữa nhưng vẫn được xếp vào
loại "chết bình thường". Lễ thức trên
chỉ dùng cho những người chết già,
không áp dụng cho người còn trẻ vì nếu
còn trẻ, mọi người hy vọng có thể sống
lại.
Cũng như các dân tộc khác, người
Chăm cũng có tục gửi của theo người
chết. Trong những ngày tang ma,
những đồ vật trước khi chết người chết
hay dùng, người thân mang đến những
bộ trang phục đẹp phủ lên cái lồng tre
úp trên thị hài (eœbung). Ngoài những
của cải cho người chết mang theo,
những người khác trong tộc họ cũng
nhân chuyến người chết về "thế giới
bên kia" mà "gửi nhờ" quần áo, đồ đạc,
của cải mang sang cho những người
thân đã chết trước đó. Ngày nay, đa số
những của cải có giá trị không còn hoảä
táng hay chôn theo người chết nữa, họ
mang phủ lên hoặc để bên thi hài người
chết, trước khi hoả táng, họ chọn những
thứ có giá trị mang về, thậm chí lấy xe
máy chạy vòng quanh giàn thiêu, bưng
tỉ vi qua giàn thiêu, coi như đã gửi cho
người thân ở thế giới -bên kia. Theo
Tôcarev thì "phong tục mang quà và
vật hiến tế cho người chết, tuyệt đối
không xuất phát từ những lý do mê tín
và lòng tin vào sự tồn tại của linh hồn
bên kia thế giới" [10, 153, tr214]. Còn
B.E.Taylor thì cho rằng "tặng một thứ
tài sản nào đó cho người chết là những
tập quán tôn giáo phổ biến nhất trên
thế giới, nhưng còn vì một ý nghĩa khác
là người ta sợ những đồ vật ấy của
người chết cũng có linh hồn. Nhưng về
sau, tặng đồ vật cho người chết mang ý
nghĩa tình cảm hơn là sự sợ hãi" [11,
tr569]. Còn người Trung Quốc thì họ
gửi cho người chết những biểu trưng
của cải như ngựa, người, tiền bạc bằng
cách đốt vàng mã. Có cả những đồ vật
khác nhau được gửi nhờ người chết
chuyển cho những người đã chết trước
đó... [12, trð78]. Như vậy, những biểu
hiện trong nghi lễ tang ma người Chăm
Bàlamôn là sự tích hợp, hỗn dung, đan
xen của nhiều lớp văn hoá, từ văn hoá
nguyên thuỷ cho đến tín ngưỡng tôn
giáo Bàlamôn, và có cả những quan
niệm của các dân tộc cộng cư, cận cư
khác.
4. Quan niệm luân hồi giải
thoát.
Ảnh hưởng của giáo lý Bàlamôn cổ
đại Ân Độ vẫn còn đậm nét trong quan
niệm về cõi chết của người Chăm. Đó là
triết giáo về "luân hồi giải thoát": Linh
hồn mỗi người sau khi chết sẽ được
sống lại ở trong một thân xác khác,
hình thái chuyển thế lại từ đầu của một
người. Sau này đạo Phật và đạo Giaina
phát triển thành tư tưởng "nghiệp báo
luân hồi". Nghi lễ tang ma của người
Chăm Bàlamôn thể hiện tư tưởng "luân
hồi giải thoát" hơn là "luân hồi nghiệp
báo". Quan niệm "luân hồi giải thoát"
thể hiện việc người Chăm phân biệt các
loại nghi lễ tang ma dành cho các loại
chết. Dù ở cõi trần người đó sống ra sao
(sống tốt hay xấu) nhưng nếu được
"chết bình thường" tức là chết tại nhà,
chết toàn thây thì vẫn được nhập cút về
với tổ tiên. Nhưng dù là người sống tốt
ở cõi trần, nếu bị "chết không bình
thường" tức là chết đường chết chợ,
hoặc chết không toàn thây vẫn không
được nhập vào cút chính. Theo Taylor,
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27
rất nhiều tộc người, trong đó có người
Arian Ấn Độ hay người Trung Quốc:
"Đặc biệt khiếp sợ hình phạt chém đầu,
vì họ tin rằng một người sống trên mặt
đất mà không có một bộ phận thân thể
nào thì sẽ sang thế giới mới y như thế"
[13, tr538]. Tâm lý người Chăm đến
nay vẫn có người còn sợ chết "không
bình thường", thậm chí không dám chết
ở bệnh viện hay chết bị mất một phần
thân thể. Bởi vì, nghi lễ tang ma vẫn
quy định nếu chết "không bình thường"
sẽ không được nhập cút chính về với
thần tổ tiên mà phải nhập vào cút phụ
nằm ở bên ngoài khu mộ cút dòng họ.
Gần đây, sau nhiều năm người Chăm
kiến nghị với các vị chức sắc, những cút
phụ này mới được đưa vào chung trong
nghĩa địa, nhưng không được vào khu
cút chính.
Như vậy, khác với tư tưởng "luân
hồi nghiệp báo" của đạo Giaina hay của
phật Giáo về triết lý "nhân quả", về
"nghiệp", "kiếp" của cõi sống và cõi chết
mà là dấu ấn của triết giáo Vêda "luân
hồi giải thoát".
5. Quan niệm nghỉ lễ tang ma là
nghỉ lễ "tái sinh"
Một quan niệm mang tính phổ biến
trong văn hoá nguyên thuy mà sau này
phát triển thành tín ngưỡng tôn giáo
của nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo là sự
"tái sinh" trở lại sau khi chết. Quan
niệm "chết là sự tái sinh" thể hiện rất
rõ trong nghi lễ tang ma của người
Chăm Bàlamôn từ nội dung tâm linh
cho đến hình thức hành lễ. Về hình
thức, trong nghỉ lễ tang ma phải làm
sao thể hiện được sự đầu thai và mang
thai "chín tháng mười ngày". Ông thầy
làm những động tác phồn thực bằng hai
tay biểu trưng sự giao phối âm dương,
hình thành nên bào thai, trải qua chín
tháng mười ngày, người mẹ mới sinh ra
con người. Lễ hoả táng (kể cả lễ chôn
thuộc dòng chôn) là sự trình diễn suốt
quá trình chín tháng mười ngày đó và
nối tiếp nhau, lặp đi lặp lại những con
số 9: Nhà làm lễ tang ma phải làm
bằng 9 cột, cột chính phải cao 9 han
(một đơn vị đo lường dân gian của
người Chăm, mỗi han được tính từ đầu
ngón tay đến khuýu tay), ngày cuối
cùng bà múpuh (bà đơm cơm) đơm 9
mâm cơm, bếp nấu đồ lễ phải 9 ông đầu
rau, trong ngày cuối cùng phải nấu đủ
chín lần cơm, ngay sau lễ hoä táng,
người ta đập hộp sọ lấy 9 miếng xương
trán để nhập kút. Ngoài ra, trong mọi
nghi lễ Chăm, con số 3 cũng được lặp đi
lặp lại: nhà 3 gian, làm phép 3 lần,
chiếc que nhỏ được gấp làm 3 tạo thành
hình tam giác đều và chôn vào đất,
chiếc mâm trầu (hônhala) 3 tầng.v.v...
thể hiện quan niệm vũ trụ 3 tầng thiên
- địa - nhân rất rõ nét và phổ biến. Và
3x 3=9 nhà 9 cột thành 3 gian, 9 ông
đầu rau tạo thành 3 bếp, trên màn
lamlinh treo 9 lá trâu chia làm ba
hàng, v.v... những con số này cũng thể
hiện trong bùa Ởzncar, một quan niệm
về vũ trụ của người Chăm, trên là con
số 6 và biểu tượng mặt trời, dưới là con
số 3 và biểu tượng mặt trăng. Tổng của
chúng là 9. Trong những tài liệu của
các nhà nghiên cứu về tang ma của
người Chăm Bàlamôn từ trước đến nay
chủ yếu mới dừng lại ở sự miêu thuật,
chưa aI nêu ra quan niệm sự "tái sinh"
được biểu hiện qua hàng loạt những
hình thức và những con số liên quan
đến sự đầu thai và sinh nở "tái sinh"
cho người chết như những con số cứ
28
PHAN QUỐC ANH
tăng dần trong ba ngày làm lễ hoả táng
với quan niệm bào thai được hình
thành (mặc dù lễ tang kéo dài trong
bốn ngày nhưng trong đó có một ngày
nghỉ để ban nhạc hát tang ca, nên
người Chăm vẫn tính tang ma ba ngày).
Buổi sáng là lễ thụ thai, cuối ngày bào
thai đã được 5 tháng (cuối ngày thứ
nhất đội 5 mâm cơm), 7 tháng (cuối
ngày thứ 3 đội 7 mâm cơm), rồi đủ 9
tháng trong ngày cuối cùng (9 người
phụ nữ đội 9 mâm cơm) trước khi
khiêng đi hoá táng. Thậm chí, trong
ngày cuối cùng, khi bào thai đã được 9
tháng, còn có nghi thức để biểu thị
thêm 10 ngày như đập một ông đầu
rau, quá trình khiêng rồi quay đầu và
đỡ cho sinh linh mới ra đời cũng là biểu
thị 10 ngày lẻ của quá trình mang thai.
Trong ngày lễ cho ăn (pahoăh) ỏ
ngày đầu tiên, do quan niệm bào thai
mới hình thành nên chỉ cho nước, gạo
và muối. Mâm cho người chết ăn chỉ có
một bát cơm và một quả trứng. Quả
trứng tượng trưng cho bào thai đang
còn trong trứng. Gạo, ngoài ý nghĩa hồn
lúa nuôi sống con người, trong quan
niệm người Chăm, gạo còn là phần da
thịt của cơ thể [14, tr32 - 37]. Khi bước
vào lễ chính, các ông thầy đã bỏ tên cũ
và đặt tên mới cho người chết. Trước
khi làm lễ cho ăn, sau khi ra gò mối
thỉnh lệnh về, ông thầy dừng lại ở ngã
ba đường vẽ bùa và xin đặt tên mới cho
bào thai, xin xe duyên, kết hôn cho bào
thai. Trong lễ cho ăn, ông pashế ralang
làm phép tạo hình hài (dùng có tranh
hoặc rơm thắt hình con hăng, còn gọi là
(thân chim, đầu
phượng, mình rồng) cho bào thai và
khấn cho các loại máu theo sợi dây chỉ
con rồng Chăm
căng từ trên màn /ưm linh (tượng trưng
cho bầu trời) chảy vào bào thai. Bốn
ngọn nến thắp ở bốn góc, một ngọn nến
thắp ở đầu càkung, các vị chức sắc
Chăm giải thích rằng đó là năm vị thần
linh trong cơ thể con người, bao gồm
một đầu, hai vai và hai chân. Sau khi
ông pashế ralang làm phép tạo hình
hài, bốn ngọn nến được bó lại để lên thi
hài người chết với quan niệm thần lửa
sẽ nhập vào hình hài, tạo nên sự sống.
Trong ngày thứ hai, ban nhạc phải hát
ba buổi sáng, chiều tối với 160 bài tang
ca để ru cho các loại máu và hồn nhập
vào tình linh mới.
Trong nghỉ lễ tang ma, thi hài
người chết được đặt trong chiếc lồng tre
được gọi là Cờbung (đọc là chà cung).
Còkbung là biểu tượng bụng người mang
thai nên được làm rất giống với bụng bà
chửa đã đến ngày sinh nở. Bếp lửa ở
đầu càkung phải chăng là bếp lửa bà đẻ
như tục "nằm lửa" trong nghỉ lễ sinh đẻ
của người Chăm và nhiều dân tộc Đông
Nam Á.
Chiếc nhà táng (hang thôÈ) cũng
mang nhiều ý nghĩa và biểu tượng của
sự tái sinh. Ngoài biểu tượng bò thần
“baprin” và “can”, ở đuôi nhà táng có hai
dải vải treo song song biểu tượng yoni
của người sinh nở, đồng thời cũng là
cửa mở cho linh hồn lên thiên đường.
Đây có lẽ là "tàn tích" (theo cách gọi
của E.B.Taylor) của thời kỳ văn hoá
nguyên thuỷ: "Người Trung Quốc mở
một lỗ ở mái nhà để cho linh hồn thoát
ra khi chết. Ở Pháp, Đức và Anh cho
đến nay vẫn còn một tập quán mê tín
hết sức phổ biến là mở cửa số hay cửa
lớn cho linh hồn thoát khỏi thân thể"
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
29
[15, tr540]. Ngoài ý nghĩa mở cửa ra
thiên đường, người Chăm cho rằng cửa
của nhà táng còn là biểu tượng yoni của
người sinh đẻ, một quan niệm tái sinh
rất rõ ràng trong nghi lễ tang ma.
đầu" giữa đường khi
khiêng người chết đi thiêu cũng là một
hiện tượng tượng trưng cho sự sinh nở.
Các vị chức sắc cho rằng, khi khiêng đi
chôn là khi bà mẹ đang trở dạ. Nghi
thức quay đầu người chết vừa có ý
nghĩa làm cho người chết không biết
đường quay trở lại vừa thể hiện sự quay
đầu của thai nhi. Lúc khiêng người chết
đi, bốn ông khiêng, khiêng đầu người
chết đi trước, (phía đòn khiêng hướng
đầu người chết có dán hình ømecar, phía
đòn khiêng để chân người chết có dán
hình bò thần Køp¿), sau khi ông thầy
cả sư cầm gậy thần chỉ lên trời, quyết
định tầng trời mà linh hồn sẽ lên, bốn
ông khiêng làm thủ tục quay đầu người
chết (thực chất là chỉ đổi vai, quay
người theo hướng ngược lại). Lúc này,
phía đầu dán hình bò thần Kapil sẽ đi
trước để đến bãi làm lễ hoä táng, khi
đưa vào rạp thì chân vào trước, sau khi
làm thủ tục lại đưa đầu ra trước để đặt
lên giàn thiêu. Động tác này rất phù
hợp với việc trở đạ quay đầu thai nhi để
khi sinh, đầu thai nhì ra trước. Ngoài ý
nghĩa quay đầu thai nhi, hiện tượng
Sự “quay
quay đầu còn liên quan đến chuyện cổ
Chăm về bò thần Kapin. Theo đó,
Omear không thể bơi qua sông được mà
phải cậy đến bò thần Kapil mới qua
được. Truyện "sự tích về bò thần Kaplil"
là hình ảnh của bò thần Nandin trong
Bàlamôn giáo. Người Chăm tin rằng bò
thần Kapil có vai trò quan trọng trong
việc đưa linh hồn người chết qua sông
Kao Phanh để lên trời [16 tr18].
6. Quan niêm trong tín ngưỡng
thờ kút
Kút là nghĩa địa của người Chăm.
Mỗi người chết bình thường sau khi hoä
táng sẽ được giữ lại 9 miếng xương trán
(người Chăm cho rằng, trán là nơi tập
trung những gì tỉnh tuý nhất của con
người, các mảnh xương được đục đếẽo,
gọt tròn như những đồng xu) để nhập
vào kút chính của dòng họ và trở thành
thần tổ tiên (Ppo prob po pảta), là nơi
cư ngụ của các thần tổ tiên để gia đình,
dòng tộc thờ phụng. Chín miếng xương
trán được người Chăm đựng vào trong
một chiếc hộp (klong) và được làm lễ
nhập kút. Người Chăm cho rằng, khi
chưa nhập kút, linh hồn người chết vẫn
ở trong 9 miếng xương trán ấy. Người
Chăm có một tập tục rất đáng chú ý vì
nó chứa đựng quan niệm về linh hồn và
mang tính nhân văn sâu sắc, đó là tục
"xương tiễn đưa xương". Khi hai vợ
chồng đều đã làm lễ hoä táng và hai
hộp xương chưa được nhập kút. Theo
quy định, xương của người chồng phải
được đưa về nhập vào kút theo dòng họ
mẹ đẻ. Trong ngày rước hộp xương
chồng về phía nhà chồng, hai hộp
xương (xương vợ xương chồng, 18 miếng
xương) được để ngồi lên kiệu hoa để
tiễn về nhà chồng. Sau đó xương người
vợ lại trở về để chờ ngày làm lễ nhập
vào kút của dòng họ mình.
Người theo Bàlamôn ở Ấn Độ và ở
một số nước khác không có tục giữ lại
chín miếng xương trán như của người
Chăm Bàlamôn hiện nay. Giáo lý
Bàlamôn quy định: "Sau khi thiêu, mọi
30
PHAN QUỐC ANH
người tắm rửa và ba ngày sau, những
mảnh xương chưa cháy hết và tro được
thu gom và thả xuống sông Hằng" [177].
Những tư liệu lịch sử của người Trung
Hoa viết về Chăm Pa cũng cho chúng ta
biết, trước đây, người Chăm không có
tục giữ lại 9 miếng xương trán để nhập
kút: "... Khi khiêng người chết đến gần
một con sông thì họ thôi khóc; họ đặt
xác lên đống củi rồi đốt, sau đó nhặt lấy
tro than cho vào một cái lọ bằng đất,
đem ném xuống sông" [18, tr27]. Như
vậy, tục nhập kút và thờ kút của người
Chăm Bàlamôn không phải là tín
ngưỡng tôn giáo Bàlamôn và cũng
không phải là ở lớp văn hoá bản địa
Chăm cũng không có. Vậy nguồn gốc
tục thờ kút của người Chăm xuất phát
từ đâu? Có từ bao giờ? Ông Sử Văn
Ngọc trong bài viết: "Đám ma người
Chàm Bàlamôn Thuận Hải" cho rằng
tục chặt thủ cấp khi thiêu người chết là
xuất phát từ sự tích Um Mưrup, con
vua Rum Muk, thái tử đạo
Bàlamôn bị đạo Hồi mê hoặc, phản bội
vua cha, sau khi bị bêu đầu làm gương"
[19, tr183]. Theo ông Bố Xuân Hổ (một
người Chăm có nhiều năm nghiên cứu
phong tục tập quán Chăm) ở Bắc Bình,
Bình Thuận, tục thờ kút của người
Chăm xuất hiện vào thời vua Ppo
một
Alloah, việc mang xương cốt về thờ
chưa có. Sau khi thiêu, phải mang tro
bố trên các dòng sông, suối lớn, nhỏ:
của vua chúa thì bố vào biển cả, của
quý tộc giàu có thì bố xuống dòng sông,
của nhân dân lao động nghèo thì bỏ
trên dòng suối hoặc mương nước, ao hồ.
Từ thời vua Ppo Alloah đến Ppo
Klongiral (vào khoảng cuối thế kỉ XI?)
xương cốt của vua chúa được chôn ở
trong tháp, còn của quý tộc thì ở lăng
tầm. Đối với dân lao động nghèo thì vần
bỏ tro xuống nước. Cho đến khi vua Ppo
Klongiral lên ngôi (thế kỷ XI), xương
cốt dân nghèo mới được chôn vào kút
dưới các biểu tượng đá để thờ phụng
nhờ một sự kiện còn lưu giữ trong
truyền thuyết Chăm [201].
Xét về mặt tín ngưỡng, ngờ rằng tục
thờ kút của người Chăm có thể liên
quan đến tín ngưỡng thờ đá của hầu
hết các tộc người trong tín ngưỡng
nguyên thuỷ. B.E. Taylor cho rằng, tục
thờ hồn đá có ở hầu hết các tộc người
trên thế giới, đặc biệt là ở Ấn Độ:
"Những nhóm đá xếp chồng dọc lên một
cách đặc sắc ở Ấn Độ mô tả hay mang
trong bản thân chúng những vị thần, ở
nam Ấn Độ có thể thấy khắp trên
những cánh đồng từng khóm bốn hay
năm hòn đá xếp thành hàng và bôi đồ"
[21, tr739]. Hiện nay, các gò đất cạnh
bờ ruộng của người Chăm là những
nghĩa địa với các biểu tượng kút bằng
các cột đá. Sự bài trí, số lượng biểu
tượng đá tuỳ thuộc vào đẳng cấp của
dòng họ được chôn theo những điều
kiện, những quy tắc chặt chẽ. Người
Chăm coi những biểu tượng kút là nơi
cư ngụ của ông bà, tổ tiên (on Prok) và
được phụng thờ, làm các nghỉ lễ khấn
vái trong các dịp lễ hội Ka tê hàng
năm. Như vậy, tục thờ kút cũng có thể
là một hiện tượng phái sinh của tôn
giáo Ấn Độ.
Kết luận: Trong các nghi lễ vòng
đời người Chăm Bàlamôn không có
nghi lễ đặt tên, nghi lễ trưởng thành,
nghi lễ thượng thọ và lên lão. Đó là
nguyên nhân làm cho những nghi lễ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
ỏ]
này dễ dàng tiếp nhận những ảnh
hưởng từ bên ngoài và những yếu tố
văn hoá truyền thống nhanh chóng bị
mai một. Ngược lại, nghi lễ tang ma
được truyền từ bao đời nay với những
quy định khắt khe bằng văn bản về quy
trình làm lễ, nghi thức, lời khấn, bùa
chú... cũng như quan niệm về thế giới
sau khi chết vẫn còn giữ được những
yếu tố văn hoá truyền thống. Hệ thống
chức sắc Bàlamôn hình thành nên chủ
yếu để thực hiện các nghi lễ tang ma.
Hệ thống nhạc cụ, hàng trăm bài hát lễ
có nguồn gốc cúng tế từ kinh Vêda chủ
yếu sử dụng trong nghỉ lễ tang ma. Trong
lễ nhập kút có màn múa của bà bóng
dòng họ (Muk paJau) trong trạng thái
ecstasy (ngây ngất) của sahman giáo.
Vậy mà trong toàn bộ ba ngày của nghi lễ
cưới xin, tuyệt nhiên không có một nhạc
cụ nào của người Chăm được đưa ra sử
dụng. Đây vẫn là vấn đề cần phải tiếp
tục nghiên cứu tìm lời giải đáp.
Bên cạnh sự tồn tại những tín
ngưỡng bản địa, những nét cơ bản của
tìn ngưỡng Bàlamôn giáo cổ đại cho đến
nay vẫn tồn tại quan niệm về vòng đời
của người Chăm Bàlamôn. Nét đặc
trưng cơ bản nhất, đó là quan niệm cõi
sống là cõi tạm, cối chết mới là quan
trọng với triết giáo luân hồi giải thoát.
Nghi lễ tang ma hiện nay của người
Chăm Bàlamôn còn chứa đựng nhiều
yếu tố văn hoá dân gian truyền thống
với tính nguyên hợp cao. Bên cạnh
những yếu tố phi giá trị như sự nặng
nề, tốn kém thời gian, tiền bạc, sự ô
nhiễm môi trường của những lễ hoả
táng tươi... nghị lễ tang ma của người
Chăm Bàlamôn còn chứa đựng nhiều
những giá trị văn hoá cao như giá trị xã
hội, giá trị nhân văn, giá trị đạo đức,
giá trị thẩm mĩ .v.v... Bài viết này như
một sự gợi mở để tiếp tục nghiên cứu,
tiếp tục "gạn đục khơi trong" để làm
sao vừa bảo tồn được những giá trị văn
hoá, vừa vận động người Chăm loại bỏ
bót những yếu tố phi giá trị, góp phần
thúc đẩy kinh tế, xã hội Chăm phát
triển.
P.Q.A
1. Từ vựng tiếng Chăm trong bài viết
này chúng tôi sử dụng theo cuốn Từ điển
Chăm - Việt, Bùi Khánh Thế (chủ biên,
1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2,3. Nguyễn Từ Chi, 1996, Góp phần
nghiên cứu uăn hoá uà tộc người, Nxb Văn
hoá thông tin, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật,
Hà Nội, tr15, 214.
4, 14. Phan Quốc Anh, 2002 "Khảo sát
lễ chiêu hồn nhập cốt của người Chăm
Bàlamôn", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 7
(217), trä2 - äĩ.
5, 9. Phan Quốc Anh, 2009, "Lễ hoä
Chăm Bàlamôn Ninh
Thuận", Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á,
số 3 (B4) tr79 - 84.
táng của người
6, 7. Doãn Chính, 1999, Lịch sử triết
học Ân Độ cổ đại, Nxb Thanh Niên, Hà Nội,
1999, tr70, 8ã.
8, Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau
về "dòng chôn" của một số tộc họ người
Chăm Bàlamôn. Ngoài ý kiến lễ chôn dành
cho đẳng cấp cùng đỉnh, tôi tớ, còn có ý
kiến cho rằng có một bộ phận người Chăm
trước đây theo và thờ một hoàng hậu người
Việt của vua Pô Nit nên làm lễ tang chôn
theo bà.
39 PHAN QUỐC ANH
11, 12, 13, lã, 21. Tnwldr.E.B, 2001,
Văn hoá nguyên thuỷ, bản dịch của Huyền
Giang, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật xuất
ban, Hà Nội.
16. Nhiều tác giả 2000, Truyện cổ đân
gian Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội, tr18.
17. A.L. Basham 1969, The uuonder that
tuas [ndia, London, Bản dịch tiếng Nga, tr
171 - 2300.
18. Maspero. G.L, 1928, Vương quốc
Chăm Pa (Le royaqume du Champa), Bàn
dịch của Đào Từ Khải, Parl, tr27.
19. Xin xem Sử Văn Ngọc, 1998. "Đám
ma người Chàm Bàlamôn ở Thuận Hải",
trong Những uấn đề dân tộc học ở miền
Nam Việt Nam, tập 9, quyển 9, Ban dân tộc
- Viên KHXH thành phố Hễ Chí Minh,
tr18ä.
20. Truyền thuyết về sự tích nhập kút
như sau: Ppo Klongirai vốn mồ côi, được
hai ông bà cùng làng nuôi dưỡng. Khi hai
ông bà chết, ông dựng kút chôn xương ông
bà để đền ơn. Sau này Ppo Klongirai lên
làm vua. Vào những năm sau đó có nạn hạn
hán, dịch bệnh đói kém và chết chóc tràn
lan, người dân cho rằng vì xương cốt người
sau khi thiêu vứt bừa bãi, hồn phách không
siêu thoát được nên về phá phách. Nhân
dân nổi dậy đấu tranh đòi cho nhập xương
cốt người chết để thờ phụng. Cuối cùng vua
đồng ý cho nhân dân dựng kút như vua
quan, cũng như trước đây ông đã dựng kút
cho ông bà nuôi dưỡng mình (theo Bố Xuân
Hổ, "Tín ngưỡng tượng kút ở vùng Chàm
Thuận Hải", Tạp chí Dân tộc học số 4, 1977,
tr17)