SỐ 12 - QUYỀN CÓ QUỐC TỊCH
Theo Điều 15 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) thì mọi người đều có
quyền có quyền có quốc tịch (right to a
nationality).
Cụ thể là: “1. Mọi người đều có quyền có
quốc tịch; 2. Không ai bị tước quốc tịch
hoặc bị khước từ quyền được đổi quốc tịch
cách tuỳ tiện.” một
Về cơ bản, quốc tịch xác định tư cách công dân của một cá nhân và xác định sự
ràng buộc của cá nhân đó với một nhà nước cụ thể. Vì là người mang quốc tịch
của một quốc gia, là công dân, cá nhân đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ công dân.
SỐ 11 - QUYỀN TỴ NẠN
Theo Điều 14 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) thì mọi người đều có
quyền xin tỵ nạn và hưởng tỵ nạn (seek and enjoy asylum) để tránh sự truy bức,
ngược đãi.
Cụ thể, tại Khoản 1 điều 14 khẳn định: “ Mọi người đều có quyền tìm kiếm và
hưởng tỵ nạn ở nước khác khi bị ngược
đãi.”
Tuy nhiên, Tuyên ngôn cũng nêu ngoại lệ
không áp dụng quyền này: “2. Quyền này
không được áp dụng trong trường hợp
đương sự bị truy tố về những tội phạm
không mang tính chất chính trị hay vì
những hành vi đi ngược lại với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp
Quốc.”
Sau Tuyên ngôn 1948, hệ thống luật quốc tế về người tỵ nạn đã phát triển khá
phong phú. Đặc biệt quan trọng là: Công ước về vị thế của người tị nạn (1951)
và Nghị định thư của Công ước (1967).
Ảnh trên: người tỵ nạn Iraq.
Văn phòng Cao Ủy Liên hợp quốc về Người tỵ nạn ( Office of the United
Nations High Commissioner for Refugees - UNHCR) được thành lập vào ngày
14/12/1950 bởi Đại hội đồng LHQ, là cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền của người tỵ
nạn.
* Theo Wikipedia thì
Tỵ nạn là một trường hợp phải chạy trốn ra một xứ khác để thoát cảnh hiểm
nguy, ngược đãi, hoặc bắt bớ bởi một quyền lực ở chốn cư ngụ.
Khái niệm tỵ nạn đã có từ thời cổ đại khi người trốn tránh có thể tìm đến nơi thần
quyền như ở một ngôi đền để lánh nạn mà không bị bắt. Thời Trung cổ Âu châu
cũng ghi nhận một số luật lệ quy định quyền lánh nạn ở chốn tôn nghiêm thờ
phụng. Trong sử Việt thì có chép việc vua Lý Huệ Tông sau khi nhường ngôi cho
con là Công chúa Chiêu Thánh và rồi nhà Lý mất ngôi về tay nhà Trần thì cựu
hoàng Huệ Tông vào tu ở chùa Chân Giáo để tránh sự phiền nhiễu chính trị. Dù
vậy Huệ Tông cũng bị Trần Thủ Độ làm áp lực tinh thần và phải treo cổ tự vẫn,
hưởng dương 33 tuổi.