LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: “Thực trạng thu - chi quỹ

BHXH tại phòng BHXH huyện Giao

Thuỷ (Nam Định)”

GVHD: PGS.TS Hồ Sĩ Sà

SVTH: Trần Văn Phác

0

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................ 1

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH ......................... 3

I. Sự cần thiết phải có BHXH ................................................................... 3

1 – Sự ra đời của BHXH ............................................................................. 3

2 – Sự cần thiết phải có BHXH ................................................................... 4

II. Vai trò và những nguyên tắc của BHXH ............................................ 5

1 – Vai trò của BHXH ................................................................................ 5

2 – Những nguyên tắc của BHXH ............................................................... 7

III. Quỹ BHXH ....................................................................................... 12

1 – Vai trò của quỹ BHXH ........................................................................ 12

2 – Nguồn quỹ BHXH .............................................................................. 13

3 – Mục đích sử dụng quỹ BHXH ............................................................. 14

CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH THU CHI QUỸ BHXH TẠI PHÒNG BHXH

HUYỆN GIAO THUỶ ............................................................................. 18

I. Vài nét giới thiệu về BHXH huyện Giao Thuỷ .................................. 18

II. Tình hình thu BHXH huyện Giao Thuỷ ........................................... 19

1 – Thu BHXH ......................................................................................... 19

2 – Những nguồn thu BHXH .................................................................... 22

3 – Những nguyên tắc trong thu BHXH .................................................... 23

4 – Tổ chức quản lý thu BHXH ................................................................ 24

III. Tình hình chi BHXH ........................................................................ 30

1 – Những vấn đề chung về chi BHXH ..................................................... 30

2 – Công tác chi BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ ............................... 31

3 – Những nguyên tắc trong chi BHXH .................................................... 33

4 – Quản lý chi BHXH .............................................................................. 34

1

IV. Đánh giá công tác quản lý thu chi quỹ BHXH tại BHXH huyện

Giao Thuỷ ................................................................................................ 40

1 – Thực trạng công tác quản lý thu chi quỹ BHXH .................................. 40

2 – Những kết quả đạt được của BHXH huyện Giao Thuỷ ........................ 41

3 – Những hạn chế trong công tác quản lý thu chi quỹ BHXH .................. 44

CHƯƠNG III. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN

CÔNG TÁC THU CHI QUỸ BHXH Ở BHXH HUYỆN GIAO THUỶ ... 45

I. Đối với cơ quan BHXH nói chung ...................................................... 45

1 – Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH, xây dựng luật

BHXH ...................................................................................................... 45

2 – Có chương trình đào tạo và sử dụng cán bộ ......................................... 46

3 – Mở rộng nguồn thu BHXH ................................................................. 47

4 - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH ......................................... 48

5 – Hoàn thiện việc quản lý thu chi, kết hợp vi tính hoá trong công tác quản

lý thu chi quỹ BHXH ................................................................................ 50

II. Đối với BHXH huyện Giao Thuỷ ...................................................... 52

1 – Về công tác thu ................................................................................... 52

2 – Về công tác chi ................................................................................... 54

KẾT LUẬN .............................................................................................. 57

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 57

2

LỜI NÓI ĐẦU

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra

đời sớm ở nước ta. Đây là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, nó ít mang tính

chất kinh doanh thương mại mà chủ yếu là tính nhân dạo và nhân văn cao

cả.

Kể từ khi ra đời đến nay, nó đã góp phần làm ổn định đời sống cho cán

bộ công nhân viên chức Nhà nước, quân nhân, những người lao động làm

việc trong các thành phần kinh tế của đất nước; ổn định chính trị – xã hội,

thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc.

Hiện nay, được sự quan tâm của Nhà nước mà chính sách BHXH ngày

càng được thực hiện tốt và hiệu quả hơn với các đối tượng tham gia nói

trên. Để việc thực hiện BHXH tồn tại và phát huy được tác dụng của nó

cần phải có một quỹ BHXH và quỹ đó phải hoạt động đúng mục đích tức là

cơ quan BHXH phải thực hiện tốt công tác thu – chi quỹ BHXH.

Qua thời gian thực tập tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ em thấy

BHXH huyện Giao Thuỷ đã đạt được những kết quả thiết thực về hoạt

động thu – chi quỹ BHXH như: Chi đúng người, đúng đối tượng, kịp thời;

thu quỹ BHXH ngày càng tăng v.v…Tuy nhiên bên cạnh dó vẫn còn một

số tồn tại nhất định như: Thu BHXH chưa dứt điểm, số nợ đọng vẫn còn,

một vài cơ sở còn trốn nộp BHXH làm cho hoạt động quỹ BHXH tại phòng

BHXH huyện Giao Thuỷ chưa đạt được kết quả cao, tăng gánh nặng cho

ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý

thu – chi quỹ BHXH như vậy, em đã chọn đề tài : “Thực trạng thu - chi

quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định)” với mong

3

muốn được góp phần nhỏ bé của mình nhằm hoàn thiện công tác quản lý

thu – chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ nói riêng và trong

hệ thống BHXH Việt Nam nói chung.

Trong quá trình hoàn thành chuyên đề, do thời gian và nhận thức còn

nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được

sự chỉ bảo của các thầy cô giáo. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn tới thầy

giáo PGS.TS Hồ Sĩ Sà đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.

Hà Nội ngày 15 tháng 4 năm 2004

Sinh viên: Trần Văn Phác

4

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ BHXH VÀ QUỸ BHXH

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ BHXH

1 – Sự ra đời của BHXH

Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì vấn đề thuê mướn nhân

công diễn ra càng phổ biến, mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngày càng gia tăng.

Đặc biệt khi người lao động không may gặp rủi ro, sự cố như: ốm đau,

bệnh tật, tai nạn lao động, mất việc làm…phải nghỉ việc. Khi rơi vào

những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết không những không mất đi

mà còn tăng lên, thậm chí còn phát sinh ra nhiều nhu cầu mới như: cần

được khám chữa bệnh, điều trị khi ốm đau; cần người nuôi dưỡng, chăm

sóc khi gặp tai nạn, thương tật… Tổng thời gian nghỉ việc người chủ

không trả lương, làm cho người lao động càng gặp nhiều khó khăn hơn và

không yên tâm làm việc. Vì vậy, lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công

lao động nhưng sau đó đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người lao

động có một số thu nhập nhất định để họ trang trải khi không may gặp

những khó khăn đó.

Trong thực tế, nhiều khi các rủi ro trên không xẩy ra và người chủ

không phải chi ra đồng nào nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ

phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn mà họ không muốn. Do đó mâu thuẫn

chủ thợ càng trở nên vô cùng gay gắt. Khi những mâu thuẫn này kéo dài

Nhà nước phải đứng ra can thiệp bằng cách: buộc giới chủ phải có trách

nhiệm hơn đối với người lao động mà mình sử dụng, thể hiện ở việc phải

trích ra một phần thu nhập của mình để hình thành quỹ. Sau đó dùng

nguồn quỹ này để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ, khi người lao

động không may gặp những rủi ro và sự cố bất ngờ. Đồng thời Nhà nước

5

đứng ra bảo trợ cho quỹ. Bằng cách đó cả chủ và thợ đều thấy mình có lợi

và tự giác thực hiện, cuộc sống của người lao động được đảm bảo.Người

chủ được bảo vệ việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được

những xáo trộn không cần thiết.

Mối quan hệ ba bên nêu trên được thế giới quan niệm là BHXH cho

người lao động. Như vậy BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao

động, bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ

sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động (nếu có), sự tài

trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia

đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro ốm

đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo

quy định của pháp luật hoặc tử vong…

2 - Sự cần thiết phải có hệ thống BHXH

Trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động sản xuất hàng ngày,

mặc dù không muốn nhưng người lao động không thể tránh khỏi hết những

rủi ro bất ngờ xảy ra như: ốm đau; bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp…Tất cả những nguyên nhân đó xảy ra đều ít nhiều làm ảnh hưởng

đến đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân cũng như gia đình; người

thân của họ.

Muốn khắc phục được khó khăn do các rủi ro nêu trên gây ra, người

lao động cần phải được sự bảo trợ của tập thể số đông. Đặc biệt để người

lao động yên tâm tham gia sản xuất tạo điều kiện phát triển kinh tế đất

nước thì nhà nước cần phải can thiệp vào nhằm làm giảm bớt những khó

khăn cho người lao động trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, tai nạn

lao động – bệnh nghề nghiệp, chết, mất việc làm khi về già…Từ đó BHXH

6

được ra đời như một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội

đều cảm thấy cần phải tham gia hệ thống BHXH này.

II . VAI TRÒ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA BHXH

1 – Vai trò của BHXH

1.1) Đối với người lao động

Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá

trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá thì những "rủi ro" như ốm đau, tai nạn

lao động- bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm…lại diễn ra một cách

thường xuyên và ngày càng phổ biến hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro

này xảy ra sẽ gây khó khăn cho người lao động vế cả vật chất lẫn tinh thần,

ảnh hưởng không tốt cho cả cộng đồng.

Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà

nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp

phải rủi ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế,

những điều kiện lao động thuận lợi…giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm

công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó góp phần quan trọng

vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho xí

nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nó chung.

1.2) Đối với người sử dụng lao động

Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát

triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình

lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội.

Những người biết vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, đó chính

là những người chủ sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh

doanh được đảm bảo thì người chủ phải tạo được mối quan hệ tốt với

người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của

mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có

7

niềm tin vào cuộc sống từ đó họ lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra

nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuát kinh doanh của người

chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao. Muốn vậy người chủ sử

dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những người lao động của

mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người

lao động khi họ gặp những rủi ro bất chắc. Việc tham gia đóng góp BHXH

cho người lao động của người chủ sử dụng lao động là góp vào quá trình

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn,

nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp cũng như

nâng cao thu nhập cho người lao động và góp vào việc phát triển nền kinh

tế của đất nước.

1.3) Đối với xã hội

Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt

động dịch vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những

dịch vụ “ bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất cứ ai

cũng cần đến (không phải chỉ cán bộ, công nhân viên chức mới cần). Nếu

các doanh nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại bảo hiểm (đáp ứng đa

dạng các nhu cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được

tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội.

Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của

Nhà nước, BHXH sẽ “ bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ

giải quyết những “ trục trặc”, “ rủi ro” xảy ra đối với những người lao

động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả

năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến

việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực của

mình vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp của

người lao động khi gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì

8

BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự

tiêu dùng cho xã hội.

Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh

mẽ tới hệ thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ

ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo

tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình

thức đầu tư phát triển phần “ nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động

không nhỏ tới sự phát triển đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất

kinh doanh mới, việc làm mới góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc

làm cho người lao đông. Từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp

của đất nước, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng

và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tổng sản phẩm quốc dân nói

chung.

Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công

cụ phân phối lại thu nhập giữa những nguời tham gia BHXH. Sự phân phối

lại thu nhập này được tiến hành thông qua hai cách: Phân phối lại theo

chiều ngang giữa người khoẻ và người già, người đang làm việc với người

đã nghỉ hưu, người trẻ tuổi với người lớn tuổi, giữa nam với nữ, người

đang hưởng trợ cấp với người chưa hưởng trợ cấp; phân phối lại theo

chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa

những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không bao

hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho

người nghèo một cách võ đoán. Ý tưởng của BHXH nhiễu điều phủ lấy giá

gương, là đoàn kết tương trợ, phát huy tính tự thân, sống hoà nhập có tình

có nghĩa giữa các nhóm, các giới bạn trong cùng cộng đồng với nhau mà

vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh.

9

2 – Những nguyên tắc của BHXH

2.1) Mọi ngưòi lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả

năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền được BHXH .

Quyền đựơc BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện

cụ thể của quyền con người. Nhưng khi muốn xây dựng hệ thống BHXH

thì đầu tiên Nhà nước phải tạo điều kiện và môi trường kinh tế xã hội, về

chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời,

những người sử dụng lao động và người lao động phải thực hiện trách

nhiệm đóng góp tài chính của mình. Không phải là cái có sẵn nên trước hết

phải tìm cách tạo ra nó. Ở mỗi nước không có sự đóng góp này thì chính

sách BHXH có hay đến mấy cũng không bao giờ có BHXH trong thực tiễn.

Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ

bản nhất để người lao động được hưởng quyền BHXH.

2.2) Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH

đối với người lao động, người lao động cũng phải tự bảo hiểm cho mình.

Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó Nhà

nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả

nước. Với vai trò này Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của

toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai trò

của mình. Cùng với sự tăng trưởng sự phát triển kinh tế xã hội, cũng có

những kết quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực

tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho người lao động. Khi xảy ra

tình trạng như vậy nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi Ngân

sách để giúp đỡ người lao động dưới một dạng khác. Sự giúp đỡ đó chẳng

những làm cho đời sống người lao động ổn định mà còn làm cho sản xuất

kinh tế xã hội của đất nước ổn định. Vì vậy, khi trong xã hội loài người

xuất hiện BHXH – một dạng đảm bảo đời sống tiến bộ hơn đối với người

10

lao động- so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nước càng có điều

kiện và càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng hoạt động đó.

Đối với người sử dụng lao động, mọi khía cạnh đặt ra cũng tương tự

như trên nhưng chỉ trong phạm vi một số doanh nghiệp. Ở đó giữa người

lao động và người sử dụng lao động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Người sử

dụng lao động muốn ổn định và sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo

đầu tư để có máy móc thiết bị hịên đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm

lo tay nghề và đời sống của người lao động mà mình sử dụng. Khi người

lao động làm việc bình thường thì phải trả lương (trả công) thoả đáng cho

người lao động. Khi họ gặp rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp.. trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động, với

những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm

BHXH cho họ. Chỉ có như vậy người lao động mới yên tâm tích cực lao

động sản xuất góp phần tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế cho

doanh nghiệp.

Đối với người lao động khi gặp những rủi ro không muốn và không

phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro

của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác

hỗ trợ cho mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự

mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết đã...Điều đó có nghĩa là bản thân

người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho

mình.

2.3) BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình

thành lên quỹ BHXH

Ở nguyên tắc trên đã thấy rõ tính khách quan của trách nhiệm phải

tham gia BHXH đối với người lao động của cả ba bên (Nhà nước, người sử

dụng lao động và người lao động) trong nền kinh tế thị trường. Biểu hiện

11

cụ thể của trách nhiệm này là đóng phí BHXH đầu kỳ. Nhờ sự đóng góp đó

mà phương thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo

điều kiện để phân phối thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới

được thực hiện. Hơn nữa nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ

giữa trách nhiệm với quyền lợi góp phần phòng chống những hiện tượng

nhiễu trong hệ thống hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho mọi người có

liên quan này.

2.4) Phải tuân theo quy luật số lớn

BHXH là một trong các nguyên tắc, các cơ chế an toàn xã hội, trước

hết là sự trợ giúp cho người lao động trong các trường hợp bị giảm hoặc bị

mất thu nhập tạm thời khi họ bị ốm đau, thai sản… hoặc hết tuổi lao động

theo quy định của pháp luật. Trong cả cuộc đời của người lao động thường

thì thời gian lao động dài hơn thời gian người lao động bị tạm thời mất khả

năng lao động hoặc thời gian từ khi hết tuổi lao động đến lúc chết. Vả lại

tất cả những người tham gia BHXH cùng một lúc có nhu cầu bảo hiểm, vì

vậy nguyên tắc trước hết của BHXH là lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời

lao động có thu nhập để bảo hiểm cho khi giảm hoặc mất khả năng lao

động.

2.5) Kết hợp giữa các loại lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng

nhu cầu BHXH

Trong BHXH cả ba bên tham gia: Người sử dụng lao động, người lao

động và Nhà nước đều nhận được nhiều lợi ích. Nhưng lợi ích nhận được

không phải luôn luôn như nhau, thống nhất với nhau mà trái lại có lợi ích

có lúc lại mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn việc tăng mức trợ cấp hoặc tăng

thời hạn nghỉ làm việc và hưởng trợ cấp BHXH sẽ rất có lợi cho người lao

động nhưng lại gây khó khăn cho người chủ sử dụng lao động, nếu giảm

12

hậu quả bất lợi cho người sử dụng lao động thì Nhà nước lại phải gánh

chịu.

2.6) Mức trợ cấp BHXH phải đảm bảo thấp hơn tiền lương khi đang đi

làm, nhưng cũng phải lớn hơn mức lương tối thiểu

Trợ cấp BHXH nói ở đây là loại trợ cấp thay thế cho tiền lương như

trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí tuổi già chứ không phải là trợ cấp bù đắp

hoặc trợ cấp BHXH. Như đã biết, tiền lương là khoản tiền mà người sử

dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện công việc nhất định.

Nghĩa là, chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình

thường và thực hiện công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm

đau, tai nạn hay tuổi già không thực hiện được công việc nhất định hoặc

không việc làm mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH

và trợ cấp đó không thể bằng tiền lương tạo ra được. Còn nếu cố tìm cách

trả trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao

động nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lương mà

ngược lại họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản để hưởng trợ cấp. Hơn nữa cách

lập quỹ, phương thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép trả

trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền

lương thì chẳng khác gì bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải hết cho

những người khác.

Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang

đi làm. Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức

trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày.

Chỉ khi đó BHXH mới có tính nhân văn cao cả.

2.7) Kết hợp giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện

Bảo hiểm xã hội áp dụng hình thức bắt buộc để đảm bảo quy luật số

lớn và số có hệ số an toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao

13

động. Tuy nhiên, có những trường hợp, người lao động muốn hưởng trợ

cấp hưu trí ở mức cao hơn mức được hưởng dưới hình thức bắt buộc, hoặc

khi cân nhắc thấy họ đóng thêm vào BHXH cũng là một hình thức gửi tiền

tiết kiệm, và có khi còn lợi hơn gửi vào ngân hàng, thì họ sẽ có nhu cầu

đóng phí BHXH nhiều hơn mức quy định. Chính vì vậy, khi đáp ứng nhu

cầu đó cũng thực hiện được đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho người lao

động đồng thời quy luật số lớn vẫn được tôn trọng.

2.8) Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng

thời phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành

Hệ thống BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ phận cấu thành.

Trong đó bộ phận lớn nhất do Nhà nước tổ chức và bảo hộ đặc biệt bao

trùm toàn bộ những người hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước và những

người lao động thuộc những khu vực kinh tế quan trọng của đất nước. Các

bộ phận nhỏ hơn do các đơn vị kinh tế và tư nhân tổ chức ra để bảo hiểm

cho một số đối tượng hạn chế do pháp luật quy định. Trong bộ phận do

Nhà nước tổ chức còn có thể có một số bộ phận BHXH chuyên ngành như:

BHXH đối với công chức, BHXH đối với quân nhân hưởng lương và một

số bộ phận BHXH theo ngành kinh tế có tính chất đặc thù (đường sắt, khai

thác mỏ...). Các bộ phận BHXH đựơc tổ chức như thế nào, nhiều hay ít là

do đi ều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và do Nhà nước quy định. Ở nước ta

do những diều kiện kinh tế xã hội chưa cho phép các tổ chức và cá nhân

thực hiện BHXH mà chỉ có BHXH của Nhà nước.

Để BHXH hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải bảo đảm tính thống

nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh tuỳ tiện, tính cục bộ

hoặc những mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để mỗi bộ

phận cấu thành có thể năng động trong hoạt động để chúng có thể bù đắp,

bổ xung những ưu điểm cho nhau.

14

2.9) BHXH phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều

kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể

BHXH của một nước gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, với các điều

kiện kinh tế xã hội, với cơ chế và trình độ quản lý đặc biệt là với sự điều

chỉnh, sự đồng bộ của nền pháp chế của nước đó. Trong tình hình nước ta,

kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đang hình thành, nhiều mặt kinh

tế xã hội đang chuyển động mạnh. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển

BHXH phải bảo đảm chắc chắn, tính toán thận trọng và có bước đi phù

hợp.

III. QUỸ BHXH

1 – Vai trò của quỹ BHXH

Trong đời sống kinh tế xã hội, có rất nhiều loại quỹ khác nhau như:

quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền

thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm...Tất cả các loại quỹ này đều có một

điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính cho những hoạt động nào

đó theo mục tiêu định trước. Quỹ lớn hay quỹ nhỏ biểu thị khả năng về mặt

phương tiện và vật chất để thực hiện công việc cần làm.

Tất cả các quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một

thời điểm mà luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm

đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Để đảm bảo cho

đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và

điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm được khối lượng

của nó tại một thời điểm nhất định, mà quan trọng hơn là phải nắm được

lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định.

Theo những quan niệm về quỹ nói chung như trên, thì quỹ BHXH là

tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình

15

thành một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước

để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc

mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.

Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự

phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều

kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH

tồn tại và phát triển.

Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết

những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp

cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời

gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao

động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình.

2 – Nguồn quỹ BHXH

Quỹ BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những người

tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những

người được hưởng BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu

nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.

Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự

phòng; nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều

kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống

BHXH tồn tại và phát triển.

Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những

rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho

việc giàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời

gian, đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao

động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách nhà nướcvà ngân sách gia đình.

16

Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:

- Thứ nhất, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao

động và Nhà nước, đây là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ.

- Thứ hai, là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được

tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời.

- Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm

luật lệ về BHXH. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được

hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức

đóng góp của các bên tham gia có khác nhau.

2 - Mục đích sử dụng quỹ BHXH

Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây: - Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH - Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH

Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH

được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định

cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp

rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong

công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:

1. Chăm sóc y tế 2. Trợ cấp ốm đau 3. Trợ cấp thất nghiệp 4. Trợ cấp tuổi già 5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 6. Trợ cấp gia đình 7. Trợ cấp sinh đẻ 8. Trợ cấp khi tàn phế

17

9. Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)

9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện

kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến

nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ.

Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi

chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế

xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương .v.v…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi

xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của

quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong…

Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến

một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như

từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp

BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của

người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi

giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, co

những nước quy định: Nam 60 tuổi và Nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng

cũng có những nước quy định: Nam 65 tuổi và Nữ 60 tuổi.v.v…Hoặc khi

xác định điều kiện hưởng trợ cấp cho chê độ tai nạn lao động và bệnh nghề

nghiệp phải tính đến các yếu tố như: Điều kiện và môi trường lao động;

bảo hộ lao động v.v…Các yếu tố này thường có quan hệ và tác động qua

lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ và

toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.

Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ

thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người

lao động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp

còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính

BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao động.

18

Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc

tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần

trăm nhất định so với mức tiền lương hay tiền công. Ở các nước kinh tế

phát triển do mức lương cao nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở

những nước đang phát triển do mức tiền lêong còn thấp nên phải áp dụng

một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở pháp mức trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50% mức

lương cao nhất ( với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm ), ốm đau được

hưởng trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm được hưởng trợ cấp

không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp BHXH bằng 90% tiền

lương trong vòng 16 tuần v.v…Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ 42%

đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm lương khác nhau, ốm đau được hưởng

65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được trợ cấp bằng 100% tiền lương

v.v…

Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm

so với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy,

một số nước đã phải tìm cách khắc phục như: trả ngay 1 lần khi nghỉ hưu,

hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và

hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.

Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn

được sử dụng cho chi phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm

việc trong hệ thông BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và

một số khoản chi khác… Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi.

Mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ.

Quá trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi

nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế- xã hội.

19

CHƯƠNG II

TÌNH HÌNH THU CHI QUỸ BHXH TẠI PHÒNG BHXH HUYỆN GIAO THUỶ

I . VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ BHXH HUYỆN GIAO THUỶ

Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 9

năm 1995 cùng với sự chia cắt hành chính của huyện Xuân Thuỷ thành huyện Xuân

Trường và huyện Giao Thuỷ. Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ chủ yếu thực hiện việc

thu – chi thuần tuý mà không kinh doanh loại hình bảo hiểm nào.

20

Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ có tất cả 7 cán bộ viên chức, trong đó ông

Nguyễn Công Hoan là Giám Đốc, bà Chu Thị Vân Ánh là Kế toán kiêm bộ phận chi,

bà Đặng Thị Dung phụ trách bộ phận hành chính, bà Phạm Thị Vóc và ông Nguyễn

Thành Lý phụ trách bộ phận thu, ông Trần Hải Triều phụ trách bộ phận chính sách,

ông Trần Mạnh Hùng phụ trách bộ phận y tế tự nguyện.

BHXH huyện Giao Thuỷ chịu sự quản lý trực tiếp của BHXH tỉnh Nam Định, có

con dấu và tài khoản riêng.

BHXH Việt Nam

BHXH Nam Định

BHXH Giao Thuỷ

Sơ đồ vị trí của BHXH huyện Giao Thuỷ:

BHXH huyện Giao Thuỷ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ BHXH

tỉnh Nam Định giao cho gồm:

- Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH

tỉnh Nam Định phê duyệt và tổ chức thực hiện;

- Theo dõi, đốc thu BHXH 20% so với tổng quỹ lương (hiện nay là 23%

do y tế nhập vào 3%) trong đó thu 15% của chủ sử dụng lao động (hiện nay

là 17%) và 5% của người lao động (hiện nay là 6%);

- Chi trả các chế độ nghỉ ốm, thai sản cho đối tượng tham gia đóng góp

BHXH;

21

- Tổ chức việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH, cả việc chi pháp lệnh

người có công;

- Theo dõi tăng, giảm hàng tháng để lập danh sách chi trả lương hưu và trợ

cấp theo quy định;

- Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ, chính sách BHXH để giải

quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với BHXH tỉnh xem xét giải quyết;

- Tiếp nhận, báo cáo kịp thời với BHXH tỉnh Nam Định các trường hợp

hưởng lạc trợ cấp BHXH, điều chỉnh lương hưu.

- Đối chiếu tờ khai với hồ sơ gốc để triển khai cấp sổ BHXH.

Hiện nay BHXH huyện Giao Thuỷ do có sự sáp nhập của BHYT nên

có một số nhiệm vụ và quyền hạn của BHYT như: cấp thẻ BHXH, tuyên

truyền, vận động, điều hành…

II. TÌNH HÌNH THU BHXH HUYỆN GIAO THUỶ

1 - Thu BHXH

1.1) Những vấn đề chung về thu quỹ BHXH

Thu quỹ BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH cùng với sự phối

hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở các quy định của pháp luật

nhằm tạo ra các nguồn tài chính tập trung (quỹ BHXH tập trung), từ việc

đóng góp của các bên tham gia BHXH và những nguồn tài chính bổ xung

khác.

Thu quỹ BHXH là một hoạt động không thể thiếu trong hoạt động

BHXH nói chung, nó đảm bảo cho sự tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ

tập trung và tạo ra nguồn tài chính để có thể tiến hành các hoạt động

BHXH. Do đó mà việc đóng góp vào BHXH của các bên tham gia BHXH

là sự tất yếu trong hoạt động BHXH, vì những lý do sau:

22

- Việc đóng góp quỹ BHXH đánh dấu sự đóng góp của những người

tham gia BHXH, là cơ sở để đo sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. - Tạo ra được nguồn tài chính tập trung từ đó có thể tiến hành thống

nhất các hoạt động BHXH.

- Nguồn thu của BHXH được hình thành từ ba nguồn chủ yếu: đóng

góp của người lao động, người sử dụng lao động và phần hỗ trợ từ Ngân

sách Nhà nước; nguồn thu này phản ánh rõ nét quan hệ ba bên trong

BHXH, là cơ sở để tạo ra các quan hệ khác trong BHXH.

- Thực chất, quan hệ ba bên trong BHXH là mối quan hệ về lợi ích do

sự đóng góp vào BHXH của các bên tham gia là mối quan hệ về lợi ích, từ

việc tham gia đóng góp BHXH các bên tham gia BHXH đều tìm kiếm

được lợi ích cho mình, người sử dụng lao động tìm kiếm lợi ích từ việc họ

sẽ bỏ ra ít chi phí hơn khi người lao động không may gặp phải những rủi

ro, người lao động được tìm kiếm lợi ích từ việc họ được hưởng các quyền

lợi khi họ không may gặp phải những rủi ro, Nhà nước đạt được mục tiêu

ổn định được xã hội, ổn định được mối quan hệ lợi ích giữa người lao động

và người sử dụng lao động trong xã hội để người lao động yên tâm tham

gia sản xuất thúc đẩy nền kinh tế-xã hội phát triển.

Từ đó có thể nói rằng, thu BHXH là một phần quan trọng không thể

thiếu được của hoạt động BHXH.

1.2) Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ

Giao Thuỷ là một huyện có địa hình rất phức tạp: một mặt giáp với

biển, một mặt lại giáp với Sông Hồng nên ở đây tồn tại nhiều ngành nghề

khác nhau như: làm nông nghiệp (phần lớn), khu vực giáp với biển thì nhân

dân lại đánh bắt và nuôi thuỷ sản xuất khẩu (nhưng chưa có đủ quy mô lớn

để trở thành công ty hay doanh nghiệp, mà hầu hết là tư nhân tự đứng ra

23

làm lấy với số lao động là con em trong gia đình họ) hoặc kinh doanh du

lịch; bãi tắm (Quất Lâm), làm muối…

Trên địa bàn huyện Giao Thuỷ hiện nay chưa có khu công nghiệp nào

mà chỉ có một vài xí nghiệp; công ty có quy mô đủ lớn (đi thuê lao động)

ngoài các doanh nghiệp nhà nước có trên địa bàn, đó là: Xí nghiệp muối

Bạch Long, Công ty cổ phần xây dựng đường biển Hồng Hà, Công ty cổ

phần xây dựng đường biển Trường Giang. Các xí nghiệp hay công ty này

nằm rải rác trong huyện Giao Thuỷ mà không tập trung một chỗ.

Công tác thu BHXH ở BHXH huyện Giao Thuỷ ít nhiều gặp phải khó

khăn do địa hình phức tạp và mức độ tập trung của các nhà máy; xí nghiệp

này. Hơn thế nữa trụ sở của BHXH huyện Giao Thuỷ lại đặt ở đầu huyện,

nên bước đầu công tác thu BHXH còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là đội

ngũ cán bộ chuyên môn còn quá ít hoặc nếu có thì trình độ chưa thực sự

tốt. Tuy vậy BHXH huyện Giao Thuỷ vẫn cố gắng hoàn thành các chỉ tiêu

về thu BHXH mà BHXH tỉnh Nam Định giao phó. BHXH huyện Giao

Thuỷ đã tiến hành lập danh sách chi tiết từng đơn vị; cơ quan tham gia

BHXH, từng cá nhân. Bên cạnh đó BHXH huyện Giao Thuỷ còn lập bảng

lương chi tiết của từng cá nhân, quỹ lương của từng công ty hay xí nghiệp

để làm căn cứ thu quỹ BHXH. Tại mỗi xã trong huyện, BHXH huyện Giao

Thuỷ đặt một ban có trách nhiệm thu – chi và báo cáo các trường hợp có sự

thay đổi mức đóng góp hay mức hưởng BHXH. Gần đến mỗi kỳ báo cáo;

tổng kết, BHXH huyện Giao Thuỷ đã cử cán bộ đến các cơ sở còn nợ đong

tiền BHXH hoặc dùng các biện pháp thông tin khác như: gọi điện thoại,

nhắn tin qua đài truyền thanh huyện Giao Thuỷ để đôn đốc, thu kịp thời,

tránh tình trạng nợ đọng lâu dài.

Vì vậy BHXH huyện Giao Thuỷ đã đạt được các chỉ tiêu về thu

BHXH, mức thu tăng nhanh rõ rệt, như năm 1995 chỉ có 633.124.098

24

đồng, thì đến năm 1996 con số đó là 1.251.624.005 đồng (tăng gần gấp

đôi), tinhd đến năm 2003 BHXH huyện Giao Thuỷ đã thu được

6.282.523.923 đồng.

2 - Những nguồn thu BHXH

Thông thường, quỹ BHXH được hình thành từ nguồn sau:

- Thu từ đóng góp của những người tham gia BHXH là nguồn thu chủ

yếu, quan trọng nhất cho bất cứ quỹ BHXH của bất kỳ quốc gia nào, nó là

cơ sở chủ yếu để hình thành nên quỹ BHXH và tạo ra nguồn tài chính để

thực hiện những chế độ BHXH; nhưng trong quá trình quản lý sự đóng góp

của người tham gia BHXH cũng phức tạp và khó khăn nhất. Nguồn thu này

có tầm quan trọng đặc biệt, nó là nền tảng để có thể thực hiện được chính

sách BHXH. Thông thường, nguồn thu này được hình thành như sau:

+ Người lao động tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH trên cơ sở

tiền lương; tuỳ theo điều kiện của mỗi quốc gia mà phần đóng góp của

người lao động có khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở là tiền lương của

người lao động làm căn cứ để tính toán số tiền người lao động phải đóng

góp vào quỹ BHXH. Theo Điều lệ BHXH hiện hành quy định người lao

động phải đóng góp bằng 6% tiền lương tháng( trước đây là 5%).

+ Người sử dụng lao động tham gia đóng góp BHXH cho người lao

động trong đơn vị mình; thông thường phần đóng góp của người sử dụng

lao động dựa trên tổng quỹ lương. Theo Điều lệ BHXH hiện hành quy định

người sử dụng lao động phải đóng góp bằng 17% (trước đây là 15%) tổng

quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị.

- Thu từ việc hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước chủ yếu là để đảm bảo

cho các hoạt động BHXH diễn ra được đều đặn, bình thường, tránh những

xáo trộn lớn trong việc thực hiện BHXH. Nguồn thu từ việc hỗ trợ của

25

Ngân sách Nhà nước cho quỹ BHXH đôi khi là khá lớn, việc hỗ trợ cho

hoạt động BHXH của Nhà nước là hoạt động thường xuyên và liên tục để

đảm bảo thực hiện tốt các chế độ chính sách nói riêng và hoạt động BHXH

nói chung.

- Thu từ lãi đầu tư của hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ

được hình thành từ công việc đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi vào các chương

trình kinh tế – xã hội, những hoạt động đầu tư khác đem lại hiệu quả. Từ

nguồn quỹ nhàn rỗi được đem đầu tư, quỹ BHXH thu được phần lãi đầu tư

để bổ xung vào nguồn quỹ BHXH.

- Ngoài những nguồn thu trên thì quỹ BHXH còn có một số nguồn thu

khác để bổ xung vào quỹ BHXH; nói chung, những nguồn thu này không

lớn, không ổn định. Chủ yếu là những nguồn thu từ việc nhận sự hỗ trợ của

các tổ chức nước ngoài, từ những hoạt động từ thiện, từ hoạt động thanh lý

nhượng bán tài sản cố định. Nguồn thu này thường chiếm một tỷ trọng rất

nhỏ trong tổng số thu của quỹ BHXH.

3 - Những nguyên tắc trong thu BHXH

Căn cứ pháp luật và các văn bản dưới luật thì thu BHXH phải đảm

bảo theo nguyên tắc là phải đảm bảo đúng đối tượng và đúng mức thu,

đồng thời phải đảm bảo tính công bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH.

Muốn thu đúng và thu đủ thì cần phải quán triệt những vấn đề sau đây:

- Các cơ quan, các doanh nghiệp đóng BHXH thì phần đóng góp phải

dựa trên quỹ lương, quỹ lương này bao gồm toàn bộ là lương cứng và các

khoản phụ cấp vào lương, đồng thời quỹ lương này phải chi trả cho tất cả

các đối tượng tham gia đóng góp BHXH.

- Đối với người lao động cơ chế thu là 6% cũng bao gồm cả lương cứng

và các khoản phụ cấp ngoài lương khác.

26

- Quyết toán thu BHXH thường vào cuối năm nhưng trong năm đó số

người tham gia và số đơn vị tham gia BHXH luôn biến động, vì vậy khi

quyết toán phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không tính vào

mức bình quân.

- Thu BHXH phải mang tính trực tiếp, hạn chế tối đa hiện tượng khoán

thu để được hưởng hoa hồng.

- Về nguyên tắc cơ quan BHXH phải quyết toán từng tháng, từng quý,

từng năm nhưng đến cuối năm quyết toán, tất cả các số thu phải ăn khớp

với nhau và phải thực sự cân đối: giữa người lao động, người sử dụng lao

động, loại hình doanh nghiệp, loại hình thu.

Ngoài việc thu đúng của người lao động và người sử dụng lao động,

BHXH phải lập kế hoạch và lập dự toán trước phần ngân sách Nhà nước

cấp bù vào đầu tháng, đầu quý, đầu năm sau đó mới được quyết toán.

Lãi đầu tư quỹ nhàn rỗi BHXH, về nguyên tắc phải được bù đắp vào

quỹ để bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ, phần trích ra chi cho các mục

đích khác như chi cho khen thưởng, chi quản lý và những khoản chi khác

phải tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật. Các khoản tài trợ

của các tổ chức, các quỹ từ thiện, đặc biệt là các khoản nợ của người tham

gia phải được hạch toán riêng, các khoản nợ đòi được phải tính tới lãi suất.

4 - Tổ chức quản lý thu BHXH

4.1) Quản lý đối tượng tham gia BHXH

Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một phần quan trọng trong công

tác thu của BHXH, đặc biệt là nguồn thu từ người lao động và người sử

dụng lao động (kể cả những người đang được cử đi học, đi thực tập, công

tác và điều dưỡng ở trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc

27

tiền công của cơ quan đơn vị đó) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ

chức kinh tế – xã hội theo quy định tại Điều lệ BHXH Việt Nam, bao gồm:

- Các doanh nghiệp nhà nước;

- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt

văn phòng đại diện ở Việt Nam (trừ những trường hợp tuân theo những

điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết

hoặc tham gia có những quy định khác);

- Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử

dụng từ 10 lao dộng trở lên (hiện nay BHXH đã áp dụng với các doanh

nghiệp có dưới 10 lao động);

- Các cơ quan hành chính sự nghiệp, các cơ quan của Đảng, đoàn thể từ

trung ương đến địa phương (chỉ tới cấp huyện);

- Các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp,

cơ quan Đảng, đoàn thể;

- Các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ trong lực lượng vũ trang; Bộ

Quốc phòng, Bộ Công an đóng cho nhân dân, Công an nhân dân thuộc diện

hưởng sinh hoạt phí theo điều lệ BHXH đối với sỹ quan, công an nhân dân

ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ban hành ngày 15/07/1995 của Thủ

tướng Chính phủ;

- Cán bộ xã, phường, thị trấn được hưởng sinh hoạt phí tại Nghị định

số 09/ 1998/ NĐ-CP ban hành ngày 23/ 01/ 1998 của Thủ tướng Chính

phủ;

- Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi

làm việc có thời hạn ở nước ngoài đóng cho người lao động theo Nghị định

số 152/ 1999/ NĐ-CP ban hành ngày 20/ 09/1999 của Thủ tướng chính

phủ.

28

Từ những đối tượng phải thu BHXH như trên, để thực hiện công tác

quản lý đối tượng tham gia BHXH cần phải thực hiện tốt một số công tác

sau:

- Thực hiện phân cấp quản lý, phân công cụ thể từng đơn vị, từng bộ

phận và cá nhân để quản lý, theo dõi đôn đốc thu BHXH đến từng cá nhân

tham gia BHXH. Việc phân cấp, phân công cụ thể công tác quản lý sẽ làm

cho việc thu BHXH được dễ dàng, thu triệt để, tránh hiện tượng thu thiếu,

bỏ qua không thu ... Việc phân cấp, phân công quản lý đối tượng tham gia

BHXH phải đạt được yêu cầu của công tác thu BHXH đề ra; ví dụ như

BHXH của Việt Nam thực hiện công tác quản lý đối với BHXH các tỉnh,

thành phố.

- Tiến hành ghi sổ BHXH cho những người lao động để theo dõi, ghi

chép kịp thời toàn bộ diễn biến quá trình đóng BHXH của họ theo từng

thời gian (tháng, quý, năm), mức đóng và đơn vị đóng, ngành nghề công

tác để sau này làm căn cứ xét hưởng các chế độ BHXH cho họ.

4.2) Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng BHXH

Căn cứ cơ bản để tiến hành hoạt động thu BHXH của người lao động

là tiền lương tháng, đối với người sử dụng lao động là tổng quỹ lương của

những người lao động tham gia BHXH trong các doanh nghiệp tổ chức.

Chính vì vậy, để tiến hành tốt công tác thu BHXH một phần quan trọng

không thể thiếu được là phải quản lý tốt quỹ tiền lương làm căn cứ đóng

BHXH của tổ chức, doanh nghiệp.

Mức thu BHXH đối với người tham gia BHXH được quy định tại điều

36, Điều lệ BHXH Việt Nam hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày

26/01/1995 của Chính phủ, theo đó người sử dụng lao động đóng 15% (nay

là 17%) tổng quỹ tiền lương tháng của người lao động trong đơn vị tham

gia BHXH, người lao động đóng bằng 5% (nay là 6%) tiền lương tháng.

29

Theo quy định hiện hành, tiền lương và quỹ lương của những người

tham gia BHXH là căn cứ để đóng BHXH, tuỳ theo từng khu vực công tác,

lĩnh vực công tác mà có những mức đóng khác nhau, cụ thể:

- Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị – xã hội,

hội quần chúng, tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của

các đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị Định

số 35/NQ/UBTVQHK9 ban hành ngày 17/05/1993 của Uỷ Ban Thường Vụ

Quốc Hội Khoá 9, Quyết Định số 69/QĐTW ngày 17/05/1993 của Ban Bí

Thư, Nghị Định số 25/CP ngày 17/05/1993 của Chính Phủ, Quyết Định số

574/TTG ban hành ngày 25/11/1993 của Thủ tướng Chính Phủ và Nghị

Định số 06/CP ngày 21/01/1997 của Chính Phủ.

- Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tiền lương tháng của người

lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các

quy định tại Nghị Định số 26/CP ngày 23/05/1995 của Chính Phủ.

- Các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện ký kết hợp đồng lao động,

việc đóng góp BHXH tính trên tổng quỹ lương hàng tháng, bao gồm tiền

lương theo hợp đồng đã ký kết với người lao động có tham gia BHXH theo

các quy định và lương của người giữ chức vụ không áp dụng chế độ hợp

đồng lao động.

- Riêng khối Quốc phòng – An ninh, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an

đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những quân nhân, công an

nhân dân hưởng lương; còn quân nhân, công an nhân dân đóng bằng 5%

tổng mức lương tháng. Mức thu BHXH đối với quân nhân, công an nhân

dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí đóng bằng 2% mức lương tối thiểu theo

tổng số quân nhân, công an nhân dân do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an

đóng.

30

- Đối với người lao dộng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, nếu

người lao động đã có quá trình tham gia BHXH ở trong nước thì đóng bằng

15% mức lương tháng đã đóng BHXH trước khi ra nước ngoài làm việc;

người lao động chưa tham gia BHXH ở trong nước thì mức đóng BHXH

hàng tháng bằng 15% của hai lần mức lương tối thiểu của công nhân viên

chức trong nước.

- Mức thu đối với cán bộ xã, phường, thị trấn đóng 5% mức sinh hoạt

phí hàng tháng; Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đóng bằng 10% mức

sinh hoạt phí hàng tháng tính trên tổng mức sinh hoạt phí của những người

tham gia BHXH.

4.3) Quản lý tiền thu BHXH

Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập với Ngân sách Nhà nước, được

quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, quỹ BHXH có thể

nói là hạt nhân của hoạt động BHXH. Do đó, cần phải quản lý chặt chẽ

những nguồn thu của BHXH, bên cạnh đó cũng phải tăng cường quản lý

đối với số tiền BHXH thu được để hình thành quỹ.

Quỹ BHXH cần được quản lý thống nhất ở BHXH Việt Nam, vì vậy

tất cả sự đóng góp của người tham gia BHXH đều phải tiến hành chuyển về

BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Để thực hiện nguyên

tắc trên các đơn vị BHXH các tỉnh (thành phố), huyện được mở các tài

khoản chuyên thu BHXH ở hệ thống Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước, các

đơn vị sử dụng tài khoản này chỉ để thu tiền nộp BHXH ở khu vực quản lý

của mình và định kỳ chuyển số tiền thu được lên cấp trên, từ đó tiền thu

BHXH được tập trung thống nhất tại một cơ quan cao nhất là BHXH Việt

Nam. Trong quá trình thu BHXH và lưu chuyển số tiền thu BHXH từ đơn

vị cơ sở lên BHXH Việt Nam, các đơn vị không được phép sử dụng tiền

thu BHXH cho bất cứ một nội dung nào khác, việc quy định như vậy nhằm

31

tránh những thất thoát tiền thu BHXH của các đơn vị, thống nhất nguyên

tắc quan trong quá trình hình thành, quản lý quỹ BHXH.

4.4) Mô hình tổ chức quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Giao Thuỷ

BHXH huyện Văn Giang thực hiện công tác thu BHXH dựa theo

nguyên tắc chung của BHXH Việt Nam và thông qua một số biểu mẫu sau:

- Danh sách lao động và quỹ lương trích nộp BHXH – mẫu C45-BH

- Các đơn vị nộp danh sách lên BHXH huyện sau đó chuyển tiền thu lên

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn của huyện và Kho bạc.

- Danh sách lao động tăng giảm (khi có sự biến động về lương, người) -

mẫu C48-BH - dùng điều chỉnh quỹ trước, mẫu C47-BH - dùng điều chỉnh

trong quỹ. - Sau khi hết 3 tháng, BHXH quyết toán theo quỹ-mẫu C46-BH - đối

chiếu

Cũng như các cơ quan BHXH huyện khác, BHXH huyện Giao Thuỷ

thực hiện quy trình quản lý thu BHXH đối với từng đơn vị sử dụng lao

C45-BH

động theo sơ đồ sau:

C47-BH

Số phải thu Chứng từ

trong kỳ nộp

Số đã thu trong kỳ Sổ sách kế toán Số phải Tổng số

Sổ chi tiết C53-BH

phải thu

trong kỳ thu kỳ trước chuyển sang

Điều chỉnh Điều chỉnh

C48-BH số phải thu số đã thu Số phải thu chuyển sang kỳ sau

32 C46-BH

- Báo cáo công tác thu theo quý.

BHXH huyện Giao Thuỷ tổ chức công tác thu bằng cách tại mỗi cơ

sở có một ban chuyên thu BHXH sau đó số thu sẽ chuyển vào tài khoản

riêng của BHXH huyện Giao Thuỷ qua hệ thống Ngân hàng. Nếu các cơ sở

có sự thay đổi của các yếu tố làm ảnh hưởng tới mức thu thì ban này sẽ báo

cáo với BHXH huyện Giao Thuỷ.

II . Tình hình chi BHXH

1 - Những vấn đề chung về chi BHXH

Chi BHXH là một mặt hoạt động thường xuyên và liên tục của các cơ

quan BHXH , chi BHXH là một hoạt động dạng phức tạp. Có thể hiểu hoạt

động chi quỹ BHXH như sau: chi BHXH là các khoản chi phí cần thiết để

thực hiện hoạt động của BHXH và các hoạt động khác có liên quan tới

công tác BHXH. Chi BHXH là hoạt động quan trọng trong công tác

BHXH, là một hoạt động không thể thiếu của công tác thực hiện chế độ

BHXH bởi vì:

- Chi BHXH là một trong những khâu quan trọng để đánh giá sự

thành công của công tác BHXH, là nhằm đảm bảo đời sống của người lao

động khi không may người lao động gặp phải những rủi ro, những tổn thất

cả về vật chất và tinh thần. Nó là khâu chủ yếu quyết định tới sự thành

33

công của công tác BHXH, nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của những

đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH.

- Chi BHXH là một phần tất yếu quan trọng của công tác BHXH, nó là

một mặt không thể tách rời của hoạt động BHXH nói chung. Cùng với hoạt

động thu, đầu tư quỹ và những hoạt động khác, chi BHXH là một khâu

trong công tác BHXH ; nó hoạt động không thể tách rời với hoạt động

khác, được các hoạt động khác của BHXH hỗ trợ bổ sung, hoàn thiện

nhưng đồng thời nó cũng hỗ trợ không ít cho các hoạt động khác của

BHXH . Chi BHXH là công tác cơ bản, thường xuyên, liên tục và chủ yếu

của các cơ quan BHXH.

Chi BHXH liên quan trực tiếp tới quyền lợi người lao động. Người

lao động sau hki đã đạt được những điều kiện cẫn thiết để được hưởng trợ

cấp của các chế độ theo quy định của pháp luật, đó là những quyền lợi mà

người lao động mong muốn nhận được khi tham gia vào BHXH . Do đó,

chi BHXH đòi hỏi phải tiến hành đày đủ, kịp thời để có thể đáp ứng được

yêu cầu của người tham gia BHXH.

Chi BHXH là công tác quan trọng không chỉ cho đối tượng được

hưởng BHXH mà còn đảm bảo sự thường xuyên, liên tục của công tác

BHXH, sự nghiệp BHXH . Chi BHXH không bó hẹp rong phạm vi chi trả

BHXH đó mà còn là công tác cho các chế độ

BHXH.

Đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH thường rất phức tạp và tương

đối đa dạng, do đó công tác chi trả BHXH không được phép xảy ra sự sai

xót đáng tiếc nào, nếu để xảy ra sai xót không những ảnh hưởng tới quyền

lợi của người được hưởng trợ cấp BHXH mà còn ảnh hưởng tới uy tín của

ngành BHXH.

34

2 - Công tác chi BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ

2.1) Các khoản chi BHXH

- Chi trả trợ cấp cho người lao động khi đã hội đủ những

yếu tố được hưởng trợ cấp BHXH theo đúng các quy định của pháp luật thì

được chi trả trợ cấp BHXH , đây là quyền lợi của người lao dộng khi tham

gia BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia mà mức

chi trả cho các chế độ là khác nhau; ở Việt Nam hiện nay tiến hành chi trả

trợ cấp BHXH cho những đối tượng tham gia BHXH theo 5 chế độ: trợ cấp

ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

Đây là nguồn chi thường xuyên và cơ bản nhất của hoạt động BHXH,

nguồn chi này thường khá lớn, nó quyết định không nhỏ tới sự thành công

của hoạt động BHXH vì có liên quan trực tiếp tới quyền lợi của người lao

động được hưởng sau những gì mà họ đóng góp vào quỹ BHXH.

Chi cho hoạt động quản lý để duy trì hoạt động của các tổ chức cơ -

quan BHXH như: chi lương cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức trong

ngành, chi cho văn phòng phẩm, chi mua sắm tài sản cố định phục vụ cho

hoạt động BHXH.

Chi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học trong hệ thống ngành -

BHXH từ những nghiên cứu khoa học đó có thể được áp dụng vào trong

thực tế công tác BHXH .

Những khoản chi phí khác như: chi tiếp khách của BHXH, chi thẩm -

tra điều tra chính hồ sơ, chi cho những hoạt động văn hoá - thể thao của

ngành.

2.2) Tình hình chi trả BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ

Dựa trên các khoản chi theo quy định nói trên, BHXH huyện Giao

Thuỷ đã thực hiện tốt công tác chi trả BHXH đến các đối tượng. Cụ thể

35

tình hình chi trả BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ được phản ánh

qua bảng sau:

(Trang sau)

Như vậy, ta thấy tổng số chi do Ngân sách nhà nước cấp là

17.326.193.200 đồng, so với số quỹ BHXH đảm bảo là 3.989.074.800 đồng

thì số chi trả của BHXH huyện Giao Thuỷ do Ngân sách nhà nước cấp còn

khá cao (bằng 4,4 lần số chi do quỹ BHXH tự đảm bảo). Nhưng so với vài

năm trước đây thì tỷ lệ này đã giảm một cách đáng kể: Năm 2002 tỷ lệ này

là 5,7 lần và năm 2001 là 7,1 lần, điều đó thể hiện xu hướng phát triển tốt,

đúng hướng của quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ, dần từng

bước làm giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước.

Tình hình chi trả BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ năm 2003:

Các khoản chi , trả Quỹ BHXH đảm bảo (Đồng) Ngân sách nhà nước Cấp (Đồng)

5.756.152.200 719.506.000 Quân đội Hưu 8.644.052.000 2.290.022.600 CNVC

Mất sức 2.230.544.200 -

18.447.600 25.732.800 Tai nạn lao động

586.140.000 150.948.000 Viên chức

- 2.030.000 Tuất Nuôi dưỡng

69.920.000 12.000.000 1 lần

Mai táng phí 8.286.000 -

62.109.600 - Ẩm đau

36

10.621.200 39.087.900 Thai sản

Dưỡng sức - 101.860.100

- 471.057.800 Trợ cấp 91

- 116.750.000 T/ C cán bộ xã

17.326.193.200 3.989.074.800 Tổng

(Nguồn: BHXH huyện Giao Thuỷ)

3 - nguyên trong chi Những tắc BHXH

Những nguyên tắc chính của chi BHXH là:

- Chi đúng đối tượng, đúng mục đích;

- Chi trực tiếp;

- Việc chi tiêu phải đảm bảo đúng pháp luật, theo đúng các quy dịnh,

chế độ hoạch toán hống kê hiện hành của nhà nước;

- Từ những nguyên tắc chính được nêu trên, chi BHXH phải tuân thủ

một số quy định sau đây:

+ Chi cho các chế độ BHXH dài hạn, loại chi này bắt nguồn từ việc

bảo hiểm nguồn thu nhập cho người lao động khi về già, mất sức hay bị

chết. Đặc điểm của những chế độ BHXH này là thực hiện sau quá trình lao

động, quan hệ phân phối là quan hệ mang tính chất hoàn trả, lợi ích th được

tương ứng với phần đóng góp. Vì vậy việc chi cho chế độ này phải cân đối

với thu, trừ những trường hợp đồng tiền bị mất giá hay nền kinh tế có sự

biến dộng lớn mà ngân sách nhà nước phải tài trợ.

+ Chi cho từng chế độ ngắn hạn phải được cân đối trong phạm vi

từng năm, nguồn tài chính này thì BHXH thường để lại cho các cơ quan,

doanh nghiệp tự chi.

37

+ Chi quản lý BHXH mang tính chất hành chính sự nghiệp, vì vậy

người ta thường căn cứ vào thang bảng lương của công nhân viên chức

Nhà nước, căn cứ vào thủ tục chi hành chính như các đơn vị hành chính sự

nghiệp khác.

+ Chi cho hoạt động đầu tư, phần chi này thường căn cứ vào dự án

điển hình trong đầu tư để thanh quyết toán chi đầu tư.

+ Các khoản chi khác: Chi tiếp khách, chi cho việc chia lãi.

Cuối năm, cơ quan BHXH tiến hành cân đối thu - chi, nếu chi không

hết thì lập báo cáo gửi lên cơ quan cấp trên, nếu thiếu chi thì cơ quan

BHXH có thể vay ngân hàng để chi cho đủ các chế độ, sau đó thanh quyết

toán tháng tới, quý tới.

4 - Quản lý chi BHXH

4.1) Quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH

Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH có thể chính là bản thân

người lao động và gia đình họ, đối tượng được trợ cấp BHXH có thể được

hưởng một lần hay hàng tháng, hàng kỳ; hưởng trợ cấp nhiều lần hay ít tuỳ

thuộc vào mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và mức độ đóng góp), các

điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động gặp phải.

Theo Điều lệ BHXH Việt Nam quy định, chế độ BHXH hiện hành

bao gồn những chế độ sau:

Chế độ trợ cấp ốm đau;

Chế độ trợ cấp thai sản;

Chế độ trợ cấp hưu trí;

Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;

- - - - - Chế độ trợ cấp tử tuất;

38

Ngoài ra, theo quyết định số 37/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính

phủ ngày 21/3/2001, BHXH còn thực hiện chi cho nghỉ dưỡng sức, phục

hồi sức khoẻ cho lao động tham gia BHXH.

Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH có thể rất phức tạp về địa

điểm chi trả(vùng sâu, vùng xa), cũng như thời gian chi trả, do đó điều

quan trọng nhất trong công tác chi trả BHXH là phải quản lý được cụ thể,

chính xác từng đối tượng theo từng loại chế độ được hưởng và mức độ

hưởng, thời gian được hưởng của họ.

Quản lý đối tượng chi trả là công tác thường xuyên, liên tục của các cơ

quan BHXH, tránh tình trạng đối tượng chi trả không còn tồn tại mà nguồn

kinh phí chi trả vẫn được cấp gây ra sự tổn thất cho quỹ BHXH, dẫn đén

lợi BHXH của các đơn vị và cá tình trạng trục

nhân.

4.2) Quản lý mô hình chi trả và phương thức chi trả cho các chế độ

BHXH

Đối tượng chi trả của BHXH rất phức tạp và đa dạng, vì vậy cần

phải có một phương thức chi trả hợp lý, cũng do đó đòi hỏi phải có những

mô hình chi trả phù hợp sao cho đảm bảo được nguyên tắc chi trả: đúng đối

tượng, đúng chế độ, đầy đủ kịp thời, chính xác và an toàn. Chính vì vậy,

đòi hỏi ngành BHXH phải quản lý tốt phương thức chi trả và mô hình chi

trả BHXH.

Hiện nay, BHXH Việt Nam thực hiện những mô hình chi trả BHXH

như sau:

- Mô hình chi trả trực tiếp: cán bộ BHXH trực tiếp quản lý đối tượng

được hưởng BHXH. Mô hình này đòi hỏi phải có đội ngũ chi trả BHXH đủ

mạnh để đảm bảo nguyên tắc chi trả đã đề ra; bên cạnh những ưu điểm của

mô hình (cán bộ BHXH có thể đi sâu, đi sát nắm vững tình hình của đối

39

tượng BHXH, quản lý tốt đối tượng hưởng BHXH, tránh được tình trạng vi

phạm trong các quy định trong công chi trả BHXH), mô hình này vẫn còn

những nhược điểm của nó (đòi hỏi công tác lập kế hoạch chi trả thật khoa

học, chính xác; cán bộ chi trả có đủ số lượng cần thiết và có nghiệp vụ đáp

ứng được yêu cầu của công việc để đáp ứng kịp thời trong chi trả; đối với

vùng sâu, vùng xa thì mô hình này gặp nhiều khó khăn).

- Mô hình chi trả gián tiếp: chi trả tiền trợ cấp cho các đối tượng

hưởng BHXH dài hạn thông qua hệ thống các đại lý chi trả ở các xã,

phường, thị trấn và đối tượng được hưởng chế độ ngắn hạn thông qua đơn

vị sử dụng lao động. Mô hình chi trả BHXH này có một số ưu điểm

như: trong một thời gian ngắn có thể chi trả cho một số đối tượng tương đối

lớn và rộng khắp; cán bộ chi trả là những người địa phương, do đó có thể đi

sâu, đi sát nắm vững tình hình của đối tượng được chi trả; tạo mối quan hệ

tốt giữa cơ quan BHXH và chính quyền địa phương; tiết kiệm được chi phí,

biên chế trong công tác chi trả BHXH. Tuy vậy, mô hình chi trả gián tiếp

này cũng có một số nhược điểm cần khắc phục như: cơ quan BHXH không

tiếp xúc trưc tiếp với đối tượng được chi trả, do đó cũng có những khó

khăn nhất định trong việc nắm vững tâm tư, nguyện vọng của đối tượng

được hưởng BHXH; lệ phí chi trả thấp do đó mà các đại lý chi trả nhiều khi

không nhiệt tình trong công tác chi trả BHXH; nhiều đại lý chi trả còn chưa

đáp ứng được những yêu cầu về công tác quản lý tài chính của ngành

BHXH; thời gian chi trả từ các đại lý chi trả cho đối tượng được hưởng

BHXH khó đảm bảo về mặt thời gian.

- Một số hình thức chi trả BHXH khác: ngoài hai mô hình chi trả

BHXH đã được nêu ở trên, hiện nay vẫn thực hiện theo một số mô hình

BHXH khác như:

+ Mô hình kết hợp chi trả trực tiếp và chi trả gián tiếp.

40

+ Mô hình chi trả BHXH trực tiếp tại cơ quan BHXH ở một số địa

phương có điều kiện giao thông, đi lại khó khăn, đối tượng hưởng BHXH

ít, phân tán, không thể lập dược các đại lý chi trả do đó xuất hiện mô hình

này để chi trả cho từng đối tượng được hưởng BHXH ở địa phương, chi trả

ở đây không phải hàng tháng , hàng quý mà tuỳ theo nhu cầu được hưởng

chế độ BHXH (ví dụ như phù hợp với thời gian đi chợ ở các vùng cao).

+ Mô hình chi trả BHXH một lần cho những đối tượng hưởng trợ

cấp BHXH một lần.

Đặc điểm chính cần quan tâm trong công tác chi trả hiện nay là hầu

hết việc chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng các chế độ

BHXH là bằng tiền mặt, khối lượng tiền mặt chi trả hàng tháng là tương

đối lớn, địa bàn chi trả BHXH lại tương đối rộng lớn, thời gian chi trả lại

tương đối ngắn (thường từ 1 đếm 5 ngày trong tháng). Vấn đề quản lý mô

hình chi trả và phương thức chi trả phải đặt ra ở đây là phải lựa chọn mô

hình, phương thức chi trả nào cho thật phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của

địa phương nhưng lại đảm bảo nguyên tắc chi trả BHXH đã đặt ra, mô hình

chi trả và nguyên tắc chi trả có tác động rất lớn tới công tác chi trả BHXH.

BHXH huyện Giao Thuỷ thực hiện việc chi trả các chế độ theo mô

hình chi trả trực tiếp tại cơ quan BHXH là chủ yếu, ngoài ra BHXH huyện

Giao Thuỷ còn áp dụng hình thức trả gián tiếp qua các ban tại địa bàn các

xã.

4.3) Quản lý kinh phí chi trả BHXH

Trong hoàn cảnh chi trả BHXH đều được thực hiện bằng tiền mặt,

khối lượng tiền mặt chi trả BHXH là tương đối lớn, đối tượng chi trả và địa

bàn chi trả khá phức tạp và thường phân tán; do đó vấn đề quan trọng

không kém trong công tác chi trả BHXH là phải quản lý nguồn kinh phí chi

41

trả sao cho thật chặt chẽ, thực hiện tốt công tác chi trả để tránh sự thất thoát

gây tổn thất cho quỹ BHXH và uy tín của BHXH.

Để đạt được mục tiêu chi trả kip thời, đầy đủ cho các đối tượng được

hưởng chế độ BHXH; một yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo đủ nguồn kinh

phí này phải được phân bổ và điều hành một cách khoa học, do đó công

tác lập kế hoạch chi trả phải được đặt lên hàng đầu, kế hoạch chi trả phải

phù hợp với từng nhu cầu chi tiêu từng đối tượng hưởng trợ cấp địa

phương, vừa đảm bảo nhu cầu người được hưởng BHXH và tránh những

thất thoát không đáng có củ nguồn kinh phí chi trả BHXH. Để thực hiện

công tác quản lý kinh phí chi trả BHXH thì các đơn vị tiến hành công tác

chi trả được mở một tài khoản chuyên chi BHXH ở hện thống ngân hàng

và Kho bạc Nhà nước, các đơn vị này chỉ được rút tiền từ tài khoản trên để

chi trả cho chế độ BHXH, ngoài ra thì không được phép rút tiền để chi trả

bất kì một mục đích nào khác, nhờ đó mà đơn vị cấp trên có thể quản lý và

kiểm tra được số kinh phí đã sử dụng và số kinh phí còn dư trên tài khoản

của các đơn vị cấp dưới dễ dàng và thuận tiện.

4.4) Quản lý chi cho hoạt động bộ máy và những hoạt động khác

Quản lý cho hoạt động bộ máy của hệ thống BHXH là những khoản

kinh phí phải chi để đảm bảo cho hoạt động của toàn bộ hệ thống quản lý

cả hệ thống BHXH. Chi phí hoạt động quản lý bộ máy BHXH Việt Nam

bao gồm rất nhiều những nội dung khác nhau; tuy nhiên nếu xét theo tính

chất chi thì có thể chia làm hai tính chất sau đây:

- Chi phí cho hoạt động thường xuyên: đó là những khoản chi phí

cần thiết nhằm duy trì hoạt động quản lý thường xuyên của bộ máy quản

lý của BHXH. Những nội dung chi chủ yếu trong chi phí hoạt đọng thường

xuyên thường là những nội dung chi sau:

42

+ Quản lý cho những hoạt động nghiệp vụ: là những khoản chi cho

công tác thu BHXH, chi cho công tác chi BHXH, hội nghị, tiếp khách, chi

văn phòng phẩm, tiền điện nước, chi sửa chữa nhỏ, mua sắm tài sản, tiền

điện thoại, tiền công tác phí cho cán bộ đi công tác...

+ Quản lý chi cho công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ, công

chức,viên chức: Đó là những khoản chi công tác tổ chức thuộc hệ thống

BHXH, cử người đi đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo.

+ Quản lý chi phí cho hợp tác quốc tế, chi cho công tác đối ngoại

mang tính chất quốc tế.

- Chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất: đây là những chi phí nhằm đảm

bảo các điều kiện, phương tiện làm việc cho cán bộ, công chức viên chức

thuộc hệ thống BHXH. Nguồn chi này bao gồm những nguồn chi sau: chi

đầu tư xây dựng các trụ sở làm việc của hệ thống các cơ quan BHXH, trang

bị phương tiện làm việc (hệ thống máy vi tính, ô tô, xe máy, tủ hồ sơ, bàn

ghế...).

Đối với công tác quản lý chi cho công tác đầu tư xây dựng các trụ sở

làm việc của cơ quan BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam, công tác

quản lý chú trọng vào quản lý chất lượng và giá cả quyết toán của công

trình, đảm bảo tính đúng các quy quy phạm do Nhà nước quy định trong

công tác xây dựng cơ bản. Về phương tiện làm việc, việc mua sắm trang

thiết bị phải tuân thủ những nguyên tắc, những tiêu chuẩn chất lượng do

Nhà nước quy định; mặt khác phải phù hợp với nhu cầu công tác.

- Quản lý chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học: là những khoản

chi cho những đề tài nghiên cứu các đề tài khoa học liên quan tới việc hoàn

thiện công tác BHXH, những thăm dò dư luận cần thiết liên quan tới công

tác BHXH.

43

III . ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU CHI QUỸ BHXH TẠI

BHXH HUYỆN GIAO THUỶ

1- Thực trạng công tác quản lý thu chi quỹ BHXH

Công tác thu chi của BHXH huyện Giao Thuỷ hiện nay vẫn còn gặp

phải những khó khăn nhất định mà chủ yếu là do ý thức chấp hành điều lệ

về BHXH của chủ các đơn vị sử dụng lao động, các cơ quan chức năng

trong huyện. Cụ thể một số trường hợp đã xảy ra như sau:

- Các đơn vị kê khai, thống kê chưa đầy đủ số lao động làm việc trong

cơ quan mình, nhất là những lao động mới được tuyển vào làm việc hoặc

những người trong thời gian thử việc bị kéo dài thời gian một cách bất hợp

lý nhằm trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH làm ảnh hưởng tới quyền lợi của

người lao động; đồng thời làm giảm số thu của BHXH, tăng thêm gánh

nặng cho Ngân sách Nhà nước. Một số khác lại chưa kịp thời hoặc không

báo cáo với cơ quan BHXH các trường hợp ảnh hưởng tới nguồn thu chi

như: Đối tượng bị chết, mất việc làm do hết hợp đồng hoặc không còn đủ

trình độ làm việc nữa.

- Đơn vị không đưa ra khoản phụ cấp khu vực của người lao động,

không báo cáo tăng mức nộp BHXH với cơ quan BHXH ngay khi người

lao động được nâng bậc lương hoặc không tiến hành thi tay nghề nâng bậc

lương cho người lao động một cách thường xuyên như quy định. Có người

lao động hàng chục năm liền không được nâng bậc lương, không thay đổi

mức đóng góp BHXH.

- Trong thực tế quản lý thu BHXH ở cơ sở cho thấy thời gian qua có rất

nhiều đơn vị nợ đọng tiền thu BHXH với thời gian dài, hoặc thu BHXH

quá chậm trễ, điển hình có những đơn vị từ khi thành lập hệ thống BHXH

đến nay hầu như không nộp BHXH cho người lao động. Việc các đơn

vị để nợ đọng tiền thu BHXH đang là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương,

44

nhiều lĩnh vực kinh tế và gây hậu quả rất nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến

năng suất làm việc cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị, ảnh

hưởng đến an sinh của xã hội mà bấy lâu nay Đảng và nhà nước ta đang

xây dựng.

- Một số đơn vị thực hiện hoạch toán thu chi sai so với quy định của

điều lệ BHXH và các văn bản pháp quy về chế độ kế toán thống kê: đơn vị

thu 6% tiền lương của người lao động, nhưng không đưa những người đó

vào danh sách đóng BHXH mà sử dụng số tiền này vào mục đích khác,

trong khi đó người lao động vẫn tưởng rằng mình tham gia BHXH. Đối với

lao động mang tính thời vụ, không đưa vào danh sách đóng BHXH, doanh

nghiệp cũng không thanh toán trả 17% tiền lương của họ cùng với tiền

lương theo quy định của Bộ luật lao động.

- Đơn vị không bố trí được việc làm cho người lao động, để người lao

động nghỉ tự túc mà đơn vị vẫn thu tiền BHXH của những người lao động

này.

- Một số doanh nghiệp trích thừa phải nộp BHXH khi hạch toán kế toán

và sử dụng phần chênh lệch vào mục đích khác.

BHXH huyện Giao Thuỷ đã và đang cố gắng khắc phục các tình trạng

nói trên bằng mọi cách, đảm bảo mức thu luôn ngày càng tăng lên. Để thực

hiện tốt chính sách BHXH không chỉ cần đến sự nỗ lực riêng của ngành

BHXH , mà các cấp, các ngành và các đơn vị cũng phải nhận thức đúng

đắn chính sách này.

2 - Những kết quả đạt được của BHXH huyện Giao Thuỷ

2.1) Về công tác thu

45

Kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động đến nay, BHXH huyện Giao Thuỷ

đã có số thu liên tục tăng nhanh qua các năm, số đơn vị tham gia BHXH

ngày càng nhiều, đặc biệt trong mấy năm trở lại đây, số thu đã tăng rất cao.

Cụ thể hoá những kết quả đạt được bằng các con số thống kê dưới đây:

Bảng tình hình thu BHXH và số đơn vị tham gia BHXH của BHXH

huyện Giao Thuỷ từ năm 1999 – 2003:

Chỉ tiêu

ĐV tính

Năm 1999

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Số đơn vị tham gia

83

89

94

99

103

BHXH

Đơn vị

Số người tham gia

2.319

2.700

3.010

3.242

3.543

Người

BHXH

Số tiền BHXH

Triệu

2.205

2.812

3.614

4.856

6.283

thu được

đồng

(Nguồn BHXH huyện Giao Thuỷ)

Qua bảng số liệu trên cho thấy số thu qua các năm đã tăng nhanh rõ

rệt, nếu năm 1999 chỉ có 2.205 triệu đồng thì đến năm 2003 đã đạt 6.283

triệu đồng tăng lên gần 3 lần, cùng với đó số lao động tham gia BHXH

cũng tăng lên một cách đáng kể: từ năm 1999 đến năm 2003 tăng lên trên

1000 người, các doanh nghiệp; công ty ngày càng mở rộng quy mô sản

xuất cộng với số đơn vị mới được thành lập đã tăng đáng kể số đơn vị tham

gia BHXH. Để đạt được kết quả đó là sự nỗ lực không ngừng của BHXH

huyện Giao Thuỷ nói riêng và các cơ quan ban ngành trong huyện nói

46

chung. Trong năm 2004 BHXH huyện Giao Thuỷ phấn đấu đạt mức thu là

trên 7.500 triệu đồng.

2.2) Về công tác chi BHXH

Song song với những kết quả đạt được từ công tác thu BHXH, công

tác chi BHXH của BHXH huyện Giao Thuỷ cũng đạt được những kết quả

khả quan: Chi trả đảm bảo thường xuyên, chi đúng và chi kịp thời. Số chi

do quỹ BHXH đảm bảo ngày càng tăng lên, làm giảm khả năng phải bù đắp

cho Ngân Sách nhà nước. Cụ thể những kết quả đó được thể hiện qua bảng

sau:

Bảng tình hình chi trả của BHXH huyện Giao Thuỷ qua các năm từ

1999 – 2003:

Chỉ tiêu

ĐV tính

Năm 1999

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Tổng số tiền chi

Triệu

22.053

22.116

21.184

21.297

21.315

trả

đồng

Ngân sách Nhà

Triệu

20.048

19.659

18.569

18.118

17.326

nước cấp

đồng

Triệu

Quỹ BHXH

2.005

2.457

2.615

3.179

3.989

đồng

Ta thấy, năm 1999 ngân sách nhà nước phải bỏ ra gấp 10 lần số quỹ

BHXH tự trả, thì đến năm 2003 con số đã được giảm bớt rất nhiều chỉ còn

4,4 lần, cũng như vậy qua các năm Ngân sách Nhà nước phải bỏ ra có xu

hướng ít đi rất nhiều.

47

Trên đây là những kết quả đạt được trong công tác thu chi BHXH của

BHXH huyện Giao Thuỷ mà qua thời gian thực tập ở cơ quan em nhận

thấy được. Kết quả đó góp phần rất lớn vào công cuộc xây dựng và phát

triển của đất nước.

3 – Những hạn chế trong công tác quản lý thu chi quỹ BHXH ở BHXH

huyện Giao Thuỷ

Trong công tác quản lý thu chi quỹ BHXH ở BHXH huyện Giao Thuỷ

còn một vài vấn đề tồn đọng cần sớm được khắc phục để hoạt động của

quỹ BHXH ngày càng tốt hơn, đó là:

- Do số cán bộ trong cơ quan còn thiếu nên việc thu BHXH chưa dứt

điểm, một số đơn vị còn nợ đọng hoặc trốn nộp BHXH dẫn tới việc quản lý

thu chưa tốt, cơ quan BHXH thống kê số thu được dễ bị nhầm lẫn và

không kịp tiến độ báo cáo với cơ quan BHXH tỉnh Nam Định.

- Trình độ chuyên môn của một vài cán bộ còn hạn chế do chưa được

đào tạo đúng ngành, vì thế làm cho việc quản lý quỹ hay bị sai, thống kê

cuối năm thường không khớp với số liệu của từng quý.

- Số ít cán bộ làm việc không thực sự nhiệt tình, nên việc chi trả BHXH

đôi khi còn bị chậm trễ, có trường hợp phải vài tháng mới lĩnh được tiền

hưởng BHXH.

- Một số đơn vị trốn nộp BHXH hoặc cố tình tính sai mức nộp BHXH

mà BHXH huyện Giao Thuỷ chưa kịp thời phát hiện và xử phạt, nên số thu

BHXH bị thất thoát mà không quản lý được.

Trên đây là một số vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý thu chi

quỹ BHXH ở cơ quan BHXH huyện Giao Thuỷ. Mong rằng BHXH huyện

Giao Thuỷ sớm khắc phục được các vấn đề nói trên để cho hoạt động của

quỹ BHXH ngày càng đạt hiệu quả thiết thực và đúng mục đích.

48

CHƯƠNG III

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THU CHI QUỸ BHXH Ở BHXH HUYỆN GIAO THUỶ

I . ĐỐI VỚI CƠ QUAN BHXH NÓI CHUNG

1 - Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH , xây dựng luật

BHXH

Chuyển sang nền kinh tế thị trường cùng với sự thay đổi trong nội

dung và đối tượng điều chỉnh các quan hệ xã hội – pháp luật nói chung và

chế độ BHXH nói riêng cũng có sự thay đổi. Tuy nhiên, trong các chế định

thì chế định pháp lí về BHXH dường như mang tính chất ổn định nhất, điều

này rất thuận lợi trong việc xây dựng lại hệ thống quy định về BHXH cho

tương lai. Tất nhiên, vẫn cần thiết phải có điều chỉnh trợ cấp cho phù hợp

với điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển kinh tế. Yêu cầu ở đây là cần

phải có chính sách lao động đồng bộ. Việc xây dựng chế độ BHXH phải

khắc phục được tính giải quyết tình thế vì chế độ BHXH ban hành hôm nay

không chỉ áp dụng để giải quyết các chế độ cho người lao động đã làm việc

trước đây nay về nghỉ chế độ mà còn áp dụng trong hiện tại và tương lai.

Mặt khác, sự sáp nhập của BHXH và BHYT sẽ gây ra nhiều khó khăn cho

công tác quản lý hai nghiệp vụ này.Vì vậy, theo em cần sớm ban hành Luật

BHXH và hệ thống hoá văn bản về BHXH pháp quy về BHXH ở mức cao

hơn để thực hiện rõ tầm quan trọng của BHXH và có thể quản lý thống

nhất hai nghiệp vụ này.

49

Song song với việc ban hành Luật BHXH, chúng ta cũng nên thay

đổi lại tỉ lệ đóng BHXH. Hiện nay, do mức sống của xã hội ngày càng

được nâng cao đã làm cho tuổi thọ trung bình của con người cũng tăng

theo. Cách đây 30 năm, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam chỉ vào

khoảng 50 –60 tuổi thì đến nay tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã

khoảng 75 tuổi. Tuổi thọ trung bình tăng lên sẽ làm cho số tiền chi trả

lương hưu tăng, điều này không đảm bảo nguyên tắc cân bằng thu – chi

trong BHXH bởi vì tỉ lệ thu BHXH như hiện nay la hơi thấp. Vì vậy theo

tôi, tỷ lệ đóng BHXH nên tăng lên 25% tổng quỹ lương và được phân chia

như sau:

- Người sử dụng lao động đóng góp 18% tổng quỹ lương.

- Người lao động đóng góp 7% tổng quỹ lương.

2 - Có chương trình đào tạo và sử dụng cán bộ

Để việc quản lý BHXH được thực hiện tốt và đạt kết quả cao thì việc

đào tạo lại cán bộ nhân viên trong toàn hệ thống, trang bị phương tiện làm

việc thích hợp với tính phức tạp về chuyên môn là không thể trì hoãn, chậm

trễ. Sự nghiệp BHXH đòi hỏi có một đội ngũ nhân viên thông thạo nghiệp

vụ, nắm vững các quy định của pháp luật về BHXH và pháp luật có liên

quan, cởi mở tiếp xúc với những người được bảo hiểm, có quan hệ chặt chẽ

với cơ sở sử dụng lao động, hợp tác tốt với các bộ phận trong cùng cơ quan

và các cơ quan khác. Người lãnh đạo cơ quan bảo hiểm phải có chương

trình kế hoạch đào tạo huấn luyện bồi dưỡng về nghiệp vụ và nguyên tắc

quản lý và nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên, quy định nghiêm ngặt chế độ

báo cáo thống kê, định kỳ tiếp xúc trực tiếp với các cơ sở, các cơ quan

BHXH cấp dưới, mở các cuộc hội thảo về những vướng mắc trong việc

50

thực hiện mục tiêu trong tổ chức cơ quan và nghiệp vụ thu chi tài chính để

có quyết định xử lý kịp thời.

Ngoài ra hệ thống BHXH cần phải:

- Xây dựng, chuẩn hoá tiêu chuẩn cho các chức danh cán bộ, công chức,

viên chức sao cho phù hợp với những yêu cầu công tác của ngành. Đồng

thời, tiến hành rà soát và sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

cho phù hợp với năng lực chuyên môn và những yêu cầu công tác đã đặt ra.

- Tuyển dụng mới và bồi dưỡng nâng cao mọi mặt cho đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức trong ngành theo hướng giỏi về chuyên môn, vững

vàng về nghiệp vụ, chính trị tư tưởng phẩm chất đạo đức tốt.

- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên chức

trong ngành trên cơ sở phân phối thu nhập hợp lý, công bằng, làm cho thu

nhập của các cán bộ công nhân viên trong ngành trở thành động lực và mục

tiêu phấn đấu của họ.

3 - Mở rộng nguồn thu BHXH

Thứ nhất, mở rộng nguồn thu BHXH đó là việc mở rộng đối tượng

tham gia BHXH: Hiện nay, dân số nước ta khoảng trên 80 triệu người,

trong đó lực lượng lao động chiếm khoảng 45 triệu lao động, đây có thể nói

là một nguồn lao động rất phong phú và đầy tiềm năng cho sự nghiệp phát

triển kinh tế xã hội của đất nước trong hoàn cảnh mới; tuy nhiên mới chỉ có

khoảng 4 triệu lao động tham gia BHXH, do đó số lượng lao động xã hội

tham gia BHXH hạn chế, nếu tiến hành phát triển BHXH ở tất cả lực lượng

lao động xã hội thì số lượng lao động tham gia BHXH là vô cùng lớn. Đặc

biệt, nguồn lao động ở nông thôn, những lao động hoạt động trong lĩnh vực

nông - lâm - ngư nghiệp có tiềm năng tham gia BHXH và có nhu cầu tham

gia BHXH là rất lớn. Trong khi đó, theo điều lệ BHXH ban hành kèm theo

51

nghị định 12/ CP của Chính phủ mới chỉ giới hạn đối tượng tham gia

BHXH ở một đối tượng hạn chế, thực hiện BHXH ở một khu vực lao động

tương đối hẹp. Về lâu dài nên mở rộng hình loại hình BHXH bắt buộc và

BHXH tự nguyện đối với mọi người lao động trong xã hội; vừa bắt buộc

mọi người lao động trong xã hội phải có trách nhiệm, ý thức trong tiêu

dùng các nhân để chịu trách nhiệm với chính bản thân mình và gia đình

mình, vừa đạt được mục tiêu quản lý điều hành của Nhà nước đảm bảo an

toàn xã hội.

- Đối với loại hình BHXH bắt buộc: trong thời gian tới, ngoài những

người lao động đang thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định

hiện nay, Nhà nước cần mở rộng thêm đối tượng tham gia đối với các đối

tượng lao động khác như: người lao động trong các hợp tác xã có quan hệ

hợp đồng lao động, các hộ gia đình và những làng nghề có sử dụng lao

động thuê mướn...

- Đối với loại hình BHXH tự nguyện: Bộ luật lao động của nước ta có

quy định về BHXH tự nguyện, loại hình BHXH tự nguyện nên được thực

hiện ở những đối tượng như: những người hoạt động trong lĩnh vực sản

xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; người lao động tự do; những

người đã tham gia loại hình BHXH bắt buộc nhưng muốn tham gia thêm

loại hình BHXH tự nguyện này...

Thứ hai, mở rộng đầu tư quỹ nhằm tăng thêm nguồn thu BHXH: Quỹ

BHXH có nguồn tài chính nhàn rỗi tương đối lớn có thể thực hiện các hoạt

động đầu tư tăng trưởng nguồn quỹ, mặt khác đây cũng là một nguồn vốn

quan trọng trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong điều

kiện đất nước đang tiến hành sự nghiệp “công nghiệp hoá, hiện đại hoá”

theo đường lối của Đảng. Trong điều kiện phát triển kinh tế, Đảng đã xác

định coi trọng nguồn nội lực trong nước là quyết định, do đó quỹ BHXH

52

nhàn rỗi được đem đầu tư là nguồn đầu tư rất phù hợp và có vai trò quan

trọng trong phát triển kinh tế.

4 - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH

BHXH Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hoạch toán

độc lập, cân đối thu chi nên đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH là

hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về BHXH trong những

năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt được kết quả đáng ghi nhận: Đó là

nâng cao nhận thức đối với BHXH, đưa ra những hình thức tuyên truyền

hiệu quả hơn và xây dựng được đông đảo đội ngũ cộng tác viên. Nhưng so

với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền

về BHXH còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung số đông

người lao động, chủ sử dụng lao động chưa có hiểu biết rõ ràng về BHXH,

thêm vào đó công tác tuyên truyền chưa được quan tâm mọt cách đúng

mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để

nâng cao hiệu quả tuyên truyền cần phải thực hiện các hướng sau:

- Về nội dung: Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các

chế độ BHXH, giải đáp hướng dẫn thực hiện các chế độ, kết quả các mặt

hoạt động của ngành. Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít

được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo, nhân

văn của BHXH. Nếu chúng ta làm được điều đó thì sẽ từng bước thay đổi

được tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc đóng BHXH. Từ đó hình

thành thái độ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp

BHXH. Trước đây chúng ta thường tuyên truyền nhiều về nội dung thu chi,

quản lý quỹ BHXH và giải quyết về BHXH là chưa đủ. Đó mới là biện

pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành

53

riêng cho nội bộ ngành, chưa thu hút được đông đảo người lao động, chủ

sử dụng lao động và các thành viên khảctong xã hội.

- Về hình thức tuyên truyền:

+ Tạp chí BHXH Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công

tác tuyên truyền về BHXH. Thời gian qua, các bài báo viết chủ yếu là của

các nhà quản lý BHXH, đội ngũ cộng tác viên chưa đáp ứng được số

lượng, chất lượng bài viết. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí BHXH phải

đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trước hết là đội ngũ phóng

viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viết chất lượng cao.

Bài viét không dừng lại thông tin một cách đơn thuần những kết quả đạt

được mà phải dựa trên sự phân tích khoa học, mang tính lập luận về nghiệp

vụ BHXH. Bài viết đăng trên tạp trí phải đầy đủ thông tin cần thiét và

chính xác cập nhật. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên và ngoài

ngành phải có trình độ chuyên môn và trách nhiệm cao.

+ Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ( Đài

truyền hình, truyền thanh, báo chí ) để tuyên truyền sâu rộng hơn về

BHXH. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây được sự chú ý

của mọi người.

+ Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện

của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về BHXH giúp các bên

tham gia hiểu rõ tính pháp luật của BHXH, nắm được quyền lợi và nghĩa

vụ của mình. Đồng thời qua đó thu thập tổng hợp các ý kiến thắc mắc,

đóng góp của người lao động , chủ sử dụng người lao động để đưa ra các

biện pháp phù hợp với nguyện vọng của học.

+ Phấn đấu mỗi cán bộ BHXH là một tuyên truyền viên ì hơn ai hết họ

hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách

BHXH.

54

5 - Hoàn thiện việc quản lý thu chi kết hợp vi tính hoá trong công tác

quản lý thu chi quỹ BHXH

Công tác thu quỹ BHXH có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ

làm công tác này, đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình

trong công việc. Do vậy cần có chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện

đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ

thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà

chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thưởng,

cám ơn tới các đơn vị luôn thực hiẹn tiến độ thu BHXH. Còn đối với các

đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền BHXH thì chúng ta nên xem xét tình hình

cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan

chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình

trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả

năng nộp tiền BHXH thì phải có biện pháp sử phạt hành chính vì nhiều đơn

vị sẵn sàng nộp phạp nếu như họ thấy tiền lãi thu được do chiến dụng quỹ

BHXH vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp mà

trong một số trường hợp chúng ta phải yêu cầu cơ quan chức năng thi hành

pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao

động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất

thời vụ thì cần xác định thời điểm hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng,

nộp đủ.

Công tác chi trả cũng cần phải được đổi mới cho phù hợp với nhu

cầu của cuộc sống. Đối với các cán bộ chi trả lương hưu và trợ cấp tại các

tổ, phường trên địa bàn quận thì phải không ngừng nâng cao mức thù lao

cho họ để họ có thể yên tâm làm công tác này, đem lại hiệu quả chi trả cao

hơn. Đối với các cán bộ làm công tác chi trả 2 chế độ ốm đau, thai sản ở

55

các đơn vị thì cũng phải có mức thù lao thoả đáng, đặc biệt là những đơn vị

có đông lao động, có nhiều lao động nữ, điều kiện làm việc cho người lao

động chưa đảm bảo.

Hiện nay nền kinh tế nước ta đang dần bắt kịp nền kinh tế thế giới.

Chúng ta đang mạnh mẽ áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý,

vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Ngành

BHXH cũng đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mới dừng

lại ở mức độ “có máy vi tính”. Hiện nay ở hầu hết các cơ quan BHXH đều

có hơn 2 chiếc máy vi tính nhưng số lượng cán bộ BHXH biết sử dụng

thành thạo nó thì có rất ít thậm chi có nơi không có. Các cán bộ ngành

BHXH chỉ mới dừng lại ở mức biết sử dụng máy vi tính mà chưa khai thác

hết hiệu quả mà máy vi tính đem lại trong công tác thu chi quỹ BHXH. Mặt

khác do chưa được quan tâm dúng mức nên hệ thống các chương trình

phần mềm chuyên ngành của BHXH vẫn chưa được đồng bộ, chưa tạo ra

sự thuận lợi cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Bên cạnh

đó hệ thống phần mềm này còn thiếu tính năng bảo mật nên rất dễ bị đánh

cắp số liệu. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo Nhà nước nên cung

cấp kinh phí cho ngành BHXH để họ có đủ điều kiện đưa hoạt động tin học

trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phầm

mềm quản lý cũng như mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ

ngành BHXH cả về kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu

quả phần mềm chuyên ngành.

II . ĐỐI VỚI BHXH HUYỆN GIAO THUỶ

1 – Về công tác thu

Quản lý thu BHXH phải đảm bảo, quán triệt nguyên tắc quản lý đầy

đủ, chính xác, kịp thời đối tượng tham gia BHXH và quỹ tiền lương làm cơ

56

sở để nộp và xác định mức hưởng BHXH; do đó đòi hỏi phải có một

phương thức quản lý thu BHXH hợp lý. Để thực hiện tốt công tác quản lý

thu BHXH, cần phải thực hiện một số biện pháp sau:

- Kết hợp với các cơ quan, ban, ngành chức năng có liên quan, việc kết

hợp này rất quan trọng trong công tác thu BHXH, nó tạo điều kiện cho

công tác thu được dễ dàng, triệt để, tận dụng được sự giúp đỡ các cấp, các

ban, ngành chức năng đối với công tác BHXH; đặc biệt càng có ý nghĩa

hơn đối với ngành BHXH trong việc thống kê nắm bắt đầy đủ số lượng đơn

vị sử dụng lao động, số lượng người lao động trong khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh. Ví dụ như đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần

phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động

của doanh nghiệp, cơ quan quản lý và thu thuế ở địa phương.

- Tổ chức cấp sổ BHXH cho người lao động để kịp thời ghi chép toàn

bộ quá trình tham gia BHXH và mức đóng góp của họ vào quỹ BHXH.

- Cần sớm nghiên cứu và đưa vào sử dụng công nghệ quản lý mới để

thay thế cho phương pháp làm việc thủ công hiện nay, theo dõi quản lý và

ghi chép kịp thời, đầy đủ sự biến động của từng đơn vị sử dụng lao động,

từng cá nhân người lao động (thời gian đóng, mức đóng)…

- Dần từng bước áp dụng công nghệ thông tin trên cơ sở xây dựng hoàn

chỉnh mạng máy tính toàn ngành để có thể quản lý hoạt động BHXH nói

chung và hoạt động quản lý hoạt động thu BHXH nói riêng. Đặc biệt, quản

lý hồ sơ của đối tượng tham gia BHXH trên cơ sở phát triển hệ thống công

nghệ thông tin của ngành BHXH, từ đó có được những thông tin cần thiết

về số lượng các đơn vị sử dụng và người lao động tham gia BHXH một

cách dễ dàng, kiểm tra kiểm soát hoạt động BHXH một cách thống nhất,

giải quyết kịp thời các khiếu nại của những người lao động xung quanh vấn

57

đề thu BHXH. Bằng những giải pháp công nghệ thông tin quản lý đối

tượng tham gia BHXH phù hợp cũng có thể tiết kiệm ddợc chi phí quản lý.

- Về quản lý số tiền thu BHXH, hệ thống các tài khoản "chuyên thu"

cần phải được quản lý chặt chẽ. Đây là các giải pháp cần phải có sự kiểm

tra, kiểm soát chặt chẽ trong công tác thu BHXH. Nguồn tiền của các cơ sở

thu được phải nộp vào tài khoản "chuyên thu" trong hệ thống Ngân hàng

Nhà nước, yêu cầu các cơ sở phải thu và nộp ngay số tiền thu BHXH cho

tài khoản của cơ quan BHXH Việt Nam để hình thành nên quỹ BHXH tập

trung, không được phép sử dụng nguồn thu này cho bất cứ công tác chi nào

khác. Do đó, cần phải có những chế độ khen thưởng kịp thời cho những

cán bộ công nhân viên chức, các đơn vị sử dụng lao động và các cơ sở thực

hiện tốt. Bên cạnh đó, phải có hình thức kỷ luật thật nghiêm khắc đối với

những cán bộ công nhân viên chức vi phạm những quy định của Nhà nước,

của ngành.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách trong hoạt động quản lý thu

BHXH, đảm bảo cho công tác BHXH được thực hiện một cách đồng bộ,

đúng theo các quy định của ngành và pháp luật nói chung; đặc biệt là phải

đào tạo được đội ngũ cán bộ chuyên môn trong hoạt động quản lý thu

BHXH đáp ứng được những nhu cầu thực tế đặt ra.

- Trao đổi hợp tác, học hỏi kinh nghiệm thực tiễn về công tác thu

BHXH của các cơ quan BHXH khác trong tỉnh.

- Chống thất thu, nợ đọng tiền nộp BHXH. Đây là một vấn đề cần giải

quyết dứt điểm trong hoạt động BHXH, bởi lẽ trên thực tế tình trạng nợ

đọng tiền nộp BHXH, trốn tránh thực hiện BHXH cho người lao động đang

diễn ra tương đối phổ biến ở các doanh nghiệp. Hiện nay, đang có quá

nhiều các đơn vị sản xuất nhỏ và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thậm chí

ngay cả các đơn vị nhà nước cũng trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho

58

người lao động. Vấn đề này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của

người lao động (không được giải quyết chế độ bởi vì đơn vị sử dụng lao

động đang nợ đọng tiền đóng BHXH…).

- Tình trạng trục lợi BHXH đang diễn ra với mức độ ngày càng tăng

như: giả mạo hồ sơ, khai khống tuổi đời và năm công tác để hưởng BHXH,

chậm cắt giảm đối tượng hưởng chế độ khi hết thời gian hưởng; trốn tránh

nghĩa vụ đóng BHXH hoặc khai giảm số lượng lao động và quỹ tiền lương

làm căn cứ đóng BHXH… Do đó, để tránh tình trạng thất thu và nợ đọng

tiền BHXH, ngoài những biện pháp riêng nghiệp vụ thu BHXH còn cần

thiết phải có những biện pháp tổng hợp, sự phối kết hợp giữa các cấp các

ngành. Tuy nhiên, trước hết trong công tác thu cần phải có sự quản lý chặt

chẽ đối tượng thu, quản lý chặt chẽ tiền lương và quỹ tiền lương làm căn cứ

để đóng và xác định mức hưởng BHXH; cần thiết phải có hình thức xử lý

nghiêm minh đối với những cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao

động cố tình dây dưa nợ đọng tiền đóng BHXH.

2 – Về công tác chi BHXH.

Quản lý chi BHXH nhằm giải quyết các chế độ BHXH và chi trả kịp

thời, chính xác, đúng lúc, đúng đối tượng cho những người được hưởng trợ

cấp của các chế độ BHXH. Đảm bảo sự an toàn, tránh những thất thoát

không đáng có của quỹ BHXH. Do đó, trong công tác hoàn thiện phương

thức quản lý chi BHXH cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

- Tiến hành kiểm ta, rà soát lại toàn bộ hồ sơ đối với những đối tượng

đang hưởng BHXH được hưởng chế độ BHXH. Đối với những đối tượng

thiếu hồ sơ, phải tiến hành bổ sung, hoàn chỉnh, kiểm tra lại; đối với những

hồ sơ có sự sai sót thì phải kiên quyết xử lý, phù hợp với những qui định

của Nhà nước. Mặt khác, nếu trong quá trình kiểm tra, phát hiện được

59

những hành vi gian lận nghiêm trọng thì cần thiết phải chuyển sang các cơ

quan pháp luật có chức năng để xử lý, cần phải có hình thức xử lý nghiêm

khắc để làm gương tránh tình trạng trục lợi BHXH.

- Với những đối tượng hưởng BHXH mới phát sinh, phải thực hiện

đúng quy trình lập, kiểm tra và thẩm định hồ sơ theo quy định.

- Tăng cường các biện pháp quản lý tiền mặt trong tất cả các công đoạn

vận chuyển tiền mặt từ nơi giao nhận tới khi chi trả cho các đối tượng được

hưởng chế độ BHXH, giao nhận tiền ở kho bạc, ngân hàng, trên đường vận

chuyển đến các xã, phường, tổ dân phố, trong quá trình tổ chức chi trả cho

trả từng đối tượng hưởng BHXH. Nếu cần thiết phải bố trí lực lượng bảo

vệ (thuê công an, bảo vệ áp tải) và trang bị những phương tiện bảo vệ (như:

trang bị hòm sắt, két bạc bảo vệ, thiết bị bảo vệ). Thực hiện thanh toán

ngay trong ngày đối với hình thức chi trả trực tiếp, không quá từ 3 đến 5

ngày đối với hình thức chi trả thông qua các cơ sở xã, phường. Thường

xuyên kiểm tra định kỳ, đột xuất tồn quỹ tiền mặt ở các đại lý và BHXH

cấp quận, huyện và BHXH cấp tỉnh, thành phố.

- Tại một số đơn vị ở xa, đối tượng hưởng BHXH ít, cần tìm ra được

phương thức và mô hình chi trả hợp lý để đảm bảo quyền lợi, đời sống cho

các đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH, đồng thời đảm bảo sự phù

hợp với khả năng đáp ứng được yêu cầu chi trả của các cơ quan BHXH cơ

sở. Do đó, có thể kết hợp với ngành Bưu điện để tổ chức chi trả kịp thời

hàng tháng cho đối tượng.

- Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức y tế, tổ chức công đoàn ở các đơn vị

để kiểm tra, giám sát việc cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm, nghỉ thực hiện kế

hoạch hoá gia đình, thai sản và nghỉ dưỡng sức để khắc phục triệt để hiện

tượng làm giả hồ sơ, khai khống thời gian nghỉ để rút tiền từ quỹ BHXH

không đúng chế độ, không đúng các quy định.

60

KẾT LUẬN

BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đã và đang

phát huy vai trò hết sức to lớn đối với người lao động, góp phần ổn định

đời sống của hàng triệu người lao động và gia đình họ khi gặp phải những

trường hợp ốm đau, bệnh tật, khó khăn trong cuộc sống.

Có thể nói, BHXH luôn gắn liền trách nhiệm và quyền lợi của người

lao động và chủ sử dụng lao động với nhau. Đây cũng là tổng hợp các quan

hệ kinh tế - xã hội giữa các thành viên trong xã hội, giữa các cơ quan,

doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác. Do đó, không thể không thực

hiện chính sách BHXH có hiệu quả.

Kể từ khi thành lập cơ quan BHXH huyện Giao Thuỷ đã góp phần

ổn định Ngân sách Nhà nước, giảm gánh nặng cho Ngân sách, giúp Nhà

nước tập trung vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội, giúp người lao động ổn

định cuộc sống, an tâm lao động…

61

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 - Giáo trình Bảo hiểm – Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân – Hà Nội.

2 - Giáo trình quản trị kinh doanh Bảo hiểm – Trường Đại Học Kinh Tế

Quốc Dân Hà Nội.

3 - Điều lệ BHXH (ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995

về việc ban hành Điều lệ Bảo hiểm).

4 - Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành biên soạn TS David Bland – Nhà

Xuất bản Tài Chính.

5 - Nghị định số 19/ CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập

BHXH Việt Nam.

6 - Các tạp chí Bảo hiểm.

7 - Các văn bản pháp quy hướng dẫn công tác tổ chức cán bộ.

62

NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP

63

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

64