SỐ 19 - QUYỀN THAM GIA QUẢN LÝ ĐẤT NƯỚC

Quyền tham gia quản lý đất nước đầu tiên được ghi nhận trong Điều 21 Tuyên

ngôn Nhân quyền Quốc tế(UDHR). Theo Điều này thì, mọi người đều có quyền

tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện

mà họ được tự do lựa chọn.

... Mọi người đều có quyền

được tiếp cận các dịch vụ công cộng ở

nước mình một cách bình đẳng (Khoản

1 và 2). Khoản 3 Điều này đề cập đến

một quy định mang tính nguyên tắc bổ

sung cho nội dung các Khoản 1 và 2,

trong đó nêu rằng, ý chí của nhân dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính

quyền; ý chí đó phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực,

được tổ chức theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín,

hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tương tự.

Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) tái

khẳng định và cụ thể hóa quy định trong Điều 21 UDHR, trong đó nêu rõ: Mọi

công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào...và không có bất kỳ sự hạn chế bất

hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a) Tham gia điều hành các công việc xã

hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn; b)

Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông

đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm đảm bảo cho cử tri được tự do bày

tỏ ý nguyện của mình; c) Được tiếp cận với các chức vụ công ở đất nước mình

trên cơ sở bình đẳng.

Liên quan đến Điều 25, Ủy ban Nhân quyền (HRC) đã giải thích thêm một

số khía cạnh của Điều này trong Bình luận chung số 25 thông qua tại phiên họp

thứ 57 năm 1996 của Ủy ban, có thể tóm tắt những điểm quan trọng như sau:

Thứ nhất, Điều 25 ICCPR ghi nhận và bảo vệ quyền của mọi công dân

được tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, quyền bầu cử, ứng cử và quyền

được tham gia các cơ quan công quyền. Nó khẳng định nền tảng của việc quản lý

nhà nước là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân. Cho dù theo thể chế chính trị

nào thì các quốc gia thành viên cũng phải thông qua những biện pháp pháp lý và

các biện pháp cần thiết khác để đảm bảo cho mọi công dân đều có cơ hội được

hưởng các quyền này (đoạn 1).

Thứ hai, các quyền nêu trong Điều 25 có liên quan nhưng không đồng nhất

với quyền tự quyết dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc quy định trong Khoản 1 Điều

1 ICCPR là quyền của cả một dân tộc được tự do quyết định thể chế chính trị của

nước mình, trong khi đó, Điều 25 đề cập đến quyền của các cá nhân được tham gia

vào quá trình quản lý các lĩnh vực công (đoạn 2).

Thứ ba, không giống như các quyền và tự do khác được ghi nhận trong

ICCPR mà có chủ thể của quyền là mọi cá nhân trong phạm vi lãnh thổ và thuộc

quyền tài phán của một quốc gia, các quyền nêu ở Điều 25 chỉ dành riêng cho

những người có vị thế "công dân" của quốc gia. Tuy nhiên, không được có bất kỳ

sự phân biệt đối xử nào vì bất kỳ lý do gì giữa các công dân trong việc thực hiện

những quyền này. Kể cả sự phân biệt giữa những người được hưởng tư cách công

dân một cách đương nhiên ngay khi sinh ra và những người có được tư cách công

dân bằng việc nhập quốc tịch cũng là trái với Điều 25 (đoạn 3).

Thứ tư, các quyền nêu ở Điều 25 có thể bị hạn chế nhưng mọi hạn chế phải

hợp lý và khách quan. Ví dụ, một trong những hạn chế được cho là hợp lý là quy

định cần phải đạt đến một độ tuổi nhất định mới được quyền bầu cử, ứng cử hay

được bổ nhiệm vào những chức vụ cụ thể trong hệ thống chính quyền; hoặc quy

định những người bị hạn chế năng lực hành vi có thể không được quyền bầu cử

hay ứng cử (đoạn 4).

Thứ năm, quyền tham gia điều hành các công việc xã hội là một khái niệm

rộng liên quan đến việc thực hiện quyền lực chính trị, cụ thể là thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nó bao gồm tất cả các khía cạnh của quản

lý hành chính và việc xây dựng, thực hiện chính sách ở cấp độ quốc tế, quốc gia,

khu vực và địa phương (đoạn 5). Công dân có thể trực tiếp tham gia điều hành các

công việc xã hội khi thực hiện quyền lực với tư cách là thành viên của các cơ quan

lập pháp hay nắm giữ các chức vụ hành pháp; thông qua việc trưng cầu dân ý hay

quá trình bầu cử khác; thông qua việc tham gia vào các hội đồng dân cử có thẩm

quyền quyết định các vấn đề của địa phương hoặc các vấn đề của một cộng đồng

cụ thể; hoặc tham gia vào các cơ quan được thành lập để đại diện cho công dân

trong việc tham vấn với chính phủ (đoạn 6). Công dân cũng có thể tham gia gián

tiếp vào hoạt động quản lý nhà nước thông qua việc tự do lựa chọn các đại diện

của mình trong các cơ quan dân cử (đoạn 7), và tranh luận, đối thoại công khai với

các đại diện do mình bầu ra hoặc thông qua các cơ chế khác do công dân tự tổ

chức (đoạn 8).

Thứ sáu, quyền bỏ phiếu tại các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý phải được

quy định bởi pháp luật và chỉ phải chịu những hạn chế hợp lý, ví dụ như quy định

về độ tuổi tối thiểu được quyền bầu cử. Những hạn chế về quyền bầu cử được coi

là không hợp lý nếu như chúng được đặt ra dựa trên tình trạng khuyết tật về thể

chất hay những đòi hỏi về tài sản, giáo dục, khả năng biết đọc, biết viết, vị thế

thành viên của các đảng phái...(đoạn 10). Nếu có những đòi hỏi về cư trú đặt ra

trong việc đăng ký cử tri khi bầu cử thì những đòi hỏi đó phải hợp lý và không

được nhằm loại trừ quyền bầu cử của những người không có chỗ ở. Pháp luật cần

cấm mọi sự can thiệp có tính lạm dụng vào việc đăng ký hay vào quá trình bầu cử

cũng như mọi sự đe doạ hay ép buộc các cử tri, và các quy định cấm đó cần phải

được thực thi nghiêm chỉnh (đoạn 11).

Thứ bảy, quyền tự do biểu đạt, hội họp và lập hội là những điều kiện quan

trọng cho việc thực hiện có hiệu quả quyền bầu cử, do đó, cần được các quốc gia

thành viên bảo đảm đầy đủ. Các quốc gia thành viên cần thực thi các biện pháp

tích cực để khắc phục những trở ngại trong việc bảo đảm quyền này, cụ thể như

tình trạng thất học, đói nghèo, những rào cản ngôn ngữ, những khó khăn trong

việc đi lại mà cản trở những người có quyền bầu cử thực hiện có hiệu quả các

quyền của mình. Thông tin và các tài liệu về việc bầu cử phải được chuẩn bị cả

bằng những ngôn ngữ thiểu số. Các biện pháp cụ thể như là tranh ảnh hay biểu

tượng cần được đáp ứng để đảm bảo rằng các cử tri mù chữ đều có được thông tin

đầy đủ làm cơ sở cho sự lựa chọn của mình (đoạn 12).

Thứ tám, các điều kiện liên quan đến việc bổ nhiệm, lệ phí hay đặt cọc

trong ứng cử cần phải hợp lý và không có tính phân biệt. Những căn cứ thay đổi

những người nắm giữ chức vụ bầu cử cần được quy định bởi pháp luật dựa trên

những tiêu chí khách quan và hợp lý và theo những trình tự, thủ tục công bằng

(đoạn 16). Không được hạn chế quyền ứng cử một cách vô lý bằng cách đòi hỏi

các ứng cử viên phải là thành viên của một đảng phái cụ thể nào. Nếu đòi hỏi một

ứng cử viên phải có một số người ủng hộ tối thiểu để được chỉ định thì mức đòi

hỏi này cần hợp lý và không được đặt ra để làm rào cản đối với việc ứng cử.

Không được coi quan điểm chính trị là căn cứ để tước bỏ quyền tham gia ứng cử

của cá nhân (đoạn 18). Cần xác định những giới hạn hợp lý về chi phí tranh cử để

đảm bảo rằng không cản trở sự lựa chọn tự do của cử tri, hoặc quá trình dân chủ

không bị bóp méo bởi chi phí không tương xứng giữa các ứng cử viên hay các

đảng phái (đoạn 19).

Thứ chín, cần thành lập một cơ quan độc lập để giám sát quá trình bầu cử

và đảm bảo rằng việc bầu cử được tiến hành một cách bình đẳng, không thiên vị,

phù hợp với pháp luật quốc gia và với Công ước. Cần có những biện pháp bảo

đảm yêu cầu bí mật của việc bỏ phiếu, bảo vệ các cử tri trước mọi sự ép buộc hay

cưỡng bức khi bỏ phiếu. An ninh cho các hòm phiếu cũng phải được bảo đảm và

việc kiểm phiếu phải có sự chứng kiến của các ứng cử viên hay các đại diện của

họ. Cần đảm bảo sự bí mật cả quá trình kiểm phiếu và việc xem xét lại về mặt tư

pháp hoặc bằng các thủ tục liên quan khác để các ứng cử viên tin tưởng vào sự an

toàn của các hòm phiếu và việc kiểm phiếu. Sự trợ giúp cho những người tàn tật,

người mù, hay mù chữ cũng phải mang tính độc lập. Các ứng cử viên cần được

thông tin đầy đủ về những đảm bảo này (đoạn 20).

Thứ mười, mặc dù Công ước không quy định về một cơ chế bầu cử cụ thể

nào nhưng mọi cơ chế bầu cử ở các quốc gia thành viên phải phù hợp với các

quyền được ghi nhận tại Điều 25 và phải đảm bảo cho cử tri được tự do thể hiện ý

chí (đoạn 21).

Thứ mười một, tiểu mục (c) Điều 25 liên quan đến quyền và cơ hội của

công dân được tiếp cận một cách bình đẳng với các chức vụ quản lý nhà nước. Để

đảm bảo quyền này thì tiêu chí và quá trình bổ nhiệm, thăng tiến, đình chỉ và sa

thải công chức nhà nước phải khách quan và hợp lý và việc tham gia các chức vụ

trong các cơ quan nhà nước phải dựa trên sự bình đẳng về cơ hội, những nguyên

tắc chung về công trạng và quy định nhiệm kỳ có đảm bảo, để đảm bảo rằng

những cá nhân nắm giữ chức vụ công không phải chịu những sức ép hay sự can

thiệp về chính trị (đoạn 23).

(Theo Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, Khoa Luật -

ĐHQGHN, NXB CTQG, 2009, tr.242 - 247)