SÁCH BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI ĐỊA LÍ 12 – PGS.TS Nguyễn Đức Vũ
PHẦN 1: ĐỊATỰ NHIÊN
CHỦ ĐỀ 1: VỊ TRÍ ĐỊAVÀ PHẠM VI LÃNH THỔ
Câu 1: Phân tích ảnh hưởng của vị trí địa lí và lãnh thổ nước ta tới thiên nhiên.
Hướng dẫn:
- Vị trí địa lí và lãnh thổ quy định tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của thiên nhiên nước ta. Tính chất đó thể hiện
ở tất cả các thành phần tự nhiên:
+ Địa hình: Các quá trình ngoại lực ( phong hóa hóa học, bóc mòn, vận chuyển và bồi tụ ) diễn ra mạnh, làm
cho địa hình nước ta phổ biến các dạng địa hình xâm thực ( địa hình cac-xtơ với các hang động, suối cạn, thung
khô,..; địa hình các đồi thấp xen thung lũng rộng ở các thềm phù sa cổ, các mương xói, khe rãnh,...) và địa hình
bồi tụ ( bãi bồi, cồn đất, đồng bằng phù sa,...)
+ Khí hậu: Do nằm trong vùng nội chí tuyến bán cầu Bắc, trong khu vực gió mùa châu Á và thường xuyên chịu
ảnh hưởng của Tín phong, giáp Biển Đông rộng lớn nên khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa.
+ Sông ngòi : Chế độ nước thể hiện rõ chế độ mưa theo mùa của khí hậu. Trong năm , sông ngòi có hai mùa lũ
và kiệt, có đỉnh lũ, đỉnh kiệt và phân hóa rõ rệt theo lãnh thổ. Tính thất thường của khí hậu gió mùa kéo theo
tính thất thường của chế độ nước sông ( năm lũ lớn, năm hạn nặng; năm lũ nhiều, năm lũ ít; năm lũ cao, năm lũ
thấp; năm có lũ kéo dài,...)
+ Đất : Tính chất nhiệt đới ẩm của khí hậu làm cho quá trình hình thành đất đặc trưng là quá trình feralit.
+ Sinh vật : Phổ biến là hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm gió mùa; thảm thực vật bốn mùa xanh tươi, giàu sức
sống.
- Vị trí nằm ở khu vực tiếp giáp giữa lục địa và đại dương, ở nơi giao nhau của các vành đai sinh khoáng lớn,
trên đường di lưu và di cư của nhiều loài sinh vật nên nước ta có tài nguyên khoáng sản và tài nguyên sinh vật
rất đa dạng.
- Nước ta nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của nhiều thiên tai như: bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán,...
- Lãnh thổ nước ta hẹp ngang, trải dài theo kinh tuyến trên nhiều vĩ độ nên tự nhiên có sự phân hóa rõ rệt theo
chiều bắc – nam.
Câu 2: Tại sao nói Việt Nam là nơi gặp gỡ của nhiều loại gió?
Hướng dẫn:
Việt Nam nằm ở vị trí tiếp xúc giữa các loại gió từ các hướng đông bắc, tây nam:
- Trước hết, Việt Nam là nơi tràn qua của hai luồng gió mùa Đông Bắc và Tây Nam.
+ Khối khí cực lục địa ( NPc ) xuống xa về phía nam, trung bình đến vĩ tuyến 160B. Những đợt gió mùa Đông
Bắc cực mạnh có thể xuống đến vĩ tuyến 12 – 100B, thậm chí quét qua cả Nam Bộ.
+ Khối khí xích đạo ( Em) nguồn gốc Nam bán cầu tiến xa lên phía Bắc, cao nhất đến Hoa Nam. Gió này được
gọi là gió mùa Tây Nam.
- Việt Nam còn là nơi gặp gỡ giữa luồng gió từ phía tây nam, phía Ấn Độ Dương và vịnh Ben-gan thổi tới; gió
này thổi từ áp cao chí tuyến Bắc Ấn Độ Dương đến.
- Việt Nam còn đón luồng gió từ lưỡi áp cao chí tuyến Tây Thái Bình Dương lấn vào, gió này được gọi là Tín
phong bán cầu Bắc.
Câu 3: Sự đa dạng sinh học của nước ta có những biểu hiện nào bắt nguồn từ vị trí tiếp xúc về địa chất –
địa hình và khí hậu – thủy văn?
Hướng dẫn:
- Nước ta có nhiều loài thực vật và động vật từ Hoa Nam xuống, từ Hi-ma-lay-a tới, từ Ấn Độ - Mi-an-ma sang
và từ Ma-lai-xi-a - In-đô-nê-xi-a lên.
-Luồng Hoa Nam ( thực vật có tính chất cận nhiệt như : dẻ, re,...các loài chim, thú cận nhiệt đới phương Bắc
như gấu); luồng Hy-ma-lay-a ( thực vật có tính chất ôn đới như đỗ quyên, lãnh sam,thiết sam; các loài chim di
cư thuộc khu hệ Hi-ma-lay -a), luồng Ấn Độ - Mi-an-ma ( thực vật có tính chất nhiệt đới khô như họ bàng, họ cà
roi, họ tử vi,...); luồng Ma-lai-xi-a – In-đô-nê-xi-a ( thực vật có tính chất cận xích đạo như cây họ dầu, chò
nâu,...; các loài thú lớn như voi, bò rừng,...) di lưu và di cư đến nước ta làm cho sinh vật nước ta có thêm các
giống, loài cận nhiệt, nhiệt đới khô và cận xích đạo.
- Trên Biển Đông, hải lưu lạnh phương Bắc đi từ Nhật Bản qua eo Đài Loan xuống tận vĩ tuyến 120B, mang đến
cho vùng biển nước ta những loài cá Nhật Bản – Trung Hoa, bên cạnh những loài cá của khu hệ Ấn Độ - Ma-lai-
xi-a.
CHỦ ĐỀ 2: THIÊN NHIÊN NHIỆT ĐỚI ẨM GIÓ MÙA
VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT, ĐỜI SỐNG.
Câu 1: Giải thích tại sao nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa?
Hướng dẫn:
Vị trí nước ta nằm trong vùng nội chí tuyến, trong khu vực gió mùa châu Á, tiếp giáp với Biển Đông rộng
lớn, nên có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa.
- Nằm trong vùng nội chí tuyến nên nước ta có khí hậu nhiệt đới: Do có góc nhập xạ lớn và mọi nơi trong
năm đều có hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh nên hằng năm lãnh thổ nước ta nhận được lượng bức xạ mặt trời lớn.
Tổng bức xạ lớn, cán cân bức xạ dương quanh năm nên nhiệt độ trung bình năm cao, trung bình trên cả nước
đều lớn hơn 210C ( trừ những vùng núi cao); nhiều nắng, tổng số giờ nắng tùy nơi đạt từ 1 400 đến 3 000
giờ/năm.
- Ẩm, mưa nhiều: Tiếp giáp với Biển Đông nên độ ẩm không khí cao, trên 80%, cân bằng ẩm luôn luôn
dương. Các khối khí di chuyển qua biển ( trong đó có Biển Đông ) đã mang lại cho nước ta một lượng mưa lớn,
trung bình từ 1 500 – 2 000 mm. Ở những sườn đón gió biển và các khối núi cao, lượng mưa trung bình năm có
thể lên tới 3 500 – 4 000 mm.
- Gió mùa: Do nằm trong khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của Tín phong và gió mùa châu Á nên khí
hậu có hai mùa rõ rệt. Mùa khô chịu tác động của gió mùa Đông Bắc từ cao áp Xi-bia thổi về; mùa mưa chịu tác
động của gió mùa Tây Nam thổi từ cao áp Bắc Ấn Độ Dương đến đầu mùa hạ và từ cao áp chí tuyến Nam bán
cầu lên vào giữa và cuối mùa hạ. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm trên 80% lượng mưa cả năm.
Câu 2: Khí hậu Việt Nam chịu tác động chủ yếu của các khối khí nào? Tại sao ở miền Bắc nước ta có một
mùa đông lạnh, ít mưa và mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều; miền Nam có hai mùa mưa và khô rất rõ rệt; còn
ở miền Trung lại có mưa lệch về thu đông; giữa Tây Nguyên và đồng bằng ven biển Trung Trung Bộ có sự
đối lập về mùa mưa và mùa khô?
Hướng dẫn:
- Các khối khí tác động đến khí hậu Việt Nam:
+ Khối khí Xi-bia tác động chủ yếu đến miền Bắc nước ta trong mùa đông ( từ tháng 11 đến tháng 4 ) theo
hướng đông bắc, tạo nên gió mùa Đông Bắc.
+ Khối khí Bắc Ấn Độ Dương tác động đến khí hậu nước ta vào đầu mùa hạ theo hướng tân nam.
+ Khối khí chí tuyến bán cầu Nam sau khi vượt qua vùng biển xích đạo vào nước ta vào giữa và cuối mùa hạ
theo hướng tây nam, tạo nên gió mùa Tây Nam.
+ Khối khí chí tuyến bán cầu Bắc tác động vào nước ta quanh năm, xen kẽ với các khối khí khác trong mùa
đông và mùa hạ; hoạt động độc lập vào khoảng tháng 4, khi chuyển thừ mùa đông sang mùa hạ.
- Ở miền Bắc nước ta có một mùa đông lạnh, ít mưa ( tháng 11 đến tháng 4 ) và mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều
( tháng 5 – 10 ) do:
+ Mùa đông: Chịu tác động của gió mùa Đông Bắc lạnh và nửa sau có mưa phùn.
+ Mùa hạ : Chịu tác động của gió Tây Nam từ cao áp Bắc Ấn Độ Dương đến ( còn gọi là gió TBg ) và gió
mùa Tây Nam từ cao áp chí tuyến Nam bán cầu lên ( gió này ở miền Bắc có hướng Đông Nam do bị hút vào áp
thấp Bắc Bộ, vì vậy ở miền Bắc gọi là gió mùa Đông Nam ). Các gió này đều nóng ẩm, gây mưa.
- Miền Nam có hai mùa mưa và khô rất rõ rệt:
+ Mùa khô ( tháng 11 – 4 ) : Chịu tác động của Tín phong bán cầu Bắc ( nóng, khô, ổn định ).
+ Mùa mưa ( tháng 5 – 10 ) : Chịu tác động của gió Tây Nam ( TBg ) vào đầu mùa hạ và gió mùa Tây Nam
vào giữa và cuối mùa, gây mưa lớn cho Nam Bộ và Tây Nguyên.
- Miền Trung : Mưa lệch về thu đông ( tháng 9 – 1 ), do đầu mùa hạ chịu tác động của phơn Tây Nam khô
nóng, đến tháng 9 khi có gió mùa Tây Nam từ cao áp chí tuyến Nam bán cầu lên mới vào mùa mưa; mùa đông
chịu tác động của gió mùa Đông Bắc gặp bức chắn địa hình gây mưa.
- Giữa Tây Nguyên và Đồng bằng ven biển Trung Trung Bộ có sự đối lập về mùa mưa và mùa khô: Do tác
động của hoàn lưu và bức chắn địa hình.
+ Mùa đông: Gió Đông Bắc gặp dãy Tờng Sơn gây mưa ở Đồng bằng ven biển Trung Trung Bộ, sau khi
vượt dãy Trường Sơn lên Tây Nguyên trở nên khô.
+ Mùa hạ: Gió Tây Nam ( TBg ) gây mưa lớn cho Tây Nguyên, sau khi vượt dãy Trường Sơn gây phơn khô
nóng ở Đồng bằng ven biển Trung Trung Bộ.
Câu 3: Trình bày các nhân tố tạo nên tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của khí hậu nước ta.
Hướng dẫn:
- Vị trí nước ta ở nội chí tuyến, nằm hoàn toàn trong vùng nhiệt đới Bắc bán cầu, nên nền nhiệt cao và lượng
bức xạ lớn.
- Nước ta ở vào vị trí tiếp xúc của các luồng gió mùa, nên khí hậu có hai mùa rõ rệt. Mùa đông bớt nóng và
khô, mùa hạ nóng và mưa nhiều. Đồng thời, gió mùa đã mang đến cho nước ta một lượng mưa lớn và độ ẩm
cao.
- Nước ta kề Biển Đông, là nguồn dự trữ nhiệt và ẩm rất dồi dào và có ảnh hưởng nhiều đến chế độ ẩm của
khí hậu phần đất liền.
Câu 4: Tại sao nước ta có tổng lượng bức xạ tổng cộng rất lớn và cân bằng bức xạ quanh năm dương?
Hướng dẫn:
- Do nằm ở trong vùng nội chí tuyến nên ở nước ta có Mặt Trời luôn đứng cao trên đường chân trời. Độ cao
Mặt Trời thấp nhất lúc giữa trưa ở sơn nguyên Đồng Văn là 43012’, ở vĩ độ 200B là 46046’, còn ở vĩ độ 100B tới
56046’. Quanh năm , độ cao Mặt Trời vào giữa trưa luôn đạt trên 800.
- Độ cao Mặt Trời đã làm cho nước ta có góc nhập xạ lớn, nhận được lượng bức xạ cao và cân bằng bức xạ
quanh năm dương.
Câu 5: Trình bày hoạt động của gió mùa Đông Bắc ở nước ta.
Hướng dẫn:
- Gió mùa Đông Bắc từ cao áp Xi-bia về nước ta trong khoảng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, có tính chất
lạnh, hướng gió Đông Bắc.
- Hoạt động chủ yếu trong phạm vi lãnh thổ từ dãy Bạch Mã ra phía bắc.
- Tác động đến chế độ nhiệt:
+ Nửa đầu mùa đông, gió này thổi qua lục địa châu Á rộng lớn nên vào miền Bắc nước ta gây ra thời tiết
lạnh khô với 2 – 3 tháng nhiệt độ dưới 180C. Tuy nhiên, thời tiết lạnh không đều, vùng Đông Bắc có các thung
lũng giữa cánh cung núi hút gió mạnh làm nhiệt độ hạ xuống thấp nhất nước ta, tiếp đến là đồng bằng Bắc Bộ.
+ Do ảnh hưởng của dãy Hoàng Liên Sơn nên gió này không xâm nhập được trực tiếp vào vùng Tây Bắc, mà
theo thung lũng sông Hồng, sông Đà vào Tây Bắc; do đó cùng một độ cao, nhiệt độ ở Tây Bắc cao hơn ở Đông
Bắc.
+ Càng vào phía nam, gió bị suy yếu và biến tính nên nhiệt độ ở Bắc Trung Bộ, nhất là phía nam, không còn
thấp như ở Bắc Bộ. Gió mùa Đông Bắc bị dãy Bạch Mã chặn lại, không vào được phía nam; chỉ những đợt có
cường độ mạnh mới vượt qua được dãy Bạch Mã, ảnh hưởng đến thời tiết phía nam, nhưng nhìn chung đã ấm
lên rất nhiều.
- Tác động đến chế độ mưa:
+ Nửa đầu mùa đông, gió này thổi qua lục địa châu Á rộng lớn nên vào miền Bắc nước ta gây ra thời tiết
hanh khô,không mưa.
+ Từ phía nam sông Cả, do gặp dãy Trường Sơn Bắc nên gió này gây mưa từ Nghệ An vào đến Thừa Thiên
Huế.
+ Nửa sau mùa đông , gió bị lệch qua biển, tăng ẩm, gây nên mưa phùn ở các vùng ven biển và các đồng
bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ.
Câu 6: Gió mùa mùa đông ảnh hưởng đến nhiệt độ nước ta như thế nào?
Hướng dẫn:
- Gió mùa mùa đông thổi vào nước ta từ tháng 11 – 4, xuất phát từ cao áp Xi-bia, gây nên thời tiết lạnh, nhiệt
độ trong các tháng mùa đông hạ thấp.
- Càng vào nam, gió mùa Đông Bắc càng yếu dần và bị biến tính. Sau vĩ tuyến 160B, xem như không còn tác
động của gió mùa Đông Bắc, nên chế độ nhiệt thay đổi theo hướng bắc – nam.
- Mặt khác, do ảnh hưởng của địa hình ngăn gió mùa Đông Bắc, nên ở các địa phương khác nhau, tác động
của gió mùa Đông Bắc đến nhiệt độ cũng không giống nhau.
- Gió mùa mùa đông làm nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất ( tháng 1 ) giảm từ nam ra bắc và xuống thấp ở
vùng Đông Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ.
- Sự chênh lệch nhiệt độ trung bình năm giữa miền Bắc và miền Nam thấp hơn nhiều so với sự chênh lệch
nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất giữa miền Bắc và miền Nam ( chênh lệch nhiệt độ trung bình năm chỉ
khoảng 0,350C/10 vĩ tuyến, nhưng chênh lệch nhiệt độ trung bình tháng 1 đến 10C/10 vĩ tuyến ).
- Gió mùa Đông Bắc là nguyên nhân chủ yếu làm cho biên độ nhiệt tăng dần từ nam ra bắc, biên độ nhiệt
tuyệt đối ở phía Bắc thấp hơn rất nhiều so với phía nam.
- Ở phía bắc, vùng đón gió Đông Bắc trực tiếp ( Đông Bắc ) có biên độ nhiệt lớn hơn các vùng khác cùng vĩ
độ ( Tây Bắc )
Câu 7: Tác động của frông cực đến khí hậu mùa đông ở nước ta như thế nào?
Hướng dẫn:
- Mỗi khi gió mùa Đông Bắc tràn sang, giữa khối khí NPc và khối khí trước đó có một frông lạnh hoạt động,
frông cực (FP).
- Frông cực tới đâu thì phạm vi tác động của gió mùa Đông Bắc với khối khí NPc tới đó. Ở nước ta, frông
cực thường dừng lại ở vĩ độ 160B. Chỉ trong những trường hợp rất mạnh, frông cực mới xuống vĩ độ thấp hơn
( 12 – 100B ), đôi khi quét qua cả Nam Bộ, nhưng lúc đó NPc đã biến tính.
- Mỗi khi frông lạnh tràn qua, chế độ gió, nhiệt độ, độ ẩm và mưa có sự biến đổi đột ngột.
+ Do sự chênh lệch khí áp rất lớn giữa hai bên frông, nên mỗi khi frông lạnh tràn qua, gió đổi hướng đột
ngột, từ thành phần nam chuyển sang thành phần bắc và mạnh lên.
+ Khi frông cực tràn qua, nhiệt độ giảm nhanh chóng, đặc biệt ở khu vực Đông Bắc.
+ Khi frông tràn qua, độ ẩm tuyệt đối giảm sút, nhất là ở khu vực Đông Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ.
+ Tác động gây mưa của frông thay đổi theo mùa và từng nơi. Vào đầu mùa đông, mỗi khi frông tràn qua chỉ
có mưa lác đác, thậm chí có khi không mưa. Riêng khu vực từ Nghệ An trở vào, nhất là từ phía nam đèo Ngang,
do NPc đã tăng ẩm và nóng lên, đồng thời gặp tác dụng bức chắn của địa hình, nên frông mắc lại ở sườn Đông
Trường Sơn, gây nhiễu động và mưa lớn kéo dài. Vào nửa sau mùa đông, NPc biển sau frông lạnh thường gây
nên thời tiết mưa phùn và mưa nhỏ.
Câu 8: Trình bày hoạt động của gió mùa mùa hạ ở nước ta. Tại sao ở Nam Bộ thường có mùa mưa kéo
dài hơn so với Bắc Bộ?
Hướng dẫn:
a) Trình bày hoạt động của gió mùa mùa hạ:
- Vào đầu mùa hạ: Khối khí nhiệt đới nóng ẩm từ Bắc Ấn Độ Dương ( khối khí TBg ) di chuyển theo hướng
tây nam xâm nhập vào nước ta.
+ Xâm nhập trực tiếp gây mưa lớn cho đồng bằng Nam Bộ và Tây Nguyên. Thời tiết thường nóng kèm theo
dông nhiệt.
+ Khi vượt qua dãy Tờng Sơn và các dãy núi chạy dọc biên giới Việt – Lào, tràn xuống vùng đồng bằng
ven biển Trung Bộ và phần nam của khu vực Tây Bắc, khối khí này trở nên khô nóng ( gọi là gió phơn Tây
Nam, gió Tây hay gió Lào). Đôi khi, áp thấp Bắc Bộ khơi sâu tạo nên sức hút mạnh, làm xuất hiện gió Tây khô
nóng tại đồng bằng Bắc Bộ. Thời tiết trong những ngày gió Tây thường quang mây, oi bức, không mưa, nhiệt độ
ở Bắc Trung Bộ lên đến 36 – 380C, cực đại đạt tới 39 – 410C, độ ẩm tương đối xuống đến 70 – 50%, thấp nhất
có thể dưới 30%.
+ Khối khí TBg thịnh hành trên lãnh thổ nước ta vào các tháng 5 -6 , sang tháng 7 – 8 thì suy yếu, đến tháng
9 – 10 thì không còn hoạt động ở đây nữa.
- Vào giữa và cuối mùa hạ: Khối khí xích đạo ( Em ) theo gió mùa Tây Nam xuất phát tử cao áp cận chí
tuyến bán cầu Nam thổi vào nước ta.
+ Khi vượt qua vùng biển xích đạo, khối khí này trở nên nóng ẩm ( hơn cả TBg ) , thường gây mưa lớn và
kéo dài cho các vùng đón gió ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Hoạt động của gió mùa Tây Nam cùng với dải hội tụ
nhiệt đới là nguyên nhân chủ yếu gây mưa vào mùa hạ cho cả hai miền Nam, Bắc và mưa vào tháng 9 cho
Trung Bộ.Thời tiết đặc trưng cho khối khí này là mưa dai dẳng, trời mát, có khi có giông.
+ Do áp thấp Bắc Bộ, khối khí này chuyển theo hướng đông nam vào Bắc Bộ.
b) Nam Bộ thường có mùa mưa kéo dài hơn so với Bắc Bộ, do thời gian kết thúc hoạt động của gió mùa Tây
Nam ở Nam Bộ muộn hơn ở Bắc Bộ. Khối khí chí tuyến bán cầu Nam ( nguồn gốc của gió mùa Tây Nam thổi
vào nước ta ) dịch chuyển theo chuyển động biểu kiến hàng năm của Mặt Trời nên gió mùa Tây Nam từ bán cầu
Nam thổi đến Nam Bộ sớm hơn và kết thúc hoạt động muộn hơn so với Bắc Bộ.
Câu 9: Giải thích tại sao cùng là gió theo hướng tây nam gặp dãy Trường Sơn, nhưng gió Tây Nam xuất
phát từ khối khí nhiệt đới ẩm từ Bắc Ấn Độ Dương gây hiện tượng phơn khô nóng, còn gió mùa Tây Nam
( Tín phong bán cầu Nam ) lại gây mưa lớn cho cả hai sườn núi?
Hướng dẫn:
- Khối khí từ cao áp chí tuyến bán cầu Nam sau khi vượt qua vùng biển xích đạo rộng lớn đã bị biến tính,
thổi vào nước ta theo hướng tây nam ( gió mùa Tây Nam ) có tầng ẩm rất dày, vượt qua các địa hình cao chắn
gió và gây mưa cả ở hai phía của sườn núi.
- Khối khí nhiệt đới nóng ẩm Bắc Ấn Độ Dương thổi vào nước ta theo hướng tây nam, có tầng ẩm mỏng
hơn, nên chỉ gây mưa lớn ở sườn đón gió. Sau khi vượt qua đỉnh núi cao, không còn ẩm nữa, trở nên khô và
nhiệt độ tăng lên khi xuống thấp ( theo tiêu chuẩn không khí khô khi xuống thấp 100 m tăng 10C ), gây nên thời
tiết khô nóng ở sườn khuất gió ẩm.
Câu 10: Trình bày hoạt động của gió Mậu dịch bán cầu Bắc ( n phong bán cầu Bắc ) ở nước ta.
Hướng dẫn:
- Gió Mậu dịch ( Tín phong ) bán cầu Bắc có nguồn gốc từ cao áp chí tuyến bán cầu Bắc, vị trí ở Tây Thái
Bình Dương nên gọi là cao áp Tây Thái Bình Dương, thổi vào nước ta theo hướng đông bắc. Đây là loại gió
thường xuyên, thổi quanh năm với tính chất khô, nóng, ổn định.
- Vào mùa đông:
+ Ở miền Bắc, Tín phong bán cầu Bắc thổi xen kẽ với gió mùa Đông Bắc; khi gió mùa Đông Bắc mạnh sẽ
lấn át gió này vì cùng hướng thổi; khi gió mùa Đông Bắc suy yếu, gió này mạnh lên và gây thời tiết khô, ấm
trong những ngày mùa đông giá rét.
+ Ở miền Trung , Tín phong bán cầu Bắc gặp dãy Trường Sơn gây mưa cho duyên hải miền Trung.
+ Ở miền Nam và Tây Nguyên, Tín phong bán cầu Bắc gây ra mùa khô rõ rệt.
- Vào mùa hạ:
+ Vào đầu mùa hạ: Tín phong bán cầu Bắc cùng với gió Tây Nam từ Bắc Ấn Độ Dương đến tạo dải hội tụ
nhiệt đới chạy theo hướng kinh tuyến, thường chạy dọc Phi-lip-pin, khi lấn sang phía tây thường gây mưa cho
Nam Bộ và mưa tiểu mãn ( tiết Tiểu mãn vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 ) cho Trung Bộ.
+ Vào giữa và cuối mùa hạ , Tín phong bán cầu Bắc cùng với gió mùa Tây Nam từ cao áp Nam bán cầu lên
tạo dải hội tụ chạy theo hướng vĩ tuyến gây nhiễu loạn thời tiết, mưa lớn. Dải hội tụ dịch chuyển theo chuyển
động biểu kiến hằng năm của Mặt Trời lùi dần về phía Nam làm cho tháng mưa cực đại ở trên lãnh thổ nước ta
cũng chậm dần theo.
- Thời kì chuyển tiếp từ mùa đông sang mùa hạ:
+ Gió mùa Đông Bắc suy yếu, gió Tây Nam từ Bắc Ấn Độ Dương chưa thổi đến, Tín phong bán cầu Bắc
hoạt động mạnh lên, độ ẩm tăng cao gây hiện tượng “nồm” với độ ẩm lớn, sương mù nhiều, thời tiết ấm, không
mưa cho chủ yếu ở miền Bắc.
+ Lúc này Tín phong bán cầu Bắc thổi từ phía tây nam của áp cao Tây Thái Bình Dương vào lãnh thổ nước
ta nên có hướng đông nam.
Câu 11: Tại sao Tín phong bán cầu Nam gây mưa lớn cho cả nước, còn Tín phong bán cầu Bắc lại tạo ra
mùa khô rõ rệt ở miền khí hậu phía nam?
Hướng dẫn:
- Tín phong bán cầu Nam xuất phát từ cao áp chí tuyến bán cầu Nam, sau khi vượt qua vùng biển xích đạo
rộng lớn trở nên nóng và ẩm hơn, gây mưa lớn và kéo dài cho các vùng đón gió ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Khi
thổi ra phía Bắc, gió này bị hút vào áp thấp đồng bằng Bắc Bộ, chuyển hướng đông nam, gây mưa ở Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ.
- Tín phong bán cầu Nam gặp Tín phong bán cầu Bắc ( nguồn gốc từ cao áp chí tuyến Tây Thái Bình
Dương ) tạo nên dải hội tụ nhiệt đới dịch chuyển từ bắc vào nam, gây mưa cho cả hai miền Nam, Bắc và mưa
tháng 9 cho Trung Bộ.
- Tín phong bán cầu Bắc xuất phát từ khối khí cao áp chí tuyến Tây Thái Bình Dương ( Tm ) thổi vào nước ta
theo hướng đông bắc. Khối khí này khô nóng, ổn định, độ ẩm tương đối thấp, hoạt động ở miền khí hậu phía
nam trong suốt mùa đông, gây ra một mùa khô rõ rệt cho miền khí hậu phía nam.
Câu 12: Phân tích tác động của dải hội tụ nhiệt đới đến khí hậu nước ta.
Hướng dẫn:
- Dải hội tụ nội chí tuyến ( CIT ) là một khu vực thời tiết xấu giữa hai luồng gió của hai bán cầu hội tụ lại
gây nên luồng thăng, hoặc giữa hai luồng gió mậu dịch nam và bắc bán cầu, hoặc giữa gió mậu dịch của bán cầu
mùa hạ và gió mùa vượt xích đạo xuất phát từ bán cầu mùa đông. Miền hội tụ rộng từ 80 – 600 km. Nếu góc hội
tụ giữa hai luống gió lớn và gió hai bên thổi mạnh, dải hội tụ sẽ hoạt động mạnh và gây mưa lớn.
- Dải hội tụ nhiệt đới ở nước ta được hình thành vào mùa hạ, giữa gió mùa mùa hạ và n phong bán cầu
Bắc.
- Đầu mùa hạ:
+ Gió Tây Nam từ cao áp Bắc Ấn Độ Dương ( TBg ) đến gặp Tín phong bán cầu Bắc tạo nên dải hội tụ nhiệt
đới, chạy theo hướng kinh tuyến. Do gió Tây Nam TBg mạnh hơn, đẩy Tín phong bán cầu Bắc ra ngoài xa về
phía đông, nên dải hội tụ chủ yếu chạy dọc theo Phi-lip-pin, ít có dịp lấn sâu vào đất liền ở miền Bắc Việt Nam.
Ở phía nam vĩ tuyến 120B, trong các tháng 6 – 7, dải hội tụ vắt ngang từ phía nam Phi-lip-pin sang Nam Trung
Bộ và Nam Bộ và chỉ tràn lên phía bắc mỗi khi áp thấp Mi-an-ma đẩy lên và gió vịnh Ben-gan suy yếu.
+ Dải hội tụ nhiệt đới vào thời kí này là nguyên nhân gây mưa ở Nam Bộ và mưa Tiểu mãn ( vào tiết Tiểu
mãn cuối tháng 5 , đầu tháng 6) ở Trung Bộ nước ta.
- Giữa và cuối mùa hạ:
+ Khi gió vịnh Ben-gan suy yếu, gió mùa Tây Nam từ áp cao bán cầu Nam chiếm ưu thế tuyệt đối gặp Tín
phong bán cầu Bắc tạo nên dải hội tụ nhiệt đới rất rõ rệt. Lúc này, dải hội tụ vắt ngang qua đồng bằng Bắc Bộ
theo hướng tây bắc – đông nam , gây thời tiết “mưa ngâu” rất điển hình.
+ Dải hội tụ này vắt ngang qua Bắc Bộ vào tháng 8, theo chuyển động biểu kiến của Mặt Trời lùi dần vào
Trung Bộ và Nam Bộ vào tháng 9 , 10, sau đó lùi xuống vĩ độ trung bình ở Xích đạo. Dải hội tụ này thường gây
mưa mớn, áp thấp, bão,...;nên tháng đỉnh mưa và áp thấp, bão cũng lùi dần từ bắc vào nam theo sự lùi dần của
dải hội tụ nhiệt đới.
Câu 13: Trình bày hoạt động của gió mùa ở nước ta và hệ quả của nó đối với sự phân chia mùa khác
nhau giữa các khu vực.
Hướng dẫn:
Việt Nam trong năm có hai mùa gió chính, là gió mùa mùa đông và gió mùa mùa hạ.
- Gió mùa mùa đông:
+ Từ tháng 11 – 4 ( mùa đông ) miền Bắc nước ta chịu tác động của khối khí lạnh phương Bắc thổi theo
hướng đông bắc, thường gọi là gió mùa Đông Bắc.
+ Vào nửa đầu mùa đông, khối khí lạnh di chuyển qua lục địa châu Á mang lại cho Bắc Bộ nước ta thời tiết
lạnh khô; gặp dãy Tờng Sơn Bắc gây mưa từ Nghệ An vào đến Thừa Thiên Huế. Đến nửa sau mùa đông, khối
khí lạnh di chuyển về phía đông, qua biển tăng độ ẩm của khối khí vào nước ta gây nên thời tiết lạnh ẩm, mưa
phùn.
+ Gió mùa Đông Bắc thổi theo từng đợt, chỉ hoạt động mạnh ở miền Bắc, hình thành một mùa đông có 2 – 3
tháng nhiệt độ xuống dưới 180C. Gió mùa Đông Bắc hoạt động mạnh có thể xuống tới vĩ độ 120B. Khi di
chuyển xuống phía nam, khối khí này bị biến tính và suy yếu dần nên dường như kết thúc bởi bức chắn dãy
Bạch Mã.