
Ngày nhận bài: 13-05-2025 / Ngày chấp nhận đăng bài: 27-05-2025 / Ngày đăng bài: 30-05-2025
*Tác giả liên hệ: Nguyễn Thành Nam. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang, Tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. E-mail: ntnam@tvu.edu.vn
© 2025 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
12 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
ISSN: 1859-1779
Nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 28(6):12-19
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.06.02
Tăng đường huyết ở học sinh trung học cơ sở thừa cân
béo phì tại tỉnh Tiền Giang
Phùng Nguyễn Thế Nguyên1, Tạ Văn Trầm2, Nguyễn Thành Nam2,*
1Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang, Tỉnh Tiền Giang, Việt Nam
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Tăng đường huyết ở trẻ em thừa cân, béo phì là dấu hiệu cảnh báo sớm rối loạn chuyển hóa, nguy cơ đái
tháo đường typ2, nhưng dữ liệu về tỷ lệ hiện mắc, yếu tố nguy cơ tại Việt Nam còn hạn chế.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tăng đường huyết, các yếu tố liên quan ở học sinh trung học cơ sở thừa cân béo phì tại tỉnh Tiền Giang.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 6009 học sinh từ các trường trung học cơ sở tại
Tiền Giang, 2055 học sinh được xác định thừa cân, béo phì. Các đánh giá bao gồm đo lường nhân trắc học, xét nghiệm
glucose máu lúc đói, HbA1c, kết hợp thu thập thông tin về thói quen ăn uống, vận động và sinh hoạt qua bảng câu hỏi
chuẩn hóa.
Kết quả: Tỷ lệ tăng đường huyết theo HbA1c là 23,1%, cao hơn so với phân loại theo glucose máu lúc đói (11,0%). Các yếu
tố nguy cơ độc lập gồm: béo phì, ăn nhanh không nhai kỹ, ngủ <8 giờ/đêm, uống sữa hàng ngày và không thích vận động.
Kết luận: Tăng đường huyết ở học sinh thừa cân, béo phì là vấn đề sức khỏe ưu tiên. Cần lồng ghép sàng lọc HbA1c,
can thiệp hành vi lối sống trong chương trình chăm sóc sức khỏe học đường.
Từ khóa: tăng đường huyết; tiền đái tháo đường; béo phì trẻ em; hành vi lối sống
Abstract
HYPERGLYCEMIA IN OVERWEIGHT AND OBESE LOWER SECONDARY
SCHOOL STUDENTS IN TIEN GIANG PROVINCE
Phung Nguyen The Nguyen, Ta Van Tram, Nguyen Thanh Nam
Background: Hyperglycemia in overweight and obese children is an early indicator of metabolic dysfunction and a risk
factor for type 2 diabetes. However, data on its prevalence and associated risk factors in Vietnam remain limited.
Objectives: To determine the prevalence of hyperglycemia and its associated factors among overweight and obese
lower secondary school students in Tien Giang province.

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 6 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.06.02 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 13
Methods: A cross-sectional study was conducted among 6,009 students from lower secondary schools in Tien Giang.
Of which, 2,055 were identified as overweight or obese. Assessments included anthropometric measurements, fasting
plasma glucose (FPG), HbA1c testing, and data collection on dietary, physical activity, and lifestyle habits using a
standardized questionnaire.
Results: The prevalence of hyperglycemia based on HbA1c was 23.1%, higher than that classified by fasting plasma
glucose (11.0%). Independent risk factors included obesity, eating quickly without thorough chewing, sleeping less than
8 hours per night, daily milk consumption, and low physical activity.
Conclusion: Hyperglycemia among overweight and obese adolescents is a significant health concern. Routine HbA1c
screening and behavioral lifestyle interventions should be integrated into school health care programs.
Keywords: hyperglycemia; prediabetes; childhood obesity; lifestyle behavior
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 2020, khoảng 86 triệu trẻ em từ 10 - 19 tuổi trên toàn
cầu mắc béo phì, chiếm 7% và con số này được dự tính sẽ
tăng lên 11% vào năm 2030 [1]. Tại Việt Nam, tỷ lệ thừa cân
và béo phì (TCBP) ở trẻ 5-19 tuổi đã tăng mạnh, lên đến
19,0% và 8,1% năm 2023, gấp đôi so với một thập kỷ trước
[2]. Đặc biệt, các đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh
đang ghi nhận tỷ lệ học sinh bị TCBP lên đến 43%, cho thấy
một xu hướng đáng báo động [3]. Béo phì trẻ em không chỉ
kéo theo các vấn đề tâm lý mà còn làm tăng nguy cơ mắc đái
tháo đường (ĐTĐ) type 2 - một bệnh lý từng chỉ gặp ở người
trưởng thành nhưng nay đang gia tăng đáng báo động ở lứa
tuổi thanh thiếu niên [4,5].
Tăng đường huyết và tiền đái tháo đường ở trẻ em là giai
đoạn tiền đề của ĐTĐ type 2, với tỷ lệ chuyển đổi từ 15-30%
mỗi năm, cao hơn đáng kể so với người trưởng thành [5].
Một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy tỷ lệ tiền đái tháo
đường ở trẻ em và thanh thiếu niên là 8,84% [6], tuy nhiên
dữ liệu tại Việt Nam còn rất hạn chế, đặc biệt ở nhóm đối
tượng TCBP - nhóm có nguy cơ cao nhất. Điều này tạo ra
khoảng trống kiến thức đáng kể trong việc xây dựng các
chiến lược phòng ngừa hiệu quả tại Việt Nam. Vì vậy, nghiên
cứu này được thực hiện nhằm xác định tỷ lệ tăng đường
huyết và các yếu tố nguy cơ liên quan ở học sinh trung học
cơ sở (THCS) TCBP tại tỉnh Tiền Giang, cung cấp cơ sở
khoa học cho các chiến lược can thiệp phù hợp với bối cảnh
Việt Nam.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh các trường THCS tại Thành phố Mỹ Tho, huyện
Cai Lậy và huyện Chợ Gạo (tỉnh Tiền Giang). Nghiên cứu
được thực hiện thừ tháng 10/2023 đến tháng 5/2025.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
Học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 (độ tuổi 11–14 tuổi), đang
học tại các trường THCS thuộc tỉnh Tiền Giang, đã được
xác định là TCBP dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI) theo
tuổi (Z-score) của Tổ chức Y tế Thế giới (2007) [7], và có
sự đồng thuận tham gia từ nhà trường, phụ huynh và bản
thân học sinh.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Học sinh mắc các bệnh lý có thể ảnh hưởng đến chuyển
hóa glucose như ĐTĐ type 1, type 2 đã chẩn đoán trước, hội
chứng chuyển hóa, rối loạn nội tiết (hội chứng Cushing, suy
giáp…), hoặc đang sử dụng thuốc ảnh hưởng đến đường
huyết như corticosteroids, thuốc chống loạn thần.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.2.2. Cỡ mẫu
Áp dụng cỡ mẫu ước lượng một tỉ lệ:
2
(1 )
2
2
(1 )
Z p
np
n: Cỡ mẫu cần thiết
α = 0,05 (độ tin cậy 95%), Z1-α/2= 1,96 (tra bảng phân
phối bình thường)

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 6* 2025
14 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.06.02
p1: Tỉ lệ điều tra trước (Tỉ lệ TCBP ở học sinh 11 – 14 tuổi
toàn quốc năm 2019 của tác giả Phan Hướng Dương là
27,8% [8]).
: Độ chính xác tương đối (mong muốn), = 0,061.
Để tránh sai số khi chọn mẫu trong nghiên cứu cộng
đồng, chọn mẫu nhiều giai đoạn nên cần nhân với hệ số
thiết kế DE (Design Effect) xấp xỉ bằng 2. Sau khi cộng
thêm 10% để dự phòng mất mẫu, tổng số học sinh cần khảo
sát là 5.970 học sinh.
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng
nhiều giai đoạn. Giai đoạn 1, tỉnh Tiền Giang được phân
thành hai khu vực địa lý (thành thị và nông thôn); ba địa
phương được chọn ngẫu nhiên gồm thành phố Mỹ Tho
(thành thị), huyện Cai Lậy và huyện Chợ Gạo (nông thôn).
Giai đoạn 2, các trường THCS trong mỗi địa phương được
chọn bằng phương pháp xác suất tỷ lệ với kích thước cụm
(PPS). Giai đoạn 3, học sinh trong mỗi trường được phân
tầng theo khối lớp (6 đến 9), sau đó chọn ngẫu nhiên từ danh
sách lớp, đảm bảo phân bố theo giới và khối lớp phù hợp với
cơ cấu học sinh toàn trường
2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu
Dữ liệu được thu thập trực tiếp tại trường học, sử dụng bộ
công cụ chuẩn hóa từ Viện Dinh dưỡng Quốc gia Việt Nam và
Tổ chức Y tế Thế giới [9]. Điều tra viên được đào tạo bài bản
để đảm bảo tính chính xác và đồng nhất trong đo lường. Từ
quần thể học sinh được khảo sát theo phương pháp phân tầng
nhiều giai đoạn nhằm xác định học sinh TCBP, có 2055 học
sinh TCBP, tất cả các trẻ này được mời tham gia lấy máu để
xét nghiệm glucose máu lúc đói và HbA1c.
2.2.5. Biến số nghiên cứu
Các chỉ số nhân trắc: gồm cân nặng, chiều cao, vòng eo
và vòng mông được đo theo hướng dẫn chuẩn quốc tế. BMI
được tính toán và phân loại dinh dưỡng theo Z-score của
WHO: thừa cân (+1SD < BMI ≤ +2SD) và béo phì (BMI >
+2SD) [7].
Glucose máu lúc đói được định lượng vào buổi sáng sau
khi nhịn ăn ≥8 giờ, bằng phương pháp enzym glucose
oxidase. HbA1c được đo từ máu tĩnh mạch toàn phần, phân
tích bằng HPLC (High-Performance Liquid
Chromatography), chuẩn hóa theo chương trình NGSP
(High-Performance Liquid Chromatography). Các xét
nghiệm được thực hiện tại khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Tiền Giang. Phân loại rối loạn đường huyết theo
ADA 2025: glucose máu lúc đói <100 mg/dL là bình thường;
100–125 mg/dL là tiền đái tháo đường; ≥126 mg/dL là đái
tháo đường. HbA1c <5,7% là bình thường; 5,7–6,4% là tiền
đái tháo đường; ≥6,5% là đái tháo đường [4].
2.2.6. Xử lý và phân tích dữ liệu
Dữ liệu được nhập liệu bằng phần mềm Epidata và phân
tích bằng Stata 16.0.
Thống kê mô tả: trình bày giá trị trung bình ± độ lệch
chuẩn cho các biến định lượng, và tần suất, tỷ lệ phần trăm
cho biến định tính.
Kiểm định Chi-square sử dụng để so sánh tỷ lệ rối loạn
glucose giữa các nhóm giới tính và phân loại TCBP. Phân
tích tương quan giữa chỉ số BMI với glucose máu và HbA1c
bằng hệ số tương quan Pearson.
Mức ý nghĩa thống kê: p <0,05.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm của người tham gia nghiên cứu
Trong quá trình triển khai nghiên cứu tại các trường THCS
thuộc ba khu vực đại diện trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, chúng
tôi đã thu thập và phân tích dữ liệu từ 6009 học sinh. Kết quả
cho thấy có 2055 học sinh TCBP, chiếm tỷ lệ 34,2%. Chỉ số
khối cơ thể (BMI) trung bình trong nhóm này là 24,4 ± 3,4
kg/m², tỷ lệ nam/nữ = 1,5/1.
Hình 1. Tỷ lệ học sinh theo phân loại glucose máu lúc đói và HbA1c
(N=2055)

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 6 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.06.02 https://www.tapchiyhoctphcm.vn
|
15
Tỷ lệ học sinh được phân loại tiền đái tháo đường và đái
tháo đường theo HbA1c (21,3% và 1,8%) cao hơn so với
glucose máu lúc đói (11,0% và 0,3%) (Hình 1).
Tăng đường huyết có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với
các yếu tố: béo phì, WHtR ≥0,5, ăn nhanh không nhai kỹ,
tiêu thụ sữa và trà sữa hằng ngày, ít vận động, thời gian sử
dụng thiết bị điện tử >2 giờ/ngày, và ngủ < 8 giờ/đêm (p <0,05)
(Bảng 1).
Bảng 1. Phân tích mối liên quan giữa tăng đường huyết (HbA1c ≥ 5,7%) và các yếu tố nhân trắc, hành vi ở học sinh THCS TCBP tại Tiền Giang
(N = 2055)
Đặc điểm
Tăng đường huyết
HbA1c ≥ 5,7% OR
KTC 95% p
Không
(n=1581)
n (%)
Có
(n=474)
n (%)
A. Đặc điểm nhân trắc học
Béo phì (so với thừa cân) 656 (73,1) 243 (26,9) 1,47 (1,19-1,82) <0,001
Nam (so với nữ) 938 (76,5) 288 (24,5) 1,06 (0,86-1,32) 0,578
Tuổi: 13-14 so với 11-12 616 (76,6) 188 (23,4) 1,03 (0,83-1,28) 0,784
Vòng eo ≥ 90th 1337 (76,4) 414 (23,6) 1,26 (0,92-1,74) 0,136
Vòng eo/chiều cao (WHtR) ≥ 0,5 880 (75,2) 291 (24,8) 1,27 (1,02-1,57) 0,027
B. Thói quen ăn uống (có so với không)
Ăn nhanh, không nhai kỹ 392 (71,4) 157 (28,6) 1,50 (1,19-1,89) <0,001
Thích ăn no, ăn nhiều loại đồ ăn 483 (77,2) 143 (22,8) 0,98 (0,78-1,23) 0,874
Ăn nhiều vào buổi chiều tối 267 (75,4) 87 (24,6) 1,11 (0,84-1,45) 0,458
Ăn trước khi đi ngủ 301 (75,8) 96 (24,2) 1,08 (0,83-1,40) 0,557
Thích ăn bánh kẹo 682 (76,7) 207 (23,3) 1,02 (0,83-1,26) 0,845
Có uống sữa hằng ngày 843 (74,9) 282 (25,1) 1,29 (1,04-1,59) 0,018
Thích uống nước ngọt 978 (76,0) 309 (24,0) 1,15 (0,93-1,44) 0,189
Thích uống trà sữa 830 (74,8) 279 (25,2) 1,30 (1,05-1,60) 0,015
C. Thói quen vân động (có so với không)
Không thích vận động 571 (73,4) 207 (26,6) 1,37 (1,11-1,70) 0,003
Chơi điện tử > 2 giờ/ngày 268 (72,6) 101 (27,4) 1,33 (1,02-1,72) 0,030
Sử dụng điện thoại > 2 giờ/ngày 458 (72,9) 170 (27,1) 1,37 (1,10-1,71) 0,004
Ngủ < 8 giờ/đêm 444 (70,4) 187 (29,6) 1,67 (1,34-2,07) <0,001
D. Tiền sử bản thân và gia đình (có so với không)
Gia đình có người béo phì 530 (74,4) 182 (25,6) 1,23 (0,99-1,53) 0,052
Gia đình có người tiểu đường 318 (75,2) 105 (24,8) 1,13 (0,87-1,46) 0,336
Cân nặng lúc sinh ≥ 4kg 70 (79,5) 18 (20,5) 0,85 (0,47-1,46) 0,552
: Kiểm định Chi-square
Bảng 2. Các yếu tố liên quan độc lập đến tăng đường huyết (HbA1c ≥5,7%) ở học sinh THCS TCBP tại tỉnh Tiền Giang (N=2055)
Biến độc lập OR KTC 95% p
Không thích vận động 1,26 (1,01-1,56) 0,038
Uống sữa hằng ngày 1,36 (1,10-1,69) 0,005
Béo phì 1,43 (1,11-1,84) 0,005
Thời gian ngủ < 8 giờ/đêm 1,45 (1,15-1,82) 0,002
Thói quen ăn nhanh, không nhai kỹ 1,46 (1,17-1,83) 0,001
: Hồi quy logistic

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 6* 2025
16 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.06.02
Hình 2. Tương quan tuyến tính giữa HbA1c và các chỉ số nhân trắc, sinh lý, tuổi ở học sinh THCS TCBP tại tỉnh Tiền Giang (N=2055)
Tăng đường huyết có liên quan độc lập với béo phì, ngủ
<8 giờ/đêm, ăn nhanh không nhai kỹ, uống sữa hàng ngày
và ít vận động, với mức ý nghĩa thống kê p <0,05 (Bảng 2).
Hệ số tương quan giữa HbA1c và từng chỉ số nhân trắc
riêng lẻ đều thấp, kết quả hồi quy logistic cho thấy các yếu
tố hành vi và thể trạng như béo phì, thói quen ăn nhanh, thiếu
ngủ vẫn đóng vai trò quan trọng trong dự đoán tăng đường
huyết ở học sinh THCS, bản chất đa yếu tố và tích lũy của
rối loạn chuyển hóa glucose, vốn không thể hiện rõ qua các
mối liên hệ tuyến tính đơn lẻ (Hình 2).
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ tăng đường huyết
(HbA1c ≥ 5,7%) ở học sinh THCS TCBP tại tỉnh Tiền
Giang là 23,1%, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ tiền đái tháo
đường theo tiêu chí glucose máu lúc đói (11,0%). Sự chênh
lệch này phản ánh xu hướng HbA1c có thể phát hiện nhiều
trường hợp rối loạn chuyển hóa glucose hơn, phù hợp với
phân tích tổng hợp toàn cầu gần đây cho thấy tỷ lệ tiền đái
tháo đường là 6,93% khi sử dụng glucose máu lúc đói và
9,88% khi sử dụng HbA1c tăng cao [6]. Sự khác biệt giữa
hai tiêu chí chẩn đoán đã được ghi nhận trong nhiều nghiên
cứu, với HbA1c phản ánh mức glucose máu trung bình trong
2-3 tháng, trong khi glucose máu lúc đói chỉ đại diện cho một
thời điểm cụ thể [4]. ADA khuyến nghị sử dụng cả hai tiêu
chí này trong sàng lọc tiền đái tháo đường ở trẻ em và thanh
thiếu niên có nguy cơ cao, đặc biệt là những trẻ TCBP.
HbA1c có ưu điểm là không cần nhịn đói, ít biến động ngày
qua ngày và có thể phản ánh tình trạng rối loạn chuyển hóa
glucose lâu dài hơn. ADA cũng cảnh báo về nguy cơ chẩn
đoán quá mức khi chỉ sử dụng HbA1c, đặc biệt ở một số
nhóm dân số, HbA1c có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như
thiếu máu, hemoglobin bất thường, và các điều kiện ảnh
hưởng đến tuổi thọ hồng cầu, do đó nên được sử dụng kết
hợp với các xét nghiệm khác khi cần thiết [5].
Nghiên cứu xác định mối liên quan đáng kể giữa béo phì
và tăng đường huyết (OR = 1,43; KTC 95%: 1,11-1,84), phù
hợp với nhiều nghiên cứu gần đây về mối liên quan giữa
BMI và tăng HbA1c ở trẻ em. Nghiên cứu trên 7.519 trẻ em
và thanh thiếu niên Trung Quốc đã phát hiện những trẻ béo
phì có nguy cơ mắc tiền đái tháo đường cao gấp 1,53 lần so
với trẻ có cân nặng bình thường (OR = 1,53; 95% CI: 1,25-
1,87) [10]. WHtR ≥0,5 cũng liên quan đến tăng nguy cơ
tăng đường huyết (OR = 1,27; KTC 95%: 1,02-1,57), tương
đồng với nghiên cứu đa quốc gia năm 2021 cho rằng WHtR
≥0,5 là chỉ số dự báo mạnh hơn BMI về nguy cơ rối loạn
chuyển hóa glucose và kháng insulin. Cơ chế sinh lý bệnh
đằng sau mối liên quan này bao gồm đề kháng insulin, rối
loạn chức năng tế bào beta và quá trình viêm mạn tính liên