Tăng trí nhớ cho sĩ tử bằng thuốc -
Thực hư thế nào?
Cứ đến mỗi mùa thi là câu chuyện về dùng thuốc nào để làm
tăng cường sức khỏe và trí nhớ cho các sĩ tử lại là mối quan tâm
của không ít phụ huynh và học sinh. Nhiều người đã dày công
bồi bổ con không chỉ bằng ăn uống mà còn tìm đến với những
loại thuốc với hy vọng để có thêm trí nh
Trí nhớ và giải pháp dùng thuốc
Quan tâm tới việc học tập của con cái là một việc làm chính
đáng của các bậc phụ huynh. Việc “cắn răng” mua một đống
thuốc đắt tiền để bồi dưỡng các sĩ tử cũng là chuyn hoàn toàn
dễ gặp. Tất cả những việc đó đều nhằm mt mục đích duy nhất
là làm sao con trẻ nhớ được lâu và khi đi thi không bị quên.
Song trái với những gì họ đang kỳ vọng, giải pháp thuốc ở đây
không phải là giải pháp tốt nhất.
Thứ nhất, quá trình hc tập và ghi nhớ là một quá trình tích lu
mang tính chất lâu dài và cần có thời gian. Chúng ta không thể
cố gắng nhồi nhét một tải lượng kiến thức quá lớn trong một
thi gian quá ngắn vào não của đứa trẻ. Công việc này, nếu
thì chỉ hình thành được trí nhớ ngắn hạn mà thôi. Và đương
nhiên, một thời gian ngắn sau, đứa trẻ sẽ quên. Thậm chí vừa
học xong là quên luôn. Tốt nhất là hãy sẵp xếp lịch học hợp lý
cho con cái ngay từ khi bắt đầu o năm học mới.
Thứ hai, cho đến nay, các thuốc được tìm ra đều “đánh” vào
những khâu còn mang tính mơ hồ. Chưa một loại thuốc nào làm
thay đổi hoạt động của tế bào thần kinh cũng như làm thay đi
mc độ liên kết các tế bào thần kinh với nhau. Mà đây lại là vấn
đề mấu chốt của việc ghi nhớ và tái hiện. Ví dụ, các vitamin
nhóm B được cho là tốt với thần kinh nhưng thực ra chúng chỉ là
những thuốc làm gim nồng độ homocysteine trong não b và
do đó được coi là tăng khả năng nhớ. Vitamin B không làm thay
đổi mức độ liên kết của hệ thần kinh. Một thuốc khác là choline
được cho là có tác dụng cải thiện trí nhớ vì nó làm tăng nồng độ
của acetylcholin trong não bộ. Mà người ta thì đang tạm chấp
nhận acetylcholin có vai trò trong vêc tạo ra trí nhớ. Thế nên
thuốc này có thể có tác dụng. Nhưng đáng tiếc là acetylcholin
không phải là chất trung gian thần kinh đặc hiệu cho trí nhớ vì
còn có ở các điểm tiếp xúc thần kinh cơ, những bộ phận
không liên quan gì đến nhớ và quên. Đồng thời, thuốc chỉ có tác
dụng với những người bị thiếu hụt acetylcholin chứ với người
bình thường thì thuc hầu như không làm thay đổi
Thứ ba, việc học và việc nhớ rất cần một tinh thần thoải mái.
Tức là cần một không khí học tập bình thường, một tâm lý học
thoải mái, giờ giấc hợp lý, thc hiện một chế độ ăn uống đủ chất
sẽ có lợi hơn rất nhiều so với việc gượng ép bắt óc phải nặn ra
trí nhớ. Chúng ta không thể cứ uống thuốc, không học là tự khắc
có kiến thức. Tri thức chỉ được hình thành sau một quá trình tích
lũy.
Chưa có hoạt chất nào chứng minh
được tính ưu việt trong việc tăng trí
nhớ.
Có hay không thuốc tăng trí nhớ?
Đây không chỉ đơn thuần là những trăn trở của các bậc phụ
huynh mà đó là những đắn đo của cả các nhà khoa học.
Câu trả lời cho câu hỏi trên là “có”, nhưng chỉ là với người
bệnh. Cho đến nay, người ta đã tìm ra được mt số dược chất có
khả năng cải thiện trí nhớ và nhận thức của bộ não cho những
người không may mắn. Đó là những thuốc để điều trị những
bệnh nhân bị bệnh Alzheimer.
Bệnh Alzheimer là mt bệnh của não b đặc biệt nguy hại tới
khả năng nhận thức, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng
suy nghĩ, tư duy, nhận thức, hiểu biết, lĩnh hội, ghi nhớ và học
thuộc. Bằng những nghiên cứu khoa học, người ta đã bào chế ra
những thuốc có thể cải thiện được tình hình. Donepezil,
galantamine và rivastigmine là những thuốc có thể cải thiện trí
nhớ ở những bệnh nhân Alzheimer và đã được chỉ định điều trị.
Chúng tác dụng bằng cách ức chế enzym phân huỷ acetylcholin
là acetylcholinesterase. Do đó mà nồng độ acetylcholin trong
não bộ được tăng lên. Tuy nhiên, có một vấn đề là các thuc này
có vẻ như ít có tác dụng với những người bình thường. Bên cạnh
đó, chúng lại còn có thể gây ra những tác dụng phụ. Điển hình là
buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, nhịp tim nhanh, rối loạn dẫn
truyền trong tim. Thế nên, chúng không được coi là thuốc giúp
nh tốt.
Ngoài ra, các thuc vitamin B, gingko, piracetam, vinpocetin,
cinnarizine, caphein, trà, sâm... cũng đang được quảng bá là có
thể làm tăng cường khả năng nhớ. Trên thc tế thì chúng không
có khả năng như ta nghĩ.
dụ, piracetam là thuc được dùng trong trường hợp bị “suy
giảm chức năng nhận thức và suy giảm thần kinh cảm giác mạn
tính người già, chứng khó học ở trẻ”. Thế nhưng thực tế,
không ít người đã thi phồng là thuốc có thể làm cho thông
minh, nh tốt, học giỏi. Dưới góc độ dược học, piracetam ch
đơn thuần là một dẫn xuất của GABA, một chất trung gian hoá
học. Nó chỉ có tác dụng làm thay đi lưu lượng máu tới não và
làm tăng khả năng chuyển hoá dinh dưỡng trong tế bào thần
kinh. Tức là làm cho tế bào thần kinh “ăn” khoẻ hơn. Nó không
tác động rõ ràng vào việc hình thành nên trí nhớ. Vả lại, rất ít
bằng chứng chứng minh là thuốc có tác dụng trên người khoẻ
mạnh.
Cho đến nay, các hoạt chất tác động vào trí nhớ có khá nhiều
nhưng chưa một hoạt chất nào chứng minh được tác dụng ưu
việt của mình. Chúng ch là những thuốc dừng lại ở mức “cải
thiện” mà thôi. Người ta mới chỉ biết là các tế bào tháp ở vỏ não
chịu trách nhiệm hoạt động tư duy trong đó có việc nhớ. Và một
số chất trung gian hoá học thần kinh có mt vai trò nào đó trong
việc nhớ như acetylcholin, dopamin. Do chưa tìm ra được điểm
mấu chốt “vàng” cho nên chưa có mt loại thuốc đặc hiệu nào
được tìm ra.