
Ngày nhận bài: 14-11-2024 / Ngày chấp nhận đăng bài: 05-02-2025 / Ngày đăng bài: 10-02-2025
*Tác giả liên hệ: Cao Mạnh Hùng. Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Khoa học Sức khỏe-Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ
Chí Minh, Việt Nam. Email: cmhung@uhsvnu.edu.vn
© 2025 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.tapchiyhoctphcm.vn 139
ISSN: 1859-1779
Nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 28(1):139-146
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.01.17
Các yếu tố liên quan đến kiến thức tự chăm sóc của
người bệnh sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng điều
trị bổ trợ bằng hóa trị liệu tại bệnh viện Chợ Rẫy
Cao Mạnh Hùng1,*, Nguyễn Thị Duyên Thắm2, Trần Hữu Phước2
1Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Khoa học Sức khỏe-Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,
Việt Nam
2Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Ung thư đại trực tràng (UTĐTT) là một căn bệnh phổ biến, sau phẫu thuật cắt bỏ khối u người bệnh (NB)
thường phải điều trị bổ trợ bằng hóa trị liệu và kiến thức tự chăm sóc tốt là nền tảng giúp NB tự quản lý tốt hơn tình trạng
bệnh và các tác dụng phụ gặp phải sau hóa trị. Tuy nhiên, kiến thức tự chăm sóc thường bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
nên việc xác định các yếu tố này có ý nghĩa quan trọng giúp điều dưỡng xây dựng và thực hiện các biện pháp can thiệp
phù hợp nhằm nâng cao kiến thức tự chăm sóc cho NB.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ NB có kiến thức tự chăm sóc tốt và các yếu tố liên quan đến kiến thức tự chăm sóc của NB sau
phẫu thuật UTĐTT điều trị bổ trợ bằng hóa trị liệu tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích trên 154 NB sau phẫu thuật UTĐTT
điều trị bổ trợ bằng hóa trị liệu tại Bệnh viện Chợ Rẫy, được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi soạn sẵn, trong thời
gian từ 04/2023 đến 08/2023, thỏa các tiêu chí chọn mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Kết quả: NB có độ tuổi trung bình là 57,64±11,41 tuổi, 64,3% là nam giới, thời gian hóa trị dưới 6 tháng là 64,3%. Tỷ lệ
NB có kiến thức tự chăm sóc tốt là 19,5%. Phân tích hồi quy logistic đơn biến ghi nhận mối liên quan giữa tuổi, công
việc, học vấn, gia đình có người ung thư với kiến thức tự chăm sóc của NB (p <0,05). Phân tích hồi quy logistic đa biến
ghi nhận NB có việc làm có kiến thức tự chăm sóc tốt hơn so với người không có việc làm (OR = 3,61, KTC 95%: 1,17-
7,15, p = 0,025) và NB có người thân trong gia đình từng mắc ung thư có kiến thức tự chăm sóc tốt hơn so với NB chưa
từng có người thân mắc ung thư (OR = 1,51, KTC 95%: 0,06-0,41, p = 0.044).
Kết luận: Kiến thức tự chăm sóc tốt của NB còn rất thấp và các đặc điểm về công việc và gia đình có người mắc ung thư
có liên quan độc lập với kiến thức tự chăm sóc của NB UTĐTT sau phẫu thuật được điều trị bổ trợ bằng hóa trị liệu. Do đó,
điều dưỡng cần chú ý tới các đặc điểm này khi thực hiện các hướng dẫn, can thiệp nâng cao kiến thức tự chăm sóc cho
NB.
Từ khóa: ung thư đại trực tràng; kiến thức tự chăm sóc; hóa trị liệu; yếu tố liên quan

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 1 * 2025
140 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.01.17
Abstract
FACTORS ASSOCIATED WITH SELF-CARE KNOWLEDGE IN PATIENTS
AFTER COLORECTAL CANCER SURGERY RECEIVING ADJUVANT
CHEMOTHERAPY AT CHO RAY HOSPITAL
Cao Manh Hung, Nguyen Thi Duyen Tham, Tran Huu Phuoc
Background: Colorectal cancer is a common disease; after tumor resection surgery, patients typically require adjuvant
chemotherapy, and having adequate self-care knowledge forms the basis for effective self-management of their
condition and the side effects encountered in post-chemotherapy. However, self-care knowledge is influenced by
various factors, making it essential to identify these factors to enable nurses to design and implement appropriate
interventions aimed at improving patients’ self-care knowledge.
Objectives: To determine the proportion of patients with good self-care knowledge and to identify factors associated
with self-care knowledge in patients after colorectal cancer surgery undergoing adjuvant chemotherapy at Cho Ray
hospital.
Methods: A cross-sectional analytical descriptive study was conducted on 154 patients after colorectal cancer surgery
receiving adjuvant chemotherapy at Cho Ray Hospital. These patients were directly interviewed using a pre-structured
questionnaire, meeting sampling criteria and consenting to participate in the study from April 2023 to August 2023.
Results: The patients had a mean age of 57.64±11.41 years, with 64.3% being male, and 64.3% undergoing
chemotherapy for less than 6 months. The proportion of patients with good self-care knowledge was 19.5%. Univariable
logistic regression analysis identified associations between age, occupation, education level, and a family history of
cancer with patients' self-care knowledge (p <0.05). Multivariable logistic regression analysis revealed that patients
who were employed (OR = 3.61, 95% CI: 1.17–7.15, p = 0.025) and patients with a family history of cancer (OR = 1.51,
95% CI: 0.06–0.41, p = 0.044) demonstrated significantly better self-care knowledge compared to their respective
counterparts.
Conclusions: Good self-care knowledge among patients were low, and characteristics such as occupation, and a family
history of cancer were associated with self-care knowledge in colorectal cancer patients after surgery with adjuvant
chemotherapy. Therefore, nurses should consider these factors when providing guidance and implementing
interventions to improve self-care knowledge.
Keywords: colorectal cancer; self-care knowledge; chemotherapy; associated factors
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đại trực tràng (UTĐTT) là bệnh ung thư phổ biến
có tỷ lệ mắc cao thứ 3 và tỷ lệ tử vong cao thứ 4 trên thế giới,
với 1,4 triệu ca mắc mới, 700.000 ca tử vong mỗi năm và là
rào cản lớn đối với việc tăng tuổi thọ ở tất cả các quốc gia trên
thế giới [1]. Tại Việt Nam, UTĐTT có tỷ lệ mắc chuẩn theo
tuổi là 10,1/100.000 dân, đứng hàng thứ sáu trong các bệnh
ung thư của cả hai giới [2]. Với những người bệnh (NB) sau
phẫu thuật UTĐTT điều trị bổ trợ bằng hóa trị cần có sự thay
đổi về phương pháp tự chăm sóc một cách phù hợp vì đây là
một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, cố gắng của NB. Để
cải thiện năng lực tự chăm sóc đòi hỏi NB cần có kiến thức
tự chăm sóc tốt bao gồm những hiểu biết liên quan đến mục
đích của hóa trị liệu, thời gian xuất hiện và kéo dài của các tác
dụng phụ, cách thức đối phó và xử trí khi gặp phải các tác
dụng phụ sau hóa trị liệu để tăng cường sức khỏe, duy trì thể
chất và tâm lý tốt, duy trì sức khỏe và hạnh phúc sau điều trị
hoặc xuất viện. Trong đó, Điều dưỡng giữ một vai trò quan
trọng trong việc theo dõi, chăm sóc khi NB điều trị tại bệnh
viện cũng như cần cung cấp những kiến thức, kỹ năng cần
thiết để NB có thể tự chăm sóc và theo dõi tại nhà sau hóa trị
liệu [3].

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 1 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2021.01.17 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 141
Tuy nhiên, nghiên cứu của El-Kass AS (2021) [4] đã cho
thấy 55,3% NB có kiến thức kém về ung thư, tác dụng phụ
của hóa trị cũng như cách quản lý những tác dụng phụ và mức
độ hiệu quả của việc tự chăm sóc còn hạn chế. Kiến thức tự
chăm sóc của NB cũng ảnh hưởng bởi các yếu tố như tuổi,
giới tính, học vấn, thu nhập, thời gian mắc bệnh [4,5]. Nghiên
cứu của Hu D (2025) đã chỉ ra rằng những NB UTĐTT có
mức thu nhập cao hơn và những NB làm các công việc trí óc
có khả năng tái hòa nhập tốt hơn và tự tin hơn khi quay trở lại
với công việc sau điều trị UTĐTT [6]. Việc hạn chế kiến thức
tự chăm sóc của NB, ngoài có liên quan đến các yếu tố cá
nhân thì công tác tư vấn, giáo dục sức khỏe của nhân viên y
tế nói chung và điều dưỡng nói riêng có ảnh hưởng đáng kế
đến kiến thực tự chăm sóc của NB. Nghiên cứu của Maneerat
S (2024) đã cho thấy việc giáo dục sức khỏe cho NB UTĐTT
đang điều trị hóa trị liệu thông qua video đã giúp cải thiện
đáng kể kiến thức của NB [7], tỷ lệ NB có kiến thức tốt tăng
35,55% so với trước can thiệp (p <0,05). Ngược lại, việc quá
tải công việc, điều dưỡng thiếu quan tâm đến công tác tư vấn,
hướng dẫn cho NB là những yếu tố tác động tiêu cực đến hiểu
biết về bệnh và kiến thức tự chăm sóc của NB [4]. Ngoài ra,
việc can thiệp giáo dục sức khỏe theo cặp gồm NB và người
chăm sóc là vợ/chồng của NB đã giúp cải thiện đáng kể chất
lượng cuộc sống và sức khỏe tinh thần của NB UTĐTT
nhưng việc cải thiện các triệu chứng của NB vẫn đòi hỏi một
chương trình can thiệp dài hạn và đa dạng các hình thức giáo
dục sức khỏe [8].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến vấn đề tự chăm
sóc của NB sau phẫu thuật UTĐTT điều trị bổ trợ bằng hóa
trị còn khá hạn chế. Nghiên cứu năm 2024 của Nguyễn Thị
Kim Phượng cho thấy tỷ lệ NB ung thư đường tiêu hóa khá
cao, điểm kiến thức tự chăm sóc về hóa trị liệu của NB còn
thấp (74 ± 15,9 điểm) và những NB có học vấn cao hơn cho
thấy kiến thức về tự chăm sóc tốt hơn (p <0,05) [9]. Thêm
vào đó, việc điều trị cho NB ung thư nói chung và UTĐTT
nói riêng hiện nay rất được quan tâm với nhiều Bệnh viện và
các trung tâm ung bướu được thành lập nhằm cung cấp các
dịch vụ điều trị và chăm sóc nội – ngoại trú cho NB. Trong
đó, Trung tâm Ung bướu bệnh viện Chợ Rẫy là một trong
những trung tâm điều trị ung thư lớn tại khu vực phía Nam,
đáp ứng nhu cầu cho NB tại Thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh thành lân cận. Công tác tư vấn, giáo dục tự chăm sóc cho
NB UTĐTT điều trị ngoại trú cũng rất được quan tâm với các
hình thức tư vấn trực tiếp từ bác sĩ, điều dưỡng và thông qua
các tài liệu phát tay. Tuy nhiên, các nghiên cứu đánh giá kiến
thức tự chăm sóc của NB UTĐTT sau phẫu thuật được điều
trị bổ trợ bằng hóa trị liệu lại chưa được thực hiện. Do vậy,
nghiên cứu thực hiện nhằm xác định những thiếu hụt về kiến
thức tự chăm sóc và tìm hiểu các yếu tố có liên quan đến kiến
thức tự chăm sóc của NB UTĐTT điều trị ngoại trú tại Trung
tâm Ung bướu bệnh viện Chợ Rẫy để từ đó đưa ra được
những kế hoạch tư vấn, giáo dục sức khỏe tăng cường và can
thiệp chăm sóc phù hợp nhằm nâng cao năng lực tự chăm sóc
cho NB UTĐTT đến khám và điều trị hóa trị liệu tại bệnh viện.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ người bệnh có kiến thức tự chăm sóc tốt và
các yếu tố liên quan đến kiến thức tự chăm sóc của NB sau
phẫu thuật UTĐTT điều trị bổ trợ bằng hóa trị liệu tại bệnh
viện Chợ Rẫy.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
NB sau phẫu thuật UTĐTT được điều trị bổ trợ bằng hóa
trị liệu tại Trung tâm Ung bướu bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng
04/2023 đến tháng 08/2023.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
NB được chẩn đoán UTĐTT đã phẫu thuật loại bỏ khối u,
đang điều trị bổ trợ bằng hóa trị liệu từ đủ 18 tuổi trở lên và đã
trải qua ít nhất 01 lần hóa trị liệu, đang điều trị tại Trung tâm
Ung bướu bệnh viện Chợ Rẫy và đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
NB được chẩn đoán xác định rối loạn nhận thức do các
bệnh lý về thần kinh, sa sút trí tuệ.
NB không nghe hiểu rõ tiếng Việt.
NB có dị tật: câm, điếc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả có phân tích.
2.2.2. Cỡ mẫu
Công thức cỡ mẫu ước lượng một tỷ lệ:

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 1 * 2025
142 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.01.17
n⩾/
²()
²
Trong đó:
n: cỡ mẫu tối thiểu.
𝑍/
² là hệ số tin cậy mức xác suất 95%.
Sai lầm loại 1 (α): 0,05.
d là sai số biên trong nghiên cứu với độ tin cậy 92%
Giá trị p dựa trên nghiên cứu của tác giả El-Kass AS (2021)
về “Nhu cầu và hiệu quả tự chăm sóc cho người bệnh ung thư
bị tác dụng phụ của hóa trị” [4].
Dựa vào tỷ lệ kiến thức đúng về bệnh và hóa trị liệu là
p=0,45 thì cỡ mẫu tính được là:
n = 1,96 ,(,)
,= 149 NB.
Trong thời gian tiếp cận và thu thập số liệu, với phương
pháp chọn mẫu thuận tiện, nghiên cứu đã khảo sát dược tổng
số 154 NB.
2.2.3. Phương pháp thu thập dữ liệu
Nghiên cứu thu thập thông tin dựa vào bộ câu hỏi phỏng
vấn được soạn sẵn gồm 3 phần: Thông tin về đặc điểm cá
nhân 09 câu; thông tin liên quan về bệnh 10 câu; Kiến thức tự
chăm sóc 09 câu. Đối với kiến thức tự chăm sóc là bộ câu hỏi
L-PaKC, được tính điểm dựa theo hướng dẫn trong nghiên
cứu của Nguyễn Thị Thúy Hằng (2023) với mỗi nội dung trả
lời đúng được tính 1 điểm và các câu trả lời chưa đúng được
tính là 0 điểm [5]. Điểm kiến thức được quy về thang 100
điểm. Nếu tổng điểm ≥60 được đánh giá là “tốt” và còn lại
là “chưa tốt”. Để đảm bảo tính giá trị của bộ câu hỏi trong
nghiên cứu, chúng tôi đã gửi Bộ câu hỏi tới 06 chuyên gia
gồm 03 Bác sĩ và 03 Điều dưỡng chuyên khoa ung bướu có
trình độ sau đại học với trên 10 năm kinh nghiệm đánh giá
theo quy trình đánh giá CVI đạt yêu cầu (S-CVI/Ave=0,87)
và thực hiện khảo sát thử trên 30 NB đáp ứng các tiêu chuẩn
về chọn mẫu để tính độ tin cậy Cronbach's alpha với chỉ số
alpha phần kiến thức tự chăm sóc là 0,89. Cuối cùng, nghiên
cứu tiến hành lấy mẫu chính thức và phân tích số liệu theo
mục tiêu.
2.2.4. Biến số nghiên cứu
Biến số độc lập: Đặc điểm cá nhân và thông tin liên quan
đến tình trạng bệnh.
Biến số phụ thuộc: Kiến thức tự chăm sóc của NB là biến
nhị giá (tốt và chưa tốt) đo lường kiến thức tại thời điểm khảo
sát dựa vào các câu hỏi trong thang đo L-PaKC.
2.2.5. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS
26.0. Đối với thống kê mô tả, nghiên cứu sử dụng tần số và
tỷ lệ cho các biến định tính; trung bình và độ lệch chuẩn được
sử dụng để mô tả tuổi trung bình của NB.
Phân tích hồi quy logistic được thực hiện qua hai bước.
Trong bước 1, phân tích hồi quy logistic đơn biến được tiến
hành để đánh giá mối liên hệ giữa từng biến độc lập với biến
phụ thuộc là kiến thức tự chăm sóc của NB (biến nhị phân
gồm 2 giá trị tốt và chưa tốt). Các biến độc lập có giá trị -2
Log Likelihood (-2LL) thấp hơn so với mô hình chỉ bao gồm
hằng số, không có biến độc lập và có giá trị p <0,1 được chọn
để đưa vào phân tích đa biến. Trong bước 2, các biến độc lập
được chọn từ phân tích đơn biến được kiểm tra hiện tượng đa
cộng tuyến, các biến có giá trị VIF>5 được loại bỏ và các biến
còn lại được đưa vào phân tích hồi quy logistic đa biến. Các
kiểm định Omnibus (Omnibus Tests of Model Coefficients,
p <0,05), Nagelkerke R² và kiểm định Hosmer-Lemeshow
(p >0,05) để xác nhận độ phù hợp của các biến độc lập được
đưa vào mô hình phân tích đa biến. Các yếu tố liên quan độc
lập cuối cùng được báo cáo dưới dạng tỷ số chênh lệch điều
chỉnh (adjusted ORs) kèm theo khoảng tin cậy 95% (CIs).
Mức ý nghĩa thống kê được áp dụng là p <0,05.
3. KẾT QUẢ
3.1. Kiến thức tự chăm sóc của người bệnh
NB trong nghiên cứu cho thấy chỉ 19,5% có kiến thức tự
chăm sóc tốt và còn hơn 80% NB có kiến thức tự chăm sóc
chưa tốt (Bảng 1).
Bảng 1. Tỷ lệ người bệnh có kiến thức tự chăm sóc tốt (n=154)
Nội dung Tần
số (n)
Tỷ lệ
(%)
Mục đích điều trị 86 55,4
Thời gian điều trị dự kiến 16 10,4
Lý do xét nghiệm máu trước mỗi đợt điều trị 11 7,1
Thay đổi về lối sống 73 47,4
Các dấu hiệu cần thông báo khẩn cấp đến
nhân viên y tế 69 44,8

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 1 * 2025
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2021.01.17 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 143
Nội dung Tần
số (n)
Tỷ lệ
(%)
Tác dụng không mong muốn xảy ra trong
quá trình điều trị 30 21,4
Thời gian dự kiến xuất hiện tác dụng phụ 17 11,0
Tầm quan trọng của việc tránh thai 64 41,6
Liên hệ với nhân viên y tế 96 62,3
Kiến thức tự chăm sóc tốt 30 19,5
3.2. Các yếu tố liên quan đến kiến thức tự chăm
sóc của người bệnh
Phân tích hồi quy logistic đơn biến và đa biến nhằm đánh giá
các yếu tố liên quan đến kiến thức tự chăm sóc của NB. Trong
phân tích đơn biến, một số yếu tố có mối liên quan đáng kể với
kiến thức tự chăm sóc, bao gồm nhóm tuổi, tình trạng việc làm,
trình độ học vấn, tiền sử gia đình có ung thư (p <0,05). Phân
tích hồi quy logistic đa biến được thực hiện để xác định các yếu
tố liên quan đến kiến thức tự chăm sóc tốt của NB. Sau khi điều
chỉnh các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn, tình trạng việc làm và tiền
sử gia đình có ung thư được phát hiện có liên quan độc lập đến
kiến thức tự chăm sóc tốt (p <0,05). Cụ thể, những NB có việc
làm có kiến thức tự chăm sóc tốt hơn so với những người không
có việc làm (OR = 3,61, KTC 95%: 1,17-7,15, p = 0,025).
Ngoài ra, những NB có người thân trong gia đình từng mắc ung
thư có kiến thức tự chăm sóc tốt hơn so với những NB chưa
từng có người thân mắc ung thư
(OR = 1,51, KTC 95%: 0,06-0,41, p = 0,044) (Bảng 2).
Bảng 2. Các yếu tố liên quan đến kiến thức tự chăm sóc tốt của người bệnh (n=154)
Đặc điểm Kiến thức Hồi quy logistic đơn biến Hồi quy logistic đa biến
Tốt Chưa tốt OR P KTC 95% OR P KTC 95%
Nhóm tuổi
Dưới 50 tuổi 12(35,3) 22(64,7) 1 - - 1 - -
50 đến <60 tuổi 12(23,1) 40(76,9) 0,55 0,220 0,21-1,43 0,91 0,855 0,31-2,63
Từ 60 trở lên 6(8,8) 62(91,2) 0,17 0,002 0,06-0,53 0,39 0,152 0,11-1,42
Giới tính
Nam 18(18,2) 81(81,8) 1 - -
Nữ 12(21,8) 43(78,2) 1,26 0,586 0,55-2,85
Hôn nhân
Độc thân/góa 3(16,7) 15(83,3) 1 - -
Đã kết hôn 27(19,9) 109(80,1) 1,24 0,749 0,33-4,59
Sống chung
Người thân khác 7(18,9) 30(81,1) 1 - -
Vợ/chồng 23(19,7) 94(80,3) 1,05 0,921 0,41-2,69
Nơi sinh sống
Nông thôn 16(15,5) 87(84,5) 1 - - 1 - -
Thành thị 14(27,5) 37(72,5) 2,06 0,08 0,91-4,64 1,45 0,441 0,57-3,71
Thu nhập tháng
Thấp 7(20,6 27(79,4) 1 - -
Trung bình 3(7,3) 3(7,3) 0,31 0,105 0,07-1,29
Trên trung bình 20(25,3) 59(74,7) 1,31 0,589 0,49-3,46
Công việc
Không/ già/ hưu trí 9(9,4) 87(90,6) 1 - - 1 - -
Có việc làm 21(36,2) 37(63,8) 1,70 <0,001 0,08-0,44 3,61 0,025 1,17-7,15
Học vấn
Tiểu học trở xuống 7(15,6) 38(84,4) 1 - - 1 - -
Trung học cơ sở 5(11,1) 40(88,9) 0,68 0,537 0,20-2,32 0,40 0,181 0,10-1,54