NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21



NHỮNG QUAN NIỆM TRONG TANG MA CỦA NGƯỜI CHĂM
BẢLAMÔN
PHAN QUỐC ANHỈ)
ang ma là một nghỉ lễ quan trọng ta trong các nghỉ lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn, trong đó chứa đựng các quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh tích hợp qua diễn trình văn hoá vừa phong phú, vừa phức tạp của người Chăm. Về tang ma của người Chăm Bàlamôn đã có một số bài viết, nhưng mới chỉ tập trung miêu thuật, chưa nghiên cứu sâu quan niệm tín ngưỡng ân sau những hình thức và nội dung các lễ thức.
Hiện nay, những quan niệm trong trong tín ngưỡng vòng đời của người Chăm Bàni và người Chăm Bàlamôn Ninh Thuận có mẫu số chung của lớp văn hoá bản địa và đều tổn tại biểu hiện của chế độ mẫu hệ, nhưng lại có sự khu biệt khá xa do những tư tưởng triết lý của những tôn giáo khác nhau. Trong khi ở người Chăm theo Bàn], những lễ thức từ khi sinh ra và con người tồn tại ở cõi sống được coi là quan trọng và hành lễ theo những nguyên tắc chặt chẽ như lễ đặt tên, lễ trưởng thành... thì những lễ thức ấy không quan trọng ở người Chăm Bàlamôn. Ngược lại, trong khi người Chăm Bàni
°) Sở Văn hoá Thông tin Ninh Thuận, NCS Viện Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật.
không coi trọng lắm nghỉ lễ tang ma thì người Chăm Bàlamôn lại rất coi trọng. Qua quá trình điền dã, khảo sát một số nghỉ lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn Ninh Thuận, bước đầu chúng tôi đưa ra những nhận định về quan niệm của người Chăm về cõi sống và cõi chết. 1. Quan niệm về vía và hồn ma
Hầu hết các dân tộc đều có quan niệm về hồn, vía và hồn ma. Người Chăm cũng quản niệm ở người sống có hồn (Ssuan - đọc là Suan)” và vía (Thơp hay saÈ) và hồn ma sau khi chết. Khi có người chết nếu ông thầy không yểm bùa để bắt giữ hồn lại thì sẽ trỏ thành vong hồn (Ssuøanthap). Nếu người chết không bình thường và không được thực hiện các lễ thức cúng vái thì vong hồn biến thành hồn ma (phắt) quay lại quấy phá cõi sống. Người Chăm rất sợ hồn ma hay vong hồn chết trẻ (praub patra). Để giải thoát cho những vong hồn này, người Chăm phải tiến hành làm các nghỉ lễ như lễ ehuai (lễ trả nợ lâu đời) trong lễ rap praung (lễ múa lớn). Trước khi người chết tắt thở, gia đình phải đặt người chết nằm dưới đất, ngoài quan niệm con người sinh ra từ đất mẹ và khi chết lại trở về với đất mẹ, còn một lý do nữa là nếu không chết ở dưới đất, hồn người chết sẽ bị ma bắt đi. Vì vậy, nếu chết ở trên giường, phải mời thầy pháp (grù bhut) đến làm lễ gọi hồn (ei angan ssuan). Những người chết không bình thường không được làm nghỉ lễ tang ma ở trong làng mà phải làm ở ngoài ruộng để làm lễ trừ ma. Những người sau khi chết vì lý do nào đó chưa thể làm lễ hoả táng được ngay thì phải đem đi "chôn gửi". 22
PHAN QUỐC ANH


Trong thời gian chôn gửi, khi chưa hoả táng thì hồn vẫn còn quấn quanh đâu đó nên gia đình, tộc họ dù khó khăn đến mấy cũng phải lo làm lễ hoả táng thì linh hồn mới được giải thoát. Người Chăm quan niệm, nếu làm không đúng quy trình nghỉ lễ, trong quá trình làm lễ có sơ suất hoặc làm không thành tâm, người chết không những không tái sinh được mà còn hoá thành hồn ma về gây mọi tai hoạ. Trong nghỉ lễ tang ma, ngoài các chức sắc pà xế (passeh) làm chủ lễ, phải có một ông thầy cúng (gru urang) đem một mâm lễ ra bên ngoài nhà lễ để cúng các vong hồn đói đang lang thang, vất vưởng ở cõi trần về phá lễ tang. Sau đó, ông thầy đến ngã ba đường để "bắt ma" vào một chiếc hố rồi lấp đất lại, trấn yếm bằng bùa chú. Khi khiêng người chết đi hoä táng, phải có ông thầy cúng giữ nhà làm một mâm lễ cúng trấn giữ tà ma (ôn khi sang), xung quanh nhà phải chặt cây rào (tượng trưng) yểm bùa bốn phương tám hướng khuôn viên nhà, đóng chặt cổng lại. Khi bốn ông khiêng quan tài đi hoả táng về phải làm nghi thức hét thật to báo với thầy giữ nhà là đã làm đầy đủ lễ thức cho người chết, không có hồn ma nào bám theo về. Ông thầy giữ nhà cũng hét thật to báo là ở nhà không có ma nào về. Trước khi mở cổng, ông thầy phải rắc tro từ cổng vào và đốt một đống lửa giữa sân để phòng ma quay lại.
2. Quan niệm về cõi chết
Theo các nhà nghiên cứu tôn giáo, các tôn giáo trên thế giới đều có nguồn gốc từ quan niệm linh hồn sau khi chết [2, tr15]. Vì vậy, nghi lễ tang ma là nơi thể hiện sâu đậm nhất giáo lý của mỗi tôn giáo.
Như nhiều dân tộc khác trên thế giới, người Chăm tin rằng con người có phần thể xác và phần linh hồn. Phần thể xác có thể bị chết, bị phân huỷ nhưng linh hồn tồn tại trường cửu. Sự khu biệt là ở chỗ quan niệm về thế giới bên kia của mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo có khác nhau. Thậm chí, có tộc người còn hình dung ra con đường để đi đến thế giới siêu hình ấy. G§. Từ Chi đã nghiên cứu và sơ đồ hoá cõi Mường ma theo quan niệm của người Mường, theo đó, người Mường cho rằng vũ trụ "ba tầng, bốn thế giới", trong đó có "mường pưa tín" dành cho người chết ở trong lòng đất. Giữa “mường pưa tín” (mường ma) và "mường pưư” (mường con người đang sống) có mối liên hệ với nhau và nối với nhau bằng một đường ống" {3, tr13 - B521.
Là một cư dân Đông Nam Á, trước khi nền văn hoá Ấn Độ đến với Chăm Pa thì người Chăm đã xây dựng nên nền văn minh khá phát triển của mình. Quan niệm phổ biến của người Đông Nam Á là sau khi chết, hồn sẽ sang cõi ma và sẽ đầu thai vào thai nhi do bà mụ nặn ra trong bụng mẹ. Nếu coi người Chăm là chủ nhân của Văn hoá Sa Huỳnh thì có thể thấy quan niệm "chết là sự đầu thai, sự tái sinh" có trước khi tiếp nhận quan niệm về cõi sống chết từ Ấn Độ. Đó là cách người 5a Huỳnh chôn người trong chum, mô tả thai nhi trong bụng mẹ để tái sinh cho người chết.
Khi tiếp nhận tôn giáo Bàlamôn, một mặt, văn hoá bản địa bị giải cấu trúc, một mặt người Chăm đã bản địa hoá tư tưởng giáo lý Bàlamôn. Nhưng, về cơ bản, tư tưởng Bàlamôn giáo đã NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI



hằn sâu trong tâm khẩm của người Chăm. Chúng tôi mạnh dạn đưa ra vài sọ sánh quan niệm vũ trụ luận của người Chăm Bàlamôn với một số quan niệm vũ trụ luận của Bàlamôn giáo thể hiện qua kinh Vêda.
Người Chăm Bàlamôn quan niệm thế giới bên kia có ba cõi. Cõi thứ nhất là cõi “paii chí yang qkarah”, là cõi thiên đàng ở trên trời, dành cho linh hồn những người "chết tốt", những người khi sống ở trần gian không có tội lối. Cõi thứ hai là cõi “lú !á” là cõi trần, khi chết được đầu thai trở lại làm người hay súc vật nào đó, tuy theo mức độ công lao, đạo đức hay tội lỗi khi sống ở trần gian. Cõi thứ ba là cõi “xu xá” hoặc "nưrặb” là cõi địa ngục, dành cho linh hồn những người khi sống ở trần gian có nhiều tội lỗi [4, tr37]. Trong ba cõi trên, cõi thiên đường trên trời cao có bảy tầng được phân bố theo vùng của thần mặt trăng, thần mặt trời, vùng sáng là dải ngân hà, vùng tối vũ trụ là tầng cao nhất. Người Chăm có câu thành ngữ:
Tachuh tăn tănưh riya, tachuh tăn aharah.
Có nghĩa là:
Bảy tầng địa ngục, bảy cõi thiên đàng.
Trong nghi lễ tang ma, trên đường khiêng người chết ra nơi hoả táng, khi chuẩn bị quay đầu thi hài, ông thầy chỉ cây gậy lên tầng nào của vũ trụ thì linh hồn người chết được lên vùng đó [5, tr79 - 84]. Sự quyết định linh hồn người chết sẽ được về cõi nào ở thế giới bên kia của người Chăm Bàlamôn rất phức tạp, tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu
tố: người chết ở đẳng cấp nào, chết năm bao nhiêu tuổi, chết vì lý do gì (chết bình thường, chết không bình thường). Người chết nếu là tăng lữ Bàlamôn thì linh hồn được lên tầng cao nhất, siêu thoát về cõi vĩnh hằng, thoát khỏi vòng luân hồi.
Vũ trụ luận trong kinh Vêda cũng chia thế giới làm ba cõi: Cõi hạ giới (Prithiui) do thần lửa Agnl cai quản; Cõôi không trung (trung gian - antaribsha) do thần gió Vâyu cai quản; Cõi thiên giới (2yøus) do thần mặt trời Surya cai quản [6, tr70].
Việc phân chia các tầng ở cõi thiên đàng hiện nay Chăm Bàlamôn hẳn là có dấu ấn quan niệm vũ trụ của kinh Vêda cổ đại, chỉ khác là trên cõi thiên của người Chăm Bàlamôn là bảy tầng còn theo kinh Vêda lại là sáu tầng, tầng cao nhất là tầng ngự trị của Yama, kinh Rig - Veda viết:
của người
"Tầng trời cao cả nhất trong sáu tầng trời rộng lớn ở Tribadrubas.
.. Hỡi người chết, hãy tiến lên, tiến
uề phía trước trên con đường của tổ
tiên, nơi ông bà đã bước trước chúng ta.
Lên tầng trời cao nhất, anh sẽ gặp Yama cùng ông bè tiên tổ, anh sẽ được giải thoát tự do hoặc theo nghiệp luân hồi" [T, tr83].
Như vậy, có thể thấy quan niệm về vũ trụ luận và vòng đời người Chăm theo Bàlamôn, mặc dù đã chồng xếp nhiều lớp văn hoá, nhưng dấu ấn của Bàlamôn giáo vẫn còn khá đậm. Dù có nhiều biến thiên, nhưng những quan niệm cơ bản về vũ trụ luận, về cõi sống và cõi chết trong vòng đời về cơ bản vẫn chịu sự ảnh hướng của tư tưởng kinh 24
PHAN QUỐC ANH


Vêda, vẫn tỗn tại dằng dai trong đời sống linh người Chăm Bàlamôn. Xuyên suốt hàng loạt lễ thức, những chuỗi biểu tượng phức tạp trong nghi lễ tang ma của người Chăm cũng chỉ với mục đích thể hiện quan niệm về cõi sống, cõi chết, về sự tái sinh và triết giáo luân hồi giải thoát.
tâm của
3. Quan niệm về đẳng cấp và các "loại chết"
Trong xã hội Chăm hôm nay, sự phân biệt đẳng cấp đã mất mà chỉ còn tên gọi, nhưng trong nghì lễ tang ma, quan niệm ấy vẫn còn rõ nét, thể hiện ở sự quy định các loại lễ tang dành cho các dòng họ. Dù hôm nay, người chết có giàu có đến đâu, làm đến chức vụ gì trong xã hội mới, nếu thuộc dòng họ, đẳng cấp thấp vẫn chỉ được làm những lễ tang nhỏ, thậm chí không được làm lễ hoá táng mà chỉ làm địa tắng với quan niệm, hoả táng thì linh hồn được lên thiên đàng, địa táng thì xuống địa ngục. Nhiều người rất nghèo, nhưng khi chết lại được làm lễ hoä táng lớn nếu người đó thuộc dòng họ đẳng cấp cao. Bàlamôn giáo là tôn giáo phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, cơ sở giáo lý nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho tầng lớp tăng lữ. Khi vào Chăm Pa, tư tưởng này đã thống trị trong các triều đại Chăm Pa trước đây để bảo vệ cho giai cấp quý tộc, vua chúa.
Luật tục người Chăm Bàlamôn vẫn như một hằng số văn hoá về sự phân biệt đẳng cấp và thể hiện rõ nét nhất trong tang lễ. Đẳng cấp của người chết khác nhau thì làm tang lễ khác nhau như lễ tang chôn, lễ hoä táng "hai thầy", lễ hoả táng "bốn thầy".
- Lễ tang chôn (Đam Jăp brah) chỉ dành cho đẳng cấp nông nô “hœÌun halăb”. Trong người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay, tồn tại một số dòng họ chỉ được làm lễ tang chôn (địa táng) mà người Chăm gọi là "đòng "Chăm chôn" (Cham baung - Cham dar). Đa số các nhà nghiên cứu người Chăm cho rằng, sở dĩ những dòng họ này không được thiêu mà chỉ được chôn là vì đây là những dòng họ trước đây thuộc đẳng cấp tôi tớ, cùng định, nhưng cũng có những ý kiến khác”, Số tộc họ thuộc "dòng chôn" này không nhiều, chủ yếu tập trung ở thôn Phước Lập, huyện Ninh Ehướn, 8 thôn, Bình Righàa, buyển Nănh Hải. Ở Bình Thuận cũng có một làng Chăm vừa có "dòng chôn", vừa có "dòng thiêu". Lễ tang chôn chỉ có một thầy làm lễ, nghỉ thức cũng giống như lễ hoä táng nhưng đơn giản hơn nhiều.
- Lễ hoả táng (đam chuh). Nghi lễ hoả táng là nghi lễ quan trọng nhất của người Chăm Bàlamôn và chỉ dành cho những tộc họ thuộc dòng "Chăm thiêu” (Chăm chuh). Mục đích của lễ hoä táng là làm cho linh hồn siêu thoát lên thiên đàng. Lễ hoá táng diễn ra rất phức tạp trong bốn ngày và phải theo một kịch bản tổng thể chặt chẽ được truyền lại từ xa xưa bằng văn bản chữ Chăm cổ [9 tr79 - 84]. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không miêu thuật các nghi lễ tang ma mà chỉ tìm những quan niệm ẩn đằng sau nội dung và hình thức nghỉ lễ.
chôn",
Đa số người Chăm Bàlamôn khi chết đều được làm lễ hoä táng. Nhưng trong số này lại chia ra làm nhiều loại lễ hoả táng khác nhau. Đó là các loại lễ tang nhỏ nhất từ lễ "hai thầy" đến lễ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
25


lớn nhất "bốn thầy". Trong lễ hoả táng có lễ hoả táng tươi và lễ hoả táng khô. Lễ hoảä táng tươi là lễ thiêu còn nguyên thi hài. Lễ hoả táng khô là lễ thiêu hài cốt, sau khi đã "chôn gửi" ít nhất một năm. Loại đám tang nhỏ "hai thầy" còn gọi là "đam xứt”, do hai thầy pà xế làm lễ, dành cho đẳng cấp bình dân. Lễ tang lớn "pruong” có "bốn thầy" (do bốn thầy hành lễ) là lễ tang lớn nhất, dành cho những đẳng cấp cao.
- Những quy định nghỉ lễ tang ma theo lứa tuổi
Người chết nếu từ 16 tuổi trở lên đến dưới 50 tuổi, được làm lễ tang đầy đủ, nhưng cũng chỉ được làm đám nhỏ "hai thầy". Người chết trên 50 tuổi, nếu thuộc dòng họ thuộc đẳng cấp cao mới được làm lễ tang "bốn thầy". Người chết đúng 15 tuổi chỉ làm đám nhỏ, gọi là đám “đam binah boh”, có nghĩa là đám "nửa phần". Theo quan niệm của người Chăm, dưới 15 tuổi là chưa hoàn thiện một thực thể tín đồ, cho trẻ trở về với cát bụi.
- Những quy định uề nghỉ thức tang ma dành cho "các loại chết”
Nghi lễ tang ma người Chăm Bàlamôn còn bị quy định bởi các "loại chết", chết trong trường hợp nào, chết khi bao nhiêu tuổi, có vợ, có chồng hay có con chưa?
"Chết bình thường" (Mưiai sian), hay còn gọi là "chết tốt", "chết lành" là những người chết tại nhà, eòn nguyên vẹn thi thể, không bị tật nguyền. Khi tắt thở có người ôm, đỡ tay dưới đầu, đầu người chết tựa vào ngực người đõ. Sau khi tắt thở được đặt trên mặt đất. Khi chết không rơi vào những ngày đại
ky: ngày hết trăng, mồng một, thứ năm trong tuần.
"Chết không bình thường" (ÄMưiai phào), hay còn gọi là "chết xấu", "chết dữ" là khi người chết không hội đủ những điều kiện của "chết bình thường" nêu trên đều bị coi là "chết không bình thường". Đó là những trường hợp không chết ở nhà, chết do chiến tranh, bị thương chết, chết do tai nạn, chết do tự tử, người tật nguyền, chết không toàn thây và kể cả những người chết đã lớn tuổi nhưng chưa có vợ, có chồng, chết dưới 15 tuổi .v.v... Với những loại chết khác nhau sẽ có những thủ tục, nghỉ lễ khác nhau. Những người "chết không bình thường” sẽ không bao giờ được nhập xương vào "kút" chính của dòng họ mình và như vậy, linh hồn người chết sẽ không được siêu thoát về thế giới ông bà, tổ tiên.
Người Chăm rất sợ người chết tắt thở vào ngày thứ năm (ngày xấu) hoặc vào những giờ xấu. Mặc dù chết tại nhà, có người đỡ nhưng nếu tắt thở vào giờ xấu hay ngày xấu vẫn bị coi là "chết không bình thường", "chết xấu" và sẽ không được nhập kút. Để tránh tình trạng này, nếu người sắp chết đã già yếu và biết chắc là không thể sống được nữa, người nhà đi mời một ông thầy pà xế, thường là vị cả sư (podhia) và một ông thầy pháp (grò pbuh) đến làm một lễ cúng để lấy hồn người chết đi trước khi người đó tắt thở. Lễ thức này gọi là lễ “bah thòng”, có nghĩa là "cột dao", lễ vật gồm trầu têm, rượu, ba quả trứng, nến, trầm, một con dao. Mặc dù người chết chưa tắt thở, nhưng sau khi làm lễ này, hồn người chết đã được ông thầy lấy đi. Người chết có thể nằm trên 26
PHAN QUỐC ANH


giường, không phải để xuống đất và không cần người nhà đỡ thường trực chờ tắt thở nữa nhưng vẫn được xếp vào loại "chết bình thường". Lễ thức trên chỉ dùng cho những người chết già, không áp dụng cho người còn trẻ vì nếu còn trẻ, mọi người hy vọng có thể sống lại.
Cũng như các dân tộc khác, người Chăm cũng có tục gửi của theo người chết. Trong những ngày tang ma, những đồ vật trước khi chết người chết hay dùng, người thân mang đến những bộ trang phục đẹp phủ lên cái lồng tre úp trên thị hài (eœbung). Ngoài những của cải cho người chết mang theo, những người khác trong tộc họ cũng nhân chuyến người chết về "thế giới bên kia" mà "gửi nhờ" quần áo, đồ đạc, của cải mang sang cho những người thân đã chết trước đó. Ngày nay, đa số những của cải có giá trị không còn hoảä táng hay chôn theo người chết nữa, họ mang phủ lên hoặc để bên thi hài người chết, trước khi hoả táng, họ chọn những thứ có giá trị mang về, thậm chí lấy xe máy chạy vòng quanh giàn thiêu, bưng tỉ vi qua giàn thiêu, coi như đã gửi cho người thân ở thế giới -bên kia. Theo Tôcarev thì "phong tục mang quà và vật hiến tế cho người chết, tuyệt đối không xuất phát từ những lý do mê tín và lòng tin vào sự tồn tại của linh hồn bên kia thế giới" [10, 153, tr214]. Còn B.E.Taylor thì cho rằng "tặng một thứ tài sản nào đó cho người chết là những tập quán tôn giáo phổ biến nhất trên thế giới, nhưng còn vì một ý nghĩa khác là người ta sợ những đồ vật ấy của người chết cũng có linh hồn. Nhưng về sau, tặng đồ vật cho người chết mang ý
nghĩa tình cảm hơn là sự sợ hãi" [11, tr569]. Còn người Trung Quốc thì họ gửi cho người chết những biểu trưng của cải như ngựa, người, tiền bạc bằng cách đốt vàng mã. Có cả những đồ vật khác nhau được gửi nhờ người chết chuyển cho những người đã chết trước đó... [12, trð78]. Như vậy, những biểu hiện trong nghi lễ tang ma người Chăm Bàlamôn là sự tích hợp, hỗn dung, đan xen của nhiều lớp văn hoá, từ văn hoá nguyên thuỷ cho đến tín ngưỡng tôn giáo Bàlamôn, và có cả những quan niệm của các dân tộc cộng cư, cận cư khác.
4. Quan niệm luân hồi giải thoát.
Ảnh hưởng của giáo lý Bàlamôn cổ đại Ân Độ vẫn còn đậm nét trong quan niệm về cõi chết của người Chăm. Đó là triết giáo về "luân hồi giải thoát": Linh hồn mỗi người sau khi chết sẽ được sống lại ở trong một thân xác khác, hình thái chuyển thế lại từ đầu của một người. Sau này đạo Phật và đạo Giaina phát triển thành tư tưởng "nghiệp báo luân hồi". Nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn thể hiện tư tưởng "luân hồi giải thoát" hơn là "luân hồi nghiệp báo". Quan niệm "luân hồi giải thoát" thể hiện việc người Chăm phân biệt các loại nghi lễ tang ma dành cho các loại chết. Dù ở cõi trần người đó sống ra sao (sống tốt hay xấu) nhưng nếu được "chết bình thường" tức là chết tại nhà, chết toàn thây thì vẫn được nhập cút về với tổ tiên. Nhưng dù là người sống tốt ở cõi trần, nếu bị "chết không bình thường" tức là chết đường chết chợ, hoặc chết không toàn thây vẫn không được nhập vào cút chính. Theo Taylor, NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27


rất nhiều tộc người, trong đó có người Arian Ấn Độ hay người Trung Quốc: "Đặc biệt khiếp sợ hình phạt chém đầu, vì họ tin rằng một người sống trên mặt đất mà không có một bộ phận thân thể nào thì sẽ sang thế giới mới y như thế" [13, tr538]. Tâm lý người Chăm đến nay vẫn có người còn sợ chết "không bình thường", thậm chí không dám chết ở bệnh viện hay chết bị mất một phần thân thể. Bởi vì, nghi lễ tang ma vẫn quy định nếu chết "không bình thường" sẽ không được nhập cút chính về với thần tổ tiên mà phải nhập vào cút phụ nằm ở bên ngoài khu mộ cút dòng họ. Gần đây, sau nhiều năm người Chăm kiến nghị với các vị chức sắc, những cút phụ này mới được đưa vào chung trong nghĩa địa, nhưng không được vào khu cút chính.
Như vậy, khác với tư tưởng "luân hồi nghiệp báo" của đạo Giaina hay của phật Giáo về triết lý "nhân quả", về "nghiệp", "kiếp" của cõi sống và cõi chết mà là dấu ấn của triết giáo Vêda "luân hồi giải thoát".
5. Quan niệm nghỉ lễ tang ma là nghỉ lễ "tái sinh"
Một quan niệm mang tính phổ biến trong văn hoá nguyên thuy mà sau này phát triển thành tín ngưỡng tôn giáo của nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo là sự "tái sinh" trở lại sau khi chết. Quan niệm "chết là sự tái sinh" thể hiện rất rõ trong nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn từ nội dung tâm linh cho đến hình thức hành lễ. Về hình thức, trong nghỉ lễ tang ma phải làm sao thể hiện được sự đầu thai và mang thai "chín tháng mười ngày". Ông thầy làm những động tác phồn thực bằng hai
tay biểu trưng sự giao phối âm dương, hình thành nên bào thai, trải qua chín tháng mười ngày, người mẹ mới sinh ra con người. Lễ hoả táng (kể cả lễ chôn thuộc dòng chôn) là sự trình diễn suốt quá trình chín tháng mười ngày đó và nối tiếp nhau, lặp đi lặp lại những con số 9: Nhà làm lễ tang ma phải làm bằng 9 cột, cột chính phải cao 9 han (một đơn vị đo lường dân gian của người Chăm, mỗi han được tính từ đầu ngón tay đến khuýu tay), ngày cuối cùng bà múpuh (bà đơm cơm) đơm 9 mâm cơm, bếp nấu đồ lễ phải 9 ông đầu rau, trong ngày cuối cùng phải nấu đủ chín lần cơm, ngay sau lễ hoä táng, người ta đập hộp sọ lấy 9 miếng xương trán để nhập kút. Ngoài ra, trong mọi nghi lễ Chăm, con số 3 cũng được lặp đi lặp lại: nhà 3 gian, làm phép 3 lần, chiếc que nhỏ được gấp làm 3 tạo thành hình tam giác đều và chôn vào đất, chiếc mâm trầu (hônhala) 3 tầng.v.v... thể hiện quan niệm vũ trụ 3 tầng thiên - địa - nhân rất rõ nét và phổ biến. Và 3x 3=9 nhà 9 cột thành 3 gian, 9 ông đầu rau tạo thành 3 bếp, trên màn lamlinh treo 9 lá trâu chia làm ba hàng, v.v... những con số này cũng thể hiện trong bùa Ởzncar, một quan niệm về vũ trụ của người Chăm, trên là con số 6 và biểu tượng mặt trời, dưới là con số 3 và biểu tượng mặt trăng. Tổng của chúng là 9. Trong những tài liệu của các nhà nghiên cứu về tang ma của người Chăm Bàlamôn từ trước đến nay chủ yếu mới dừng lại ở sự miêu thuật, chưa aI nêu ra quan niệm sự "tái sinh" được biểu hiện qua hàng loạt những hình thức và những con số liên quan đến sự đầu thai và sinh nở "tái sinh" cho người chết như những con số cứ 28
PHAN QUỐC ANH


tăng dần trong ba ngày làm lễ hoả táng với quan niệm bào thai được hình thành (mặc dù lễ tang kéo dài trong bốn ngày nhưng trong đó có một ngày nghỉ để ban nhạc hát tang ca, nên người Chăm vẫn tính tang ma ba ngày). Buổi sáng là lễ thụ thai, cuối ngày bào thai đã được 5 tháng (cuối ngày thứ nhất đội 5 mâm cơm), 7 tháng (cuối ngày thứ 3 đội 7 mâm cơm), rồi đủ 9 tháng trong ngày cuối cùng (9 người phụ nữ đội 9 mâm cơm) trước khi khiêng đi hoá táng. Thậm chí, trong ngày cuối cùng, khi bào thai đã được 9 tháng, còn có nghi thức để biểu thị thêm 10 ngày như đập một ông đầu rau, quá trình khiêng rồi quay đầu và đỡ cho sinh linh mới ra đời cũng là biểu thị 10 ngày lẻ của quá trình mang thai.
Trong ngày lễ cho ăn (pahoăh) ỏ ngày đầu tiên, do quan niệm bào thai mới hình thành nên chỉ cho nước, gạo và muối. Mâm cho người chết ăn chỉ có một bát cơm và một quả trứng. Quả trứng tượng trưng cho bào thai đang còn trong trứng. Gạo, ngoài ý nghĩa hồn lúa nuôi sống con người, trong quan niệm người Chăm, gạo còn là phần da thịt của cơ thể [14, tr32 - 37]. Khi bước vào lễ chính, các ông thầy đã bỏ tên cũ và đặt tên mới cho người chết. Trước khi làm lễ cho ăn, sau khi ra gò mối thỉnh lệnh về, ông thầy dừng lại ở ngã ba đường vẽ bùa và xin đặt tên mới cho bào thai, xin xe duyên, kết hôn cho bào thai. Trong lễ cho ăn, ông pashế ralang làm phép tạo hình hài (dùng có tranh hoặc rơm thắt hình con hăng, còn gọi là (thân chim, đầu phượng, mình rồng) cho bào thai và khấn cho các loại máu theo sợi dây chỉ
con rồng Chăm
căng từ trên màn /ưm linh (tượng trưng cho bầu trời) chảy vào bào thai. Bốn ngọn nến thắp ở bốn góc, một ngọn nến thắp ở đầu càkung, các vị chức sắc Chăm giải thích rằng đó là năm vị thần linh trong cơ thể con người, bao gồm một đầu, hai vai và hai chân. Sau khi ông pashế ralang làm phép tạo hình hài, bốn ngọn nến được bó lại để lên thi hài người chết với quan niệm thần lửa sẽ nhập vào hình hài, tạo nên sự sống. Trong ngày thứ hai, ban nhạc phải hát ba buổi sáng, chiều tối với 160 bài tang ca để ru cho các loại máu và hồn nhập vào tình linh mới.
Trong nghỉ lễ tang ma, thi hài người chết được đặt trong chiếc lồng tre được gọi là Cờbung (đọc là chà cung). Còkbung là biểu tượng bụng người mang thai nên được làm rất giống với bụng bà chửa đã đến ngày sinh nở. Bếp lửa ở đầu càkung phải chăng là bếp lửa bà đẻ như tục "nằm lửa" trong nghỉ lễ sinh đẻ của người Chăm và nhiều dân tộc Đông Nam Á.
Chiếc nhà táng (hang thôÈ) cũng mang nhiều ý nghĩa và biểu tượng của sự tái sinh. Ngoài biểu tượng bò thần “baprin” và “can”, ở đuôi nhà táng có hai dải vải treo song song biểu tượng yoni của người sinh nở, đồng thời cũng là cửa mở cho linh hồn lên thiên đường. Đây có lẽ là "tàn tích" (theo cách gọi của E.B.Taylor) của thời kỳ văn hoá nguyên thuỷ: "Người Trung Quốc mở một lỗ ở mái nhà để cho linh hồn thoát ra khi chết. Ở Pháp, Đức và Anh cho đến nay vẫn còn một tập quán mê tín hết sức phổ biến là mở cửa số hay cửa lớn cho linh hồn thoát khỏi thân thể" NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
29

[15, tr540]. Ngoài ý nghĩa mở cửa ra thiên đường, người Chăm cho rằng cửa của nhà táng còn là biểu tượng yoni của người sinh đẻ, một quan niệm tái sinh rất rõ ràng trong nghi lễ tang ma.
đầu" giữa đường khi khiêng người chết đi thiêu cũng là một hiện tượng tượng trưng cho sự sinh nở. Các vị chức sắc cho rằng, khi khiêng đi chôn là khi bà mẹ đang trở dạ. Nghi thức quay đầu người chết vừa có ý nghĩa làm cho người chết không biết đường quay trở lại vừa thể hiện sự quay đầu của thai nhi. Lúc khiêng người chết đi, bốn ông khiêng, khiêng đầu người chết đi trước, (phía đòn khiêng hướng đầu người chết có dán hình ømecar, phía đòn khiêng để chân người chết có dán hình bò thần Køp¿), sau khi ông thầy cả sư cầm gậy thần chỉ lên trời, quyết định tầng trời mà linh hồn sẽ lên, bốn ông khiêng làm thủ tục quay đầu người chết (thực chất là chỉ đổi vai, quay người theo hướng ngược lại). Lúc này, phía đầu dán hình bò thần Kapil sẽ đi trước để đến bãi làm lễ hoä táng, khi đưa vào rạp thì chân vào trước, sau khi làm thủ tục lại đưa đầu ra trước để đặt lên giàn thiêu. Động tác này rất phù hợp với việc trở đạ quay đầu thai nhi để khi sinh, đầu thai nhì ra trước. Ngoài ý nghĩa quay đầu thai nhi, hiện tượng
Sự “quay
quay đầu còn liên quan đến chuyện cổ Chăm về bò thần Kapin. Theo đó, Omear không thể bơi qua sông được mà phải cậy đến bò thần Kapil mới qua được. Truyện "sự tích về bò thần Kaplil" là hình ảnh của bò thần Nandin trong Bàlamôn giáo. Người Chăm tin rằng bò thần Kapil có vai trò quan trọng trong
việc đưa linh hồn người chết qua sông Kao Phanh để lên trời [16 tr18].
6. Quan niêm trong tín ngưỡng thờ kút
Kút là nghĩa địa của người Chăm. Mỗi người chết bình thường sau khi hoä táng sẽ được giữ lại 9 miếng xương trán (người Chăm cho rằng, trán là nơi tập trung những gì tỉnh tuý nhất của con người, các mảnh xương được đục đếẽo, gọt tròn như những đồng xu) để nhập vào kút chính của dòng họ và trở thành thần tổ tiên (Ppo prob po pảta), là nơi cư ngụ của các thần tổ tiên để gia đình, dòng tộc thờ phụng. Chín miếng xương trán được người Chăm đựng vào trong một chiếc hộp (klong) và được làm lễ nhập kút. Người Chăm cho rằng, khi chưa nhập kút, linh hồn người chết vẫn ở trong 9 miếng xương trán ấy. Người Chăm có một tập tục rất đáng chú ý vì nó chứa đựng quan niệm về linh hồn và mang tính nhân văn sâu sắc, đó là tục "xương tiễn đưa xương". Khi hai vợ chồng đều đã làm lễ hoä táng và hai hộp xương chưa được nhập kút. Theo quy định, xương của người chồng phải được đưa về nhập vào kút theo dòng họ mẹ đẻ. Trong ngày rước hộp xương chồng về phía nhà chồng, hai hộp xương (xương vợ xương chồng, 18 miếng xương) được để ngồi lên kiệu hoa để tiễn về nhà chồng. Sau đó xương người vợ lại trở về để chờ ngày làm lễ nhập vào kút của dòng họ mình.
Người theo Bàlamôn ở Ấn Độ và ở một số nước khác không có tục giữ lại chín miếng xương trán như của người Chăm Bàlamôn hiện nay. Giáo lý Bàlamôn quy định: "Sau khi thiêu, mọi 30
PHAN QUỐC ANH


người tắm rửa và ba ngày sau, những mảnh xương chưa cháy hết và tro được thu gom và thả xuống sông Hằng" [177]. Những tư liệu lịch sử của người Trung Hoa viết về Chăm Pa cũng cho chúng ta biết, trước đây, người Chăm không có tục giữ lại 9 miếng xương trán để nhập kút: "... Khi khiêng người chết đến gần một con sông thì họ thôi khóc; họ đặt xác lên đống củi rồi đốt, sau đó nhặt lấy tro than cho vào một cái lọ bằng đất, đem ném xuống sông" [18, tr27]. Như vậy, tục nhập kút và thờ kút của người Chăm Bàlamôn không phải là tín ngưỡng tôn giáo Bàlamôn và cũng không phải là ở lớp văn hoá bản địa Chăm cũng không có. Vậy nguồn gốc tục thờ kút của người Chăm xuất phát từ đâu? Có từ bao giờ? Ông Sử Văn Ngọc trong bài viết: "Đám ma người Chàm Bàlamôn Thuận Hải" cho rằng tục chặt thủ cấp khi thiêu người chết là xuất phát từ sự tích Um Mưrup, con vua Rum Muk, thái tử đạo Bàlamôn bị đạo Hồi mê hoặc, phản bội vua cha, sau khi bị bêu đầu làm gương" [19, tr183]. Theo ông Bố Xuân Hổ (một người Chăm có nhiều năm nghiên cứu phong tục tập quán Chăm) ở Bắc Bình, Bình Thuận, tục thờ kút của người Chăm xuất hiện vào thời vua Ppo
một
Alloah, việc mang xương cốt về thờ chưa có. Sau khi thiêu, phải mang tro bố trên các dòng sông, suối lớn, nhỏ: của vua chúa thì bố vào biển cả, của quý tộc giàu có thì bố xuống dòng sông, của nhân dân lao động nghèo thì bỏ trên dòng suối hoặc mương nước, ao hồ. Từ thời vua Ppo Alloah đến Ppo Klongiral (vào khoảng cuối thế kỉ XI?) xương cốt của vua chúa được chôn ở
trong tháp, còn của quý tộc thì ở lăng tầm. Đối với dân lao động nghèo thì vần bỏ tro xuống nước. Cho đến khi vua Ppo Klongiral lên ngôi (thế kỷ XI), xương cốt dân nghèo mới được chôn vào kút dưới các biểu tượng đá để thờ phụng nhờ một sự kiện còn lưu giữ trong truyền thuyết Chăm [201].
Xét về mặt tín ngưỡng, ngờ rằng tục thờ kút của người Chăm có thể liên quan đến tín ngưỡng thờ đá của hầu hết các tộc người trong tín ngưỡng nguyên thuỷ. B.E. Taylor cho rằng, tục thờ hồn đá có ở hầu hết các tộc người trên thế giới, đặc biệt là ở Ấn Độ: "Những nhóm đá xếp chồng dọc lên một cách đặc sắc ở Ấn Độ mô tả hay mang trong bản thân chúng những vị thần, ở nam Ấn Độ có thể thấy khắp trên những cánh đồng từng khóm bốn hay năm hòn đá xếp thành hàng và bôi đồ" [21, tr739]. Hiện nay, các gò đất cạnh bờ ruộng của người Chăm là những nghĩa địa với các biểu tượng kút bằng các cột đá. Sự bài trí, số lượng biểu tượng đá tuỳ thuộc vào đẳng cấp của dòng họ được chôn theo những điều kiện, những quy tắc chặt chẽ. Người Chăm coi những biểu tượng kút là nơi cư ngụ của ông bà, tổ tiên (on Prok) và được phụng thờ, làm các nghỉ lễ khấn vái trong các dịp lễ hội Ka tê hàng năm. Như vậy, tục thờ kút cũng có thể là một hiện tượng phái sinh của tôn giáo Ấn Độ.
Kết luận: Trong các nghi lễ vòng đời người Chăm Bàlamôn không có nghi lễ đặt tên, nghi lễ trưởng thành, nghi lễ thượng thọ và lên lão. Đó là nguyên nhân làm cho những nghi lễ NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
ỏ]


này dễ dàng tiếp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài và những yếu tố văn hoá truyền thống nhanh chóng bị mai một. Ngược lại, nghi lễ tang ma được truyền từ bao đời nay với những quy định khắt khe bằng văn bản về quy trình làm lễ, nghi thức, lời khấn, bùa chú... cũng như quan niệm về thế giới sau khi chết vẫn còn giữ được những yếu tố văn hoá truyền thống. Hệ thống chức sắc Bàlamôn hình thành nên chủ yếu để thực hiện các nghi lễ tang ma. Hệ thống nhạc cụ, hàng trăm bài hát lễ có nguồn gốc cúng tế từ kinh Vêda chủ yếu sử dụng trong nghỉ lễ tang ma. Trong lễ nhập kút có màn múa của bà bóng dòng họ (Muk paJau) trong trạng thái ecstasy (ngây ngất) của sahman giáo. Vậy mà trong toàn bộ ba ngày của nghi lễ cưới xin, tuyệt nhiên không có một nhạc cụ nào của người Chăm được đưa ra sử dụng. Đây vẫn là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu tìm lời giải đáp.
Bên cạnh sự tồn tại những tín ngưỡng bản địa, những nét cơ bản của tìn ngưỡng Bàlamôn giáo cổ đại cho đến nay vẫn tồn tại quan niệm về vòng đời của người Chăm Bàlamôn. Nét đặc trưng cơ bản nhất, đó là quan niệm cõi sống là cõi tạm, cối chết mới là quan trọng với triết giáo luân hồi giải thoát. Nghi lễ tang ma hiện nay của người Chăm Bàlamôn còn chứa đựng nhiều yếu tố văn hoá dân gian truyền thống với tính nguyên hợp cao. Bên cạnh những yếu tố phi giá trị như sự nặng nề, tốn kém thời gian, tiền bạc, sự ô nhiễm môi trường của những lễ hoả táng tươi... nghị lễ tang ma của người Chăm Bàlamôn còn chứa đựng nhiều
những giá trị văn hoá cao như giá trị xã hội, giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ .v.v... Bài viết này như một sự gợi mở để tiếp tục nghiên cứu, tiếp tục "gạn đục khơi trong" để làm sao vừa bảo tồn được những giá trị văn hoá, vừa vận động người Chăm loại bỏ bót những yếu tố phi giá trị, góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội Chăm phát triển.
P.Q.A
1. Từ vựng tiếng Chăm trong bài viết này chúng tôi sử dụng theo cuốn Từ điển Chăm - Việt, Bùi Khánh Thế (chủ biên, 1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2,3. Nguyễn Từ Chi, 1996, Góp phần nghiên cứu uăn hoá uà tộc người, Nxb Văn hoá thông tin, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, tr15, 214.
4, 14. Phan Quốc Anh, 2002 "Khảo sát lễ chiêu hồn nhập cốt của người Chăm Bàlamôn", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 7 (217), trä2 - äĩ.
5, 9. Phan Quốc Anh, 2009, "Lễ hoä Chăm Bàlamôn Ninh Thuận", Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 3 (B4) tr79 - 84.
táng của người
6, 7. Doãn Chính, 1999, Lịch sử triết học Ân Độ cổ đại, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1999, tr70, 8ã.
8, Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về "dòng chôn" của một số tộc họ người Chăm Bàlamôn. Ngoài ý kiến lễ chôn dành cho đẳng cấp cùng đỉnh, tôi tớ, còn có ý kiến cho rằng có một bộ phận người Chăm trước đây theo và thờ một hoàng hậu người Việt của vua Pô Nit nên làm lễ tang chôn theo bà. 39 PHAN QUỐC ANH


11, 12, 13, lã, 21. Tnwldr.E.B, 2001, Văn hoá nguyên thuỷ, bản dịch của Huyền Giang, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật xuất ban, Hà Nội.
16. Nhiều tác giả 2000, Truyện cổ đân gian Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội, tr18.
17. A.L. Basham 1969, The uuonder that tuas [ndia, London, Bản dịch tiếng Nga, tr 171 - 2300.
18. Maspero. G.L, 1928, Vương quốc Chăm Pa (Le royaqume du Champa), Bàn dịch của Đào Từ Khải, Parl, tr27.
19. Xin xem Sử Văn Ngọc, 1998. "Đám ma người Chàm Bàlamôn ở Thuận Hải", trong Những uấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, tập 9, quyển 9, Ban dân tộc - Viên KHXH thành phố Hễ Chí Minh, tr18ä.
20. Truyền thuyết về sự tích nhập kút như sau: Ppo Klongirai vốn mồ côi, được hai ông bà cùng làng nuôi dưỡng. Khi hai ông bà chết, ông dựng kút chôn xương ông bà để đền ơn. Sau này Ppo Klongirai lên làm vua. Vào những năm sau đó có nạn hạn hán, dịch bệnh đói kém và chết chóc tràn lan, người dân cho rằng vì xương cốt người sau khi thiêu vứt bừa bãi, hồn phách không siêu thoát được nên về phá phách. Nhân dân nổi dậy đấu tranh đòi cho nhập xương cốt người chết để thờ phụng. Cuối cùng vua đồng ý cho nhân dân dựng kút như vua quan, cũng như trước đây ông đã dựng kút cho ông bà nuôi dưỡng mình (theo Bố Xuân Hổ, "Tín ngưỡng tượng kút ở vùng Chàm Thuận Hải", Tạp chí Dân tộc học số 4, 1977, tr17)