intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thuốc điều trị bệnh gout và những lưu ý khi sử dụng

Chia sẻ: Secrets_1 Secrets_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

75
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Gout là nguyên nhân gây đau, là bệnh viêm khớp mạn tính hành hạ loài người hàng ngàn năm nay. Trong quá khứ, bệnh được gọi là "bệnh của các vị vua" do hay gặp ở các vua chúa từ thời của Hippocrates.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thuốc điều trị bệnh gout và những lưu ý khi sử dụng

  1. Thuốc điều trị bệnh gout và những lưu ý khi sử dụng
  2. Gout là nguyên nhân gây đau, là bệnh viêm khớp mạn tính hành hạ loài người hàng ngàn năm nay. Trong quá khứ, bệnh được gọi là "bệnh của các vị vua" do hay gặp ở các vua chúa từ thời của Hippocrates. Nguyên nhân gây bệnh Gout là nguyên nhân gây đau, là bệnh viêm khớp mạn tính hành hạ loài người hàng ngàn năm nay. Trong quá khứ, bệnh được gọi là "bệnh của các vị vua" do hay gặp ở các vua chúa từ thời của Hippocrates. Tất cả các tế bào sống, kể cả những tế bào trong cơ thể chúng ta, đều có chứa chất DNA, được cấu tạo từ một nhóm nguyên liệu trong đó có các chất hóa học gọi là purines. Một số thịt động vật, hải sản, đậu khô, thức uống có cồn chứa lượng purines cao. Khi cơ thể chúng ta tiêu hoá chất purines, nó biến đổi lượng dư thừa không sử dụng thành Acid Uric. Thận là cơ quan thường đào thải Acid Uric. Khi thận của chúng ta không thể điều hòa được lượng Acid Uric máu do bệnh lý ở thận hoặc do lượng Acid Uric tăng cao sau khi sử dụng một loại thực phẩm nào quá nhiều, Acid Uric sẽ tích lũy trong cơ thể. Theo thời gian, Acid Uric tập trung quanh các khớp và tạo thành những tinh thể hình kim trong khớp. Các tinh thể này kích thích gây viêm và đau, là triệu chứng của đợt bùng phát Gout cấp. Các tinh thể Acid Uric còn có thể kết dính lại với nhau dưới da và tạo thành những u nhỏ gọi là tophi. Khi các tophi này hình thành ở thận và đường tiết niệu, chúng trở thành sỏi. Thuốc Colchicine Colchicine là thuốc trị Gout cổ điển nhưng không phải là thuốc được chọn lựa để điều trị Gout cấp. Thuốc hiệu quả nhất trong vòng 12-24 giờ đầu tiên của cơn Gout cấp, nhưng sau đó tác dụng giảm dần theo tình trạng viêm kéo
  3. dài. Ngoài ra, khi được dùng để điều trị cơn Gout cấp, colchicine gây những phản ứng phụ trên đường tiêu hóa, đặc biệt là nôn và tiêu chảy, ở 80% bệnh nhân. Bệnh nhân có thể phòng tránh một đợt Gout cấp bằng cách uống một viên colchicine duy nhất khi xuất hiện triệu chứng đau đầu tiên. Colchicine không được dùng khi độ lọc cầu thận (GFR) dưới 10 ml/phút, và nên giảm liều xuống ít nhất một nửa khi GFR thấp hơn 50 ml/phút.Colchicine cũng nên tránh dùng ở bệnh nhân rối loạn chức năng gan, tắc mật và tiêu chảy nhiều. Đáp ứng lâm sàng khi dùng colchicine không phải là đặc hiệu cho Gout và còn có thể gặp ở bệnh nhân giả Gout, bệnh lý khớp sarcoid, viêm khớp vảy nến và viêm gân vôi hóa. Colchicine còn dùng tiêm tĩnh mạch. Tuy đường dùng này có thể ngăn chặn được một đợt Gout cấp, nhưng chỉ nên sử dụng trong những tình huống thật cần thiết do độc tính của thuốc. Ở một số nước không cho phép dùng tiêm tĩnh mạch nữa vì tỷ lệ tử vong có thể lên đến 2%. Cần phải sử dụng colchicine tiêm tĩnh mạch rất thận trọng ở bệnh nhân suy gan, suy thận. Nếu thuốc thoát khỏi thành mạch, nó có thể gây hoại tử mô. Trong mạch máu, nó có thể gây viêm tắc tĩnh mạch. Mất bạch cầu hạt là biến chứng quan trọng nhất khi dùng colchicine tĩnh mạch. Cần đếm bạch cầu hạt trước khi tiêm truyền. Các biến chứng khác bao gồm đông máu nội mạc rải rác (DIC), suy thận, độc tế bào gan, co giật và sốc. Điều trị phòng ngừa đợt gout cấp Khi sử dụng dự phòng bằng colchicine có thể làm giảm đợt cấp xuống 85%. Liều dự phòng colchicine tiêu chuẩn là 0,6mg ngày 2 lần. Khi suy thận cần giảm liều hoặc dùng cách nhật.
  4. Nếu so sánh với 80% bệnh nhân có nguy cơ tác dụng phụ trên đường tiêu hóa khi dùng colchicin cho đợt gout cấp, thì liều lượng colchicine dự phòng chỉ gây tác dụng phụ trên 4% bệnh nhân mà thôi. Sử dụng colchicine kéo dài có thể dẫn đến yếu cơ kết hợp với tăng creatine kinase do thuốc gây bệnh lý thần kinh cơ, đặc biệt ở những bệnh nhân suy thận. Nếu bệnh nhân không dùng được colchicine, có thể thay thế bằng NSAID để dự phòng, ví dụ indomethacin, 25mg ngày 2 lần. Dự phòng bằng colchicine có thể bắt đầu ngay ở đợt cấp của Gout. Giảm lượng acid uric Mục tiêu điều trị là giữ mức acid uric ở khoảng 5-6 mg/dL Trong nhiều trường hợp, các bệnh nhân bị đợt Gout cấp lần đầu cần phải được điều trị bằng các thuốc hạ Uric Acid, do nguy cơ tái phát những đợt cấp về sau và do nguy cơ hình thành những tophi phá hủy ở xương và bao hoạt dịch, ngay cả khi không có những đợt viêm cấp. Trong tất cả các trường hợp, nguy cơ và lợi ích cần được cân nhắc dựa trên từng bệnh nhân. Ví dụ, ở một bệnh nhân cao tuổi có nhiều bệnh lý đi kèm và suy thận, nguy cơ khi dùng thuốc để hạ Acid Uric có thể cao hơn lợi ích mà nó đem lại. Nguy cơ xảy ra đợt Gout cấp thứ 2 sau đợt đầu tiên là 62% sau 1 năm, 78% sau 2 năm, và 93% sau 10 năm. Điều trị bằng colchicine đơn độc có thể phòng ngừa những đợt Gout cấp nhưng không ngăn cản được việc tích lũy Acid Uric trong các khớp có thể dẫn đến việc phá hủy khớp sau này. Mặc dù việc sử dụng các chất làm hạ Acid Uric là quan trọng, không nên bắt đầu dùng chúng ngay trong đợt Gout cấp vì có thể làm cho đợt cấp nặng hơn và kéo dài lâu hơn. Chỉ nên dùng
  5. chúng vài tuần sau khi đợt cấp đã lui và dưới sự bảo vệ của colchicine để đề phòng tái phát một đợt cấp mới. Nếu xảy ra một đợt Gout cấp khi bắt đầu dùng một loại thuốc hạ Acid Uric, không nên ngưng thuốc này lại vì điều này sẽ khiến cho lượng uric acid càng tăng nhiều hơn và làm đợt Gout nặng và kéo dài hơn. Các thuốc nhóm khác Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDS) NSAIDS là thuốc được dùng ở các bệnh nhân không có những bệnh khác đi kèm. Indomethacin là chọn lựa kinh điển nhưng tránh dùng cho bệnh nhân lớn tuổi, vì thường gây những tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương. Tuy nhiên, có thể dùng hầu hết các loại NSAIDS. Nên chọn loại thuốc có tác dụng nhanh, nhưng không nên dùng aspirin vì nó làm thay đổi lượng acid uric, kéo dài và làm tăng cường độ đợt gout cấp. Các thuốc ức chế Cyclooxygenase-2 (COX-2) cũng đem lại kết quả điều trị tốt. Khởi đầu với liều cao trong 2-3 ngày rồi giảm liều dần xuống trong vòng 2 tuần. Bệnh nhân phải hết đau ít nhất 2 ngày trước khi ngưng NSAIDS. Chú ý: Tránh dùng NSAIDS trên bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày tá tràng hoặc xuất huyết tiêu hoá, bệnh nhân suy thận, bệnh nhân rối loạn chức năng gan, bệnh nhân đang dùng coumarin (có thể thay thế bằng thuốc ức chế COX-2), và những bệnh nhân nặng ở khoa săn sóc đặc biệt có nguy cơ viêm dạ dày do stress. Corticoids Có thể sử dụng cho những bệnh nhân không dùng được NSAIDS hoặc colchicine. Một số chuyên gia khớp học khuyên dùng corticoids thay vì NSAIDS trong điều trị Gout cấp. Corticoids có thể dùng đường uống, tiêm
  6. tĩnh mạch, tiêm bắp, tiêm nội khớp, hoặc dùng gián tiếp qua trung gian hormon adrenocorticotropic (ACTH). Dùng corticoids tiêm không mang lại ưu điểm nào hơn trừ trường hợp bệnh nhân không thể dùng được thuốc uống. Tiêm corticoids nội khớp đặc biệt hữu ích khi bệnh nhân chỉ đau ở một khớp để tránh tác dụng toàn thân của corticoids uống. Cần đảm bảo là không có tình trạng nhiễm trùng khớp trước khi tiêm nội khớp. Có thể dùng ACTH liều 40 IU tiêm bắp để thúc đẩy sự sản xuất corticoid bằng chính tuyến thượng thận của bệnh nhân. Dùng thuốc này không cần giảm liều từ từ như đối với prednisone. Probenecid Một số nhà khớp học chọn dùng probenecid vì ít gây tác dụng phụ hơn allopurinol. Probenecid có thể dùng ở đa số đàn ông bị Gout, tuổi trung niên, khoẻ mạnh. Chỉ định dùng allopurinol thay vì probenecid khi có suy thận (GFR Probenecid có thể tương tác với một số thuốc khác. Bệnh nhân dùng probenecid cần uống 2 lít nước mỗi ngày khi bắt đầu điều trị để bảo đảm đủ nước tiểu tránh nguy cơ sỏi thận. Sulfinpyrazone Sulfinpyrazone là một chất làm tăng bài tiết Acid Uric qua nước tiểu có tác dụng kháng tiểu cầu nhưng ít dùng vì nguy cơ ức chế tủy xương. Allopurinol Allopurinol ngăn chặn xanthine oxidase và làm giảm sản xuất Acid Uric. Do đó, nên được dùng ở các bệnh nhân sản xuất quá nhiều Acid Uric và bệnh
  7. nhân có nguy cơ hội chứng phân giải khối u (tumor lysis syndrome) để đề phòng ngộ độc thận trong khi đang điều trị ung thư. Đây là thuốc hiệu quả nhất để làm giảm lượng Acid Uric trong huyết thanh. Tuy nhiên, rượu có thể làm giảm hiệu quả của allopurinol. Khoảng 3-10% bệnh nhân dùng allopurinol bị khó tiêu, nhức đầu, tiêu chảy hoặc nổi sẩn, mẩn ngứa. Hiếm gặp hơn là trường hợp phản ứng quá mẫn với allopurinol với tỉ lệ tử vong khoảng 20-30%. Các biểu hiện của phản ứng quá mẫn là sốt, hoại tử biểu bì nhiễm độc, suy tủy, tăng eosinophil, phản ứng bạch cầu, suy thận, suy gan, và viêm mạch máu. Corticoids thường được dùng trong trường hợp phản ứng quá mẫn. Phản ứng quá mẫn với allopurinol thường gặp ở bệnh nhân suy thận, bệnh nhân dùng lợi tiểu, và bệnh nhân khởi đầu bằng viên allopurinol hàm lượng 300 mg. Allopurinol cần được ngưng khi bệnh nhân nổi sẩn ngứa. Trong đa số trường hợp nên bắt đầu bằng liều 100mg mỗi ngày và điều chỉnh liều mỗi tháng tùy theo mức Acid Uric cho đến khi đạt mục tiêu 5-6 mg/dl. Lưu ý vấn đề tương tác thuốc. Ví dụ, allopurinol kéo dài thời gian bán hủy của azathioprine và 6-mercaptopurine, làm tăng độc tính của của cyclophosphamide. Dùng chung với ampicillin tăng nguy cơ sẩn ngứa. Một khi mục tiêu Acid Uric đã đạt và giữ được ổn định trong 6 tháng, ngưng colchicine dự phòng đợt cấp. Nên tránh dùng các thuốc làm tăng Acid Uric ở bệnh nhân bị Gout. Tránh dùng lợi tiểu thiazide cho bệnh nhân Gout có tăng huyết áp. Tuy nhiên khi thuốc thực sự cần thiết, vẫn có thể dùng nếu điều chỉnh lại liều lượng allopurinol hoặc probenecid. Allopurinol có thể được dùng phối hợp với
  8. probenecid. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng allopurinol tăng thời gian bán hủy của probenecid và ngược lại, probenecid lại tăng đào thải allopurinol. Những chọn lựa điều trị khác bao gồm: Urate-oxidase không tái tổ hợp (uricase) được dùng ở châu Âu để đề phòng tăng Acid Uric máu nghiêm trọng do hoá trị ung thư, và cho bệnh nhân kháng với các điều trị gout thông thường. Gần đây Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê chuẩn aspergillus flavus uricase để dự phòng hội chứng ly giải khối u. Tuy nhiên, thuốc này có tính tạo miễn dịch rất cao và có thể gây sốc phản vệ. Bệnh nhân mẫn cảm với allopurinol thường dung nạp oxypurinol, là một chất chuyển hoá của allopurinol. Benzbromarone là một tác nhân tăng Uric-niệu hiệu quả. Tuy nhiên, nó có thể gây nhiễm độc gan cấp. Febuxostat, chất ức chế xanthine oxidase không purine chuyên biệt, là một thay thế có tiềm năng cho allopurinol để điều trị Gout. Dùng đường uống và được chuyển hoá chủ yếu ở gan. Ngược lại, allopurinol và những chất chuyển hoá của nó lại được bài tiết chủ yếu qua thận. Do đó, có thể dùng febuxostat cho những bệnh nhân suy thận mà không cần phải điều chỉnh liều. Hiệu quả và tác dụng phụ của febuxostat tương tự allopurinol. Chất ức chế thụ thể angiotensin losartan và chất hạ triglyceride-máu fenofibrate vi hạt có tác dụng Uric-niệu vừa phải. Do đó có thể dùng cho sbệnh nhân Gout có tăng huyết áp và tăng triglyceride máu. Vitamin C, với tác dụng Uric-niệu, có thể làm giảm nồng độ Acid Uric trong huyết thanh.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2