
Theo dõi các biến chứng trong chăm sóc
bệnh nhân gây mê phẫu thuật
Gây mê là phương pháp vô cảm nhằm mục đích làm mất tạm thời ý thức cảm giác,
các phản xạ, bằng các thuốc mê tác động trên thần kinh trung ương.
Hoặc nói một cách khác là:
Gây mê là một sự nhiễm độc có định lượng, có kiểm soát, một sự nhiễm độc dần
dần thuốc mê dẫn đến mất cảm giác tạm thời, mất ý thức và giãn cơ, hồi phục
được và không để lại di chứng.
1.1. Tai biến về tim mạch :
Bên cạnh một số tai biến ít nhiều gây khó chịu như: rối loạn nhịp tim, một vài
dạng ngoại tâm thu, nhịp nhanh xoang hoặc nhịp nhanh thất, cần phải chú ý đến
một số loại tai biến làm ngừng tim đột ngột cụ thể là:
+ Ngừng tim nguyên phát ngay khi khởi mê sau vài nhịp thở: mạch tăng rất nhanh,
sau đó ngừng đột ngột, đồng tử giãn và chết tức khắc mà các phương pháp điều trị
hầu như không có kết quả.

+ Ngừng tim thứ phát: là tai biến của việc dùng quá liều thuốc mê, với các biểu
hiện trước khi ngừng tim như rối loạn nhịp tim, mạch yếu dần, đồng tử giãn
nhanh, giảm và suy thở, thậm chí ngừng thở kéo dài. Trong trường hợp này cần
phải ngừng ngay thuốc mê thể khí, cho bệnh nhân thở oxy, tiến hành ngay các kỹ
thuật hồi sức về tim mạch như ép tim ngoài lồng ngực hoặc bóp tim trực tiếp trong
lồng ngực (đối với các phẫu thuật mở lồng ngực).
Ngất thứ phát hoặc do thiếu oxy cơ tim mà nguyên nhân chủ yếu là do tim hoặc do
phổi, hoặc do dùng quá liều thuốc thuộc họ halogone (chlorophorme, chlorure -
etyle, cyclopropane).
- Có 4 trạng thái thường gặp khi ngừng tim:
+ Mềm nhẽo.
+ Giảm.
+ Co cứng.
+ Rung cơ tim.
Các cách điều trị ngừng tim là khác nhau. Điều cần lưu ý không chỉ đơn thuần là
ngừng tim mà thời gian ngừng tim. Não sẽ không thể phục hồi khi thiếu oxy quá 3
đến 5 phút.

- Khi phát hiện ngừng tim cần phải tiến hành điều trị cấp cứu nhanh và có hiệu
quả:
. Ngừng gây mê ngay lập tức.
. Cho bệnh nhân thở oxy 100%.
. Thực hiện hồi sức tim.
+ Bên cạnh tự trụy tim, trụy mạch cũng là hiện tượng thường gặp. Những nguyên
nhân chính dẫn đến trụy mạch là:
- Quá liều thuốc mê, dẫn đến tụt huyết áp.
- Thiếu oxy kéo dài.
- Không bù đủ khối lượng máu tuần hoàn trong các phẫu thuật mất nhiều máu.
- Tăng CO2 máu ở giai đoạn cuối.
- Các phản xạ đả kích quá mức do gây mê nông, nhất là trong các phẫu thuật gây
đau.
- Truyền nhầm nhóm máu.
Sự trụy mạch là dấu hiệu thường thấy khi:
. Sử dụng hỗn hợp các thuốc ức chế thần kinh.

. Sử dụng các thuốc liệt hạch.
+ Tăng huyết áp liên quan tới:
- Giai đoạn đầu của tăng CO2 máu.
- Truyền quá nhiều máu hoặc dịch.
+ Sự suy tim mẫn cảm tiến triển bởi các thuốc gây mê là ngoại lệ và chỉ thấy trên
các bệnh nhân có bệnh tim mạch từ trước.
1.2. Tai biến về hô hấp:
Các tai biến liên quan tới:
+ Tình trạng phổi trước phẫu thuật:
Các bệnh lý về phổi có từ trước nhanh chóng dẫn đến các rối loạn trong việc điều
tiết hấp thu oxy và đào thải CO2. Hiện tượng thiếu oxy đến một mức nào đó sẽ
làm suy giảm chức năng não, thận, tim và gan.
Thiếu oxy máu với biểu hiện lâm sàng là suy thở nhanh và nông, mạch chậm và
mạnh, sau đó mạch nhanh kèm theo rối loạn về nhịp và có xu hướng trụy mạch.
Nếu tiếp tục bị thiếu oxy máu bệnh nhân sẽ dẫn đến các tai biến nặng hơn, không
thể cứu chữa.

+ Một số thuốc sử dụng:
- Những thuốc họ barbiturric và morphin hay fentanyl có thể gây ra các rối loạn
trầm trọng về hô hấp ngay cả khi dùng với liều thấp.
Điều quan trọng là đối với các trường hợp suy thở cần phải biết điều trị tạm thời
bằng các phương pháp, phương tiện thông khí kịp thời và thuốc đối kháng ở cuối
cuộc gây mê.
Những thuốc đối kháng thường dùng là:
. Bemegrit, nikethamide đối kháng với họ barbuturic.
. Nalorphine đối kháng với các thuốc họ morphin.
. Liệu pháp oxy đối kháng với các thuốc thuộc 2 họ trên.
- Những thuốc làm giảm trương lực cơ do thuốc giãn cơ, thuốc làm mềm cơ cũng
gây ra khả năng thiếu oxy chuyển hoá. Dịch tiết phế quản do các khí gây mê nhất
là ether và các thuốc thuộc họ morphin cũng dẫn đến làm hẹp phế quản.
Tất cả các phẫu thuật trên các cơ tham gia hô hấp (phẫu thuật ngực, bụng) đều làm
nặng thêm tình trạng suy hô hấp.
+ Tình trạng cấp cứu: