43
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
Tác động của sở hữu nước ngoài và quản trị nước ngoài
đến thu nhập từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng
thương mại - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
Ngày nhận: 16/10/2024 Ngày nhận bản sửa: 23/02/2025 Ngày duyệt đăng: 03/03/2025
Tóm tắt: Kể từ khi mở cửa thị trường tài chính, tỷ lệ nhân, tổ chức người
nước ngoài tham gia sở hữu điều hành ngân hàng thương mại tại Việt
Nam ngày càng phổ biến. Sở hữu nước ngoài và quản trị nước ngoài được kỳ
vọng sẽ khiến các ngân hàng trong nước bắt kịp với xu hướng phát triển của
các ngân hàng thương mại trên thế giới. Bài viết phân tích tác động của yếu
tố sở hữu nước ngoài và quản trị nước ngoài đến thu nhập từ hoạt động dịch
vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, thông qua các mô hình hồi quy
OLS, FEM, REM và FGLS, sử dụng dữ liệu thu thập từ báo cáo tài chính của 18
ngân hàng có quy mô tài sản lớn nhất giai đoạn 2013- 2022. Kết quả cho thấy
tỷ lệ cổ phần sở hữu bởi tổ chức nhân người nước ngoài tác động
ngược chiều, trong khi tỷ lệ thành viên ban điều hành là người nước ngoài có
The impact of foreign ownership and foreign management to income from service activities
of Vietnamese commercial banks
Abstract: Since the globalization of the financial market, foreign individuals and organizations participating
in the ownership and management of Vietnamese commercial banks have become increasingly common.
Foreign ownership and management are expected to align domestic banks with the international
standards. This study analyzes the impact of foreign ownership and management on income from service
activities of Vietnamese commercial banks using regression models (OLS, FEM, REM, FGLS) based on
financial data from 18 of the largest commercial banks during the period 2013- 2022. The results indicate
that the proportion of shares owned by foreign individuals and organizations has a negative impact, while
the proportion of foreign executives on the management board has a positive impact on banks' income
from service activities. These findings further affirm the relationship between owners and managers to the
banks’performance and offer some recommendations for increasing income from service activities to meet
the strategic targets of commercial banks.
Keywords: Foreign ownership, Foreign management, Income from service fees, Commercial banks
Doi: 10.59276/JELB.2025.03.2826
Pham, Thu Thuy1, Ta, Phuong Thanh2
Email: thuypt@hvnh.edu.vn1, tpthanh08112002@gmail.com2
Organization of all: Banking Academy of Vietnam
Phạm Thu Thuỷ, Tạ Phương Thanh
Học viện Ngân hàng, Việt Nam
Tác động của sở hữu nước ngoài và quản trị nước ngoài đến thu nhập từ hoạt động
dịch vụ của ngân hàng thương mại - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
44 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
tác động cùng chiều với thu nhập từ hoạt động dịch vụ của các ngân hàng. Kết
luận này khẳng định thêm mối quan hệ giữa người sở hữu, người đại diện tới
kết quả hoạt động của ngân hàng hàm ý một số khuyến nghị để gia tăng
thu nhập từ hoạt động dịch vụ của các ngân hàng thương mại.
Từ khóa: Quản trị nước ngoài, Sở hữu nước ngoài, Thu nhập từ hoạt động dịch vụ,
Ngân hàng thương mại
1. Giới thiệu
Trong hoạt động ngân hàng, thu nhập từ
hoạt động dịch vụ (TNHĐDV) nguồn
thu nhập quan trọng, bởi giúp ngân hàng
thương mại (NHTM) đa dạng hoá nguồn
thu, phân tán rủi ro, thể hiện khả năng
đáp ứng các nhu cầu về dịch vụ tài chính
đa dạng của khách hàng trong nền kinh tế.
Thu nhập từ hoạt động dịch vụ cũng thể
hiện xu hướng của hoạt động ngân hàng
hiện đại, khi tập trung phục vụ các nhu cầu
về tài chính đa dạng của khách hàng, giảm
bớt sự phụ thuộc vào thu nhập từ hoạt động
tín dụng, giúp các ngân hàng hoạt động ổn
định và phát triển bền vững.
Trong Chiến lược phát triển ngân hàng của
Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến
năm 2030 (Quyết định 986/QĐ-TTg ngày
8/8/2018), Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt mục tiêu đến hết năm 2020, tỷ trọng
thu nhập từ hoạt động dịch vụ 12-12%
đến hết năm 2025, tỷ trọng này đạt khoảng
16-17% (Chính phủ, 2018). Tuy nhiên, tỷ
lệ này năm 2019 các NHTM Việt Nam
mới chỉ là 8,23% (Nguyen & Tran, 2020).
Trong các nỗ lực nằm gia tăng năng lực
cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động,
nhiều ngân hàng đã bán cổ phần cho các đối
tác chiến lược thuê người nước ngoài
tham gia quản trị ngân hàng ở các cấp khác
nhau. Các nhà đầu nước ngoài, đặc biệt
nhà đầu chiến lược, chuyên gia
nước ngoài tham gia vào ban quản trị của
các ngân hàng thường chuyển giao định
hướng kinh doanh, cách thức quản trị điều
hành, cấu tổ chức cả các danh mục
sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Theo
Công ty vấn Wipro (n.d.), các ngân hàng
lớn ở các nền kinh tế phát triển thường chú
trọng gia tăng nguồn thu nhập từ hoạt động
dịch vụ bằng danh mục sản phẩm đa dạng,
các giá trị gia tăng cho khách hàng và chất
lượng dịch vụ tuyệt hảo. Chính vậy, sở
hữu nước ngoài quản trị nước ngoài
được kỳ vọng sẽ khiến các ngân hàng trong
nước nâng cao hiệu quả hoạt động bắt
kịp với xu hướng của các NHTM trên thế
giới.
Mặc dù tỷ trọng TNHĐDV của các NHTM
Việt Nam trong những năm gần đây được
đánh giá nhiều thay đổi tích cực
(Quốc Khánh, 2023), nhưng trên thực tế,
theo quan sát của nhóm Tác giả, chưa
nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động
của sở hữu nước ngoài quản trị nước
ngoài đến TNHĐDV của các NHTM Việt
Nam. Các nghiên cứu trước thường tập
trung nghiên cứu tác động của sở hữu nước
ngoài quản trị nước ngoài đến hiệu quả
hoạt động của ngân hàng nói chung, hoặc
nghiên cứu nhân tố tác động đến thu nhập
ngoài lãi. Thu nhập của ngân hàng thường
được phân loại thành thu nhập từ lãi và thu
nhập ngoài lãi, trong đó, thu nhập ngoài lãi
bao gồm thu nhập từ hoạt động dịch vụ, thu
nhập từ các hoạt động kinh doanh chứng
khoán, ngoại tệ các khoản thu nhập khác
(Rose & Hugins, 2012). Tuy nhiên, các
thành phần của thu nhập ngoài lãi bản
PHẠM THU THUỶ - TẠ PHƯƠNG THANH
45
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
chất rất khác nhau, được tạo ra từ những
hoạt động kinh doanh khác nhau của ngân
hàng. Nếu như thu nhập từ hoạt động dịch
vụ tính chất tạo thu nhập phí tương
đối ổn định thì thu nhập từ hoạt động kinh
doanh chứng khoán, ngoại tệ lại tạo nguồn
thu từ chênh lệch giá mua- giá bán phụ
thuộc khá nhiều vào điều kiện thị trường
các yếu tố (Rose & Hugins, 2012).
Thu nhập bất thường cũng là những khoản
thu nhập không thường xuyên của ngân
hàng. Chính vậy, việc nghiên cứu đại
lượng thu nhập ngoài lãi thể không phù
hợp với mục tiêu của nghiên cứu này, thay
vào đó, cần nghiên cứu riêng thu nhập từ
hoạt động dịch vụ. Nghiên cứu này sử dụng
các mô hình OLS, FEM, REM FGLS để
lượng hoá tác động của sở hữu nước ngoài
và quản trị nước ngoài đến tỷ lệ TNHĐDV
của các NHTM, sử dụng dữ liệu thu thập từ
báo cáo tài chính đã kiểm toán của 18 ngân
hàng thương mại cổ phần (NHTMCP)
quy tài sản lớn nhất Việt Nam trong giai
đoạn 2013- 2022. Kết quả nghiên cứu sẽ là
các căn cứ khoa học để đưa ra các chiến
lược hiệu quả nhằm tối ưu hóa TNHĐDV
nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh tạo
ra nguồn thu nhập ổn định, bền vững cho
các NHTM trên thị trường tài chính. Các
phần tiếp theo của bài viết bao gồm sở
lý thuyết và tổng quan nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu, kết
luận và khuyến nghị.
2. sở thuyết tổng quan nghiên
cứu
Lý thuyết đại diện (Agency Theory)
Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản
trị doanh nghiệp kết quả hoạt động của
doanh nghiệp thể giải bởi một số
thuyết, bao gồm thuyết đại diện
thuyết sở hữu.
thuyết đại diện (Agency Theory) được
phát triển bởi các học giả Ross (1973),
Jensen Meckling (1976), phân tích mối
quan hệ giữa chủ sở hữu người đại diện.
Chủ sở hữu, đương nhiên, sẽ ra quyết định
dựa trên lợi ích của mình. Nhưng khi chủ sở
hữu uỷ quyền cho người đại diện ra quyết
định thay cho mình thì thể dẫn đến sự
xung đột về lợi ích. Trong bối cảnh thông
tin không cân xứng, người đại diện thường
có nhiều thông tin hơn về những gì họ cần
làm, gây ra những tổn thất cho chủ sở hữu.
Do vậy, chủ sở hữu thường tốn các chi phí
giám sát chi phí động lực để đảm bảo
rằng người đại diện sẽ hoạt động vì lợi ích
cao nhất của chủ sở hữu.
thuyết về quyền sở hữu (ownership
theory)
thuyết về quyền sở hữu (ownership
theory), được phát triển bởi Alchian
Demsetz (1973) giải rằng, sự khác biệt
về quyền sở hữu sẽ tác động đến động lực
hành động của chủ sở hữu, trong đó, chủ
sở hữu nhân thường tạo ra hiệu quả kinh
doanh tốt hơn chủ sở hữu Nhà nước. Nhiều
nghiên cứu kế thừa lý thuyết này cho thấy,
các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước,
các quốc gia đang phát triển, hiệu quả
hoạt động kém hơn các ngân hàng tư nhân,
các ngân hàng nước ngoài hiệu quả hoạt
động cao hơn các ngân hàng trong nước,
cả sở hữu nhà nước ngân hàng nhân
(Shaban cộng sự, 2018; Sturm cộng
sự, 2004; Weill, 2006). Tuy nhiên, một số
nghiên cứu lại cho kết quả rằng các ngân
hàng nước ngoài hiệu quả hoạt động kém
hơn các ngân hàng trong nước (Kouzez,
2021; Peek cộng sự, 1999; Miller
cộng sự, 2002; Yildirim cộng sự, 2007).
Sự khác biệt này được Kouzez (2021) giải
thích do phụ thuộc vào mức độ rủi ro
chính quốc. Các ngân hàng nước ngoài
chính quốc có mức độ rủi ro quốc gia thấp,
thường xu hướng hoạt động hiệu quả
Tác động của sở hữu nước ngoài và quản trị nước ngoài đến thu nhập từ hoạt động
dịch vụ của ngân hàng thương mại - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
46 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
hơn và ngược lại.
Các nghiên cứu về tác động của sở hữu
nước ngoài quản trị nước ngoài đến
hoạt động của các ngân hàng doanh
nghiệp
Sở hữu nước ngoài (SHNN) thể hiện mức
độ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong
một doanh nghiệp, được đo lường bởi tỷ lệ
cổ phiếu sở hữu bởi nhà đầu nhân
tổ chức nước ngoài (Lee & Hsieh, 2014).
Quản trị nước ngoài (QTNN) chỉ sự tham
gia của người nước ngoài trong ban điều
hành, ban giám đốc hoặc hội đồng quản
trị doanh nghiệp, quản giám sát
hoạt động của doanh nghiệp (Nguyen
cộng sự, 2020). SHNN được kỳ vọng sẽ
làm tăng hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp trong nước, do cổ đông chiến lược
sẽ chuyển giao các định hướng kinh doanh,
hình kinh doanh, sản phẩm dịch vụ hiện
đại, giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu
quả hơn. Người điều hành nước ngoài, với
kiến thức kinh nghiệm của họ, thể
giúp quản trị doanh nghiệp theo phong
cách hiện đại, hướng tới chuẩn mực quốc
tế, giúp doanh nghiệp mở rộng đối tác, đầu
ra ra các thị trường nước ngoài.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ tác động tích
cực của SHNN đến kết quả hoạt động
của các ngân hàng nền kinh tế (Awdeh
& EI Moussawi, 2009; Al-Harbi, 2019;
Boulanouar và cộng sự, 2021; Lu &Mieno,
2020; Nguyen cộng sự, 2023; Baek
cộng sự, 2004). giải về các tác động
tích cực của sở hữu và quản lý nước ngoài,
Othmani (2022) nhận định rằng các cổ
đông tổ chức nước ngoài đóng vai trò
như những người giám sát giỏi. Họ thúc
đẩy việc chuyển giao công nghệ và sự phát
triển của sản phẩm dịch vụ mới, kết quả
hiệu quả hoạt động của ngân hàng tăng lên.
Bên cạnh đó, cổ đông nước ngoài góp phần
chọn người quản lý, mang đến nhiều lợi
thế về thông tin hơn cho ngân hàng. Ngoài
ra, cổ đông nước ngoài thể hỗ trợ giúp
các ngân hàng tiếp cận các thị trường nước
ngoài hiệu quả hơn.
Một số nghiên cứu lại chỉ ra các tác động
tiêu cực của SHNN đến hoạt động của
các ngân hàng, điển hình như nghiên cứu
của Lensink cộng sự (2008) trên dữ
liệu ngân hàng của 105 quốc gia cho thấy
SHNN tác động ngược chiều đến hiệu
quả của ngân hàng. Điều này có thể lý giải
do các ngân hàng SHNN thể khó
thích nghi với môi trường kinh doanh của
nước sở tại, đặc biệt với các quy định quản
lý, thông lệ địa phương vấn đề tham
nhũng. Angkinand và Whilborg (2010) chỉ
ra SHNN tác động cùng chiều với mức
độ rủi ro của ngân hàng, do cổ đông nước
ngoài thể lợi dụng các chế quản
yếu kém tại nước sở tại.
Bên cạnh các nghiên cứu khẳng định hoặc
phủ định giả thuyết SHNN có tác động tích
cực đến hoạt động của các ngân hàng,
các nghiên cứu chỉ ra rằng mối quan hệ này
thể hai chiều, phức tạp, thay đổi
chưa thể khẳng định ràng. Doan
cộng sự (2018) cho thấy mối quan hệ giữa
mức độ SHNN lợi ích của việc đa dạng
hoá là ngược chiều tại ngân hàng các nước
phát triển, nhưng cùng chiều tại các nước
đang phát triển. Lee Hsieh (2014), Liu
Zhu (2024) cho thấy SHNN làm tăng
mức độ ổn định tài chính tại các ngân hàng
trong giai đoạn đầu nhưng sau đó tác
động làm giảm mức độ ổn định tài chính ở
giai đoạn tiếp theo.
Các nghiên cứu về tác động của QTNN
trong lĩnh vực ngân hàng cũng cho kết quả
trái ngược. Sự tham gia của người nước
ngoài trong ban giám đốc tác động làm
tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng
(Boussaada & Karmani, 2015). Tuy nhiên,
nghiên cứu của Dogan Eksi (2020)
Garcia-Meca cộng sự (2015), Choi
PHẠM THU THUỶ - TẠ PHƯƠNG THANH
47
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Hasan (2005) cho thấy sự tham gia của
thành viên người nước ngoài trong ban
giám đốc quan hệ ngược chiều với kết
quả hoạt động của ngân hàng do làm giám
đốc người nước ngoài không am hiểu về thị
trường nội địa, làm tăng chi phí người
đại diện.
Một số nghiên cứu về tác động của QTNN
đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp
phi tài chính cũng cho kết quả không thống
nhất. Nghiên cứu của Choi cộng sự
(2012), Oxelhem Randoy (2003) cho
thấy các giám đốc người nước ngoài mang
lại giá trị doanh nghiệp cao hơn. Nguyen
cộng sự (2020), Hahn Lasfer (2016)
cho thấy giám đốc người nước ngoài có tác
động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp gia tăng các vấn đề
của người đại diện.
Các nghiên cứu về thu nhập ngoài lãi
thu nhập từ hoạt động dịch vụ
Theo Rose Hudgins (2012), thu nhập của
ngân hàng thể được chia thành 2 khoản
mục chính thu nhập từ lãi (TNL) thu
nhập ngoài lãi (TNNL). TNL bao gồm các
khoản thu nhập lãi cho vay, lãi đầu trái
phiếu, lãi tiền gửi các thu nhập lãi tương
tự. TNNL bao gồm các khoản thu nhập
phí từ cung cấp các dịch vụ các khoản
thu nhập thu từ các hoạt động kinh doanh
khác của ngân hàng. Điều 16, Nghị định số
93/2017/NĐ-CP ngày 7/8/2017 của Chính
phủ cũng chỉ rõ, TNHĐDV nguồn thu
đến từ các loại phí dịch vụ ngân hàng
cung cấp cho khách hàng như thu từ dịch
vụ thanh toán, thu từ dịch vụ ngân quỹ, thu
từ nghiệp vụ uỷ thác đại lý, thu từ hoạt
động dịch vụ khác... Đây một trong các
nguồn thu chính tạo nên TNNL của các
NHTM, bên cạnh thu từ hoạt động kinh
doanh ngoại hối vàng, thu từ hoạt động
kinh doanh chứng khoán, thu từ hoạt động
góp vốn, chuyển nhượng phần vốn góp, cổ
phần thu từ các hoạt động khác (Chính
phủ, 2017).
Các nghiên cứu trên thế giới tại Việt
Nam đa số đều tập trung vào thu nhập
ngoài lãi. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ
ra rằng, thu nhập ngoài lãi tác động quan
trọng đến lợi nhuận hiệu quả kinh doanh
của các NHTM (Khalaf cộng sự, 2024;
Saklain và cộng sự, 2024; Nguyen & Tran,
2020; Lê Long Hậu & Phạm Xuân Quỳnh,
2017), giảm rủi ro của ngân hàng (Saklain
cộng sự, 2024). Nguồn thu này cũng
thể hiện uy tín lợi thế cạnh tranh của
ngân hàng trong việc cung ứng dịch vụ cho
khách hàng (Nguyễn Quốc Anh & Tăng
Mỹ Sang, 2022).
Các nhân tố tác động đến đến TNNL của
các NHTM trong nước quốc tế đều ghi
nhận hai nhóm nhân tố, bao gồm nhóm nhân
tố thuộc về ngân hàng nhóm nhân tố
mô. Nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng bao
gồm nhiều nhân tố khác nhau và xu hướng
tác động đến TNNL cũng không giống
nhau. Zenebe (2018) thấy hiệu quả tương
đối, quy ngân hàng, tính thanh khoản,
biến động tỷ giá những yếu tố quan trọng
ảnh hưởng tích cực đến TNNL của các
ngân hàng nhân tại Ethiopia, trong khi
mức độ an toàn vốn, rủi ro tín dụng lại
tác động tiêu cực tăng trưởng GDP
không có tác động. Wang’ondu (2017) cho
thấy sự nới lỏng các quy định của chính
phủ, sự phát triển của công nghệ, quy
ngân hàng tác động tích cực tới TNNL
của các ngân hàng tại Kenya. Damankah
cộng sự (2014) cho thấy thu nhập lãi,
tiền gửi khách hàng, mức độ rủi ro thanh
khoản các yếu tố tác động thuận chiều
tới TNNL tại các NHTM Ghana. Tại Việt
Nam, thể thống các yếu tố tác động
thuận chiều bao gồm quy mô tín dụng, quy
mô ngân hàng, tỷ suất sinh lời trên tổng tài
sản, rủi ro vỡ nợ ngân hàng, tỷ lệ thu nhập
lãi cận biên, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng