ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TIỂU LUẬN MÔN CÂY CÔNG NGHỆ HOA
VÀ CÂY CẢNH
Họ và tên: Trần Minh Tấn
Lớp KHCT K24
Phú Thọ – 2016
Đề tài: Anh, chị phân tích những thuận lợi, khó khăn đề xuất giải
pháp để phát triển sản xuất hoa-cây cảnh tại địa phương anh chị?
I. Tình hình phát triển hoa – cây cảnh trên thế giới
Bước vào thế kỷ 21, người tiêu thụ trên thế giới đã có những đòi hỏi
mới về chất lượng cuộc sống: Ngon với thức ăn bổ dưỡng hơn, đẹp với
những tiện nghi vật chất tinh thần phong phú hơn. yêu cầu ăn ngon,
sống đẹp ngày càng được xem trọng cho nên Hoa - Cây cảnh đã trở nên
một nhu cầu không thể thiếu trong mọi sinh hoạt: hoa sinh nhật, hoa thăm
hỏi, hoa tiệc cưới, hoa trang trí văn phòng, hoa tôn vinh lễ hội, hoa cho
ngày Cha Mẹ. hoa theo cả con người cho tận đến khi kết thúc cuộc đời
của mỗi người.
Chính vậy yêu cầu về hoa tăng rất nhanh một thị trường
rất lớn, kim ngạch lên đến gần 102 tỷ Mỹ kim (2003) với mức tăng trưởng
6% mỗi năm, cao gấp nhiều lần so với thị trường các loại nông sản khác
vốn được xem trọng như gạo, cà phê, chè (Bảng 1).
Bảng 1. Thị trường nhập khẩu thế giới và một số mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam vào năm 2007.
(Nguồn: FAO, http://unstats.un.org/unsd/default.htp)
Thị trường nhập
khẩu thế giới
Trị giá thị
trường nhập
khẩu, USD
Xuất khẩu Việt Nam
USD Thị
phần %
Rau & Quả 97.900.226.000 300.000.000 0,3
Hoa – Cây
cảnh 101.840.000.0001) 10.000.000 0
Gạo 9.249.026.000 1.489.970.000 16
Cà phê 7.548.041.000 1.911.463.000 25
Cao su 7.488.707.000 1.400.000.000 19
Chè 3.059.002.000 130.833.000 4
Hạt điều 1.569.312.000 653.863.000 41
Hồ tiêu 511.307.000 271.011.000 53
Thế giới 669.063.000.000 8.300.000.000 1,2
Note:1) www.theflowerexpert.com/content/flowerbusiness/floral-industry
Tuy nhiên tình hình sản xuất Hoa - cây cảnh trên thế giới ngày nay
đã nhiều chuyển biến. Những nước sản xuất hoa - cây cảnh vốn nổi
tiếng như Lan, Pháp nay đã trở thành những nước nhập khẩu cũng
thị trường tiêu thụ. Thay vào đấy, những nước đang phát triển, nơi lao
động đang còn rẻ giá trị đất chưa cao như Trung Quốc, Malaysia, Nam
Phi, Do Thái, Ấn Độ, Colombia, Kenya, Ethiopia Ecuador lại trở thành
những nước sản xuất xuất khẩu. Về mặt địa lý, thể nói Nam Phi,
Kenya Zimbabwe những đại gia xuất khẩu hoa - cây cảnh sang Âu
2
châu trong khi Colombia nước chủ chốt xuất khẩu sang Hoa kỳ. Á
châu, Malaysia, Đài Loan, Thái Lan, gần đây Trung Quốc những
nước xuất khẩu, phần lớn sang Nhật Bản. Nhìn chung, thị trường nhập
khẩu hoa - cây cảnh trên thế giới được phân phối như sau: Đức với 22 tỷ
đô la Mỹ, chiếm 22%; Hoa kỳ với 15 tỷ đô la Mỹ, chiếm 15%; Pháp Anh
với 10 tỷ đô la, chiếm 10%; Lan với 9 tỷ đô la, chiếm 9%; Nhật Bản với
6 tỷ đô la, chiếm 6%; Ý Thuỵ với 5 tỷ đô la, chiếm 5%. Giới chuyên
gia còn cho rằng các nước thuộc khối Đông Âu cũng sẽ trở thành nơi
sản xuất hoa - cây cảnh trong tương lai. Ngành hoa - cây cảnh được phát
triển tốt nhờ chất lượng hoa ngày càng được cải thiện, công nghệ sau thu
hoạch ngày càng cao, giao thông ngày càng tiện lợi. Điều này được
do sự thành hình của các khu, trung tâm nông nghiệp công nghệ cao,
(còn gọi Trung tâm Xuất sắc - Centre of Excellence), nơi các giống
hoa - cây cảnh được nghiên cứu theo dạng công nghệ cao, hội tụ các công
nghệ nông nghiệp tiên tiến của thời đại như công nghệ sinh học, công
nghệ nhà kính, công nghệ thủy canh bán thủy canh, công nghệ thông
tin, công nghệ sử dụng hiệu quả nước,… do chuyên gia của nhiều bộ môn
khác nhau tập trung cùng làm việc theo một quy chế thống nhất nhưng đơn
giản, giải quyết dứt điểm nhưng vẫn mang tính bền vững những vấn đề nổi
cộm của ngành hoa - cây cảnh.
Hoa cây cảnh tại Việt Nam chỉ mới được sản xuất trên một diện
tích rất nhỏ, khoảng 15.000 ha so với 4,5 triệu ha trồng lúa, gần 1 triệu ha
trồng cây công nghiệp 1,4 triệu ha trồng rau quả. Hoa sản xuất Việt
Nam chủ yếu tập trung 3 vùng: miền bắc (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Lào Cai,
Quảng Ninh), ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh (Hóc Môn, Củ Chi)
Lâm Đồng (Đà Lạt). Hoa sản xuất miền bắc chỉ mới cung cấp cho thị
trường Nội khoảng 65%. Chưa xuất khẩu. Hoa sản xuất Đà Lạt cung
cấp thị trường thành phố Hồ Chí Minh xuất khẩu ra nước ngoài như
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore với kim ngạch khoảng 10
triệu Mỹ kim (2005). Như vậy tuy ngành hoa Việt Nam đã phát triển
nhưng diện tích, số lượng chủng loại vẫn còn ít, chất lượng chưa cao
chưa đáp ứng được ngay cả với yêu cầu thị trường trong nước, chưa
nói đến thị trường nước ngoài. Việc xuất khẩu được nhờ các công ty
nước ngoài (Hasfarm) thực hiện. Về công nghệ cao ứng dụng trong ngành
hoa cây cảnh, Việt Nam cũng đã xây dựng một số hình nông nghiệp
công nghệ cao ở Hà Nội, Hải Phòng và Lâm Đồng.
Tại Hà Nội: Khu nông nghiệp công nghệ cao khởi công tháng 4/2002
đã hoàn thành đi vào hoạt động tháng 9/2004. Vốn đầu 24 tỷ đồng
(1,5 triệu USD), trong đó 50% vốn ngân sách thành phố 50% vốn
quan chủ quản Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Đầu phát
triển nông nghiệp Nội. Khu được xây dựng trên diện tích 7,5 ha với
5.500 m2 trồng dưa chuột, chua, ớt ngọt; 2.000 m2 trồng hoa, các giống
đều được nhập từ Do Thái. Với các tiến bộ mới về giống, quy trình chăm
bón, hệ thống dinh dưỡng khoáng tự động, ánh sáng nhiệt độ được
3
điều chỉnh, năng suất cây trồng đây đạt khá cao việc sản xuất bước
đầu được xem là hiệu quả.
Tại Hải Phòng: Dự án được thực hiện tại Mỹ Đức huyện An Lão
với tổng đầu 22,5 tỷ đồng. quan chủ trì Trung tâm phát triển Lâm
nghiệp Hải Phòng. Khu nông lâm nghiệp công nghệ cao Hải phòng đã
xây dựng các khu chức năng như: khu bảo tồn cây ăn quả đầu dòng
vườn ươm cây giống; khu sản xuất giá thể; khu nhà nuôi cấy tế bào;
khu nhà kính, khu nhà lưới sản xuất rau an toàn chất lượng cao; khu nhà
lưới sản xuất cây cảnh. Hiện nay, các khu nhà lưới, nhà kính sản xuất rau
hoa đã hoạt động cho sản phẩm được 2-3 vụ. Năng suất chua,
dưa chuột đạt 200-250 tấn/ha/năm, hoa hồng cũng đạt 200-300 bông/m2.
Tại Lâm Đồng: Từ đầu năm 2004 đã khởi động các chương trình
trọng điểm trong đó chương trình nông nghiệp công nghệ cao. Trong kế
hoạch phát triển từ 2004-2010 Lâm Đồng dự kiến xây dựng một số khu
nông nghiệp công nghệ cao với quy 15.000 ha. Các họat động chính
các khu này sản xuất rau, hoa, dâu tây chè. Tổng số vốn đầu
2.700 tỷ đồng, trong đó vốn hỗ trợ của nhà nước là 38 tỷ đồng.
Qua các hình nông nghiệp công nghệ cao được triển khai Việt
Nam, chúng ta thấy rằng ba khu nông nghiệp công nghệ cao được xây
dựng đều do các địa phương chủ trì xây dựng giao cho các doanh
nghiệp làm chủ đầu tư. Việc tiếp nhận đưa công nghệ cao vào sản xuất
phải được đầu lớn (xấp xỉ 0,5 triệu đô la Mỹ). Đây những khu sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao thực sự, nhất là của Hà Nội và Hải Phòng
vì có sử dụng các công nghệ mới, hiện đạinăng suất đạt được cũng rất
cao. Tuy nhiên đối tượng chính của hai nơi này rau hơn hoa. nếu
so sánh cách làm công nghệ của Đà Lạt, Lâm Đồng (trên diện tích 500 ha
trồng rau, hoa trong nhà mái che) hiệu quả của Nội Hải Phòng chưa
chắc được xác địnhcao hơn. Tuy nhiên ở các khu sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao này hầu như thiếu sự hợp tác của các cơ quan khoa học và
thiếu các nghiên cứu để tăng tính thích ứng của công nghệ. Ngay cả
Lâm Đồng nơi ngành hoa phần vượt trội về số lượng chất lượng
sự đầu của nước ngoài, các nhà sản xuất/nông dân đây cũng
không được chuyển giao công nghệ cao một cách bài bản, khoa học.
Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất hoa, cây cảnh:
đất đai rộng lớn, nhiều vùng sinh thái khí hậu khác nhau, nguồn lao
động dồi dào, sáng tạo, đã hình thành được hệ thống nghiên cứu với nhiều
quan khoa học uy tín, cùng với nhiều chính sách ưu đãi của Nhà
nước. Do vậy, chúng ta hoàn toàn thể đẩy mạnh phát triển sản xuất
hoa, cây cảnh hơn nữa. Tuy nhiên, ngành sản xuất hoa cây cảnh tại Việt
Nam cũng đối mặt vớikhông ít khó khăn thách thức: sản xuất tản mạn,
thiếu quy hoạch; liên doanh, liên kết còn thiếu yếu, trình độ kỹ thuật sản
xuất còn nhiều hạn chế; thương mại hóa quảng sản phẩm chưa
được chú trọng, trong khi phải cạnh tranh với các nước ngành hoa, cây
cảnh phát triểntrong khu vực (Thái Lan. Đài Loan…).
4
Nằm trọn vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên Việt Nam rất
nhiều lợi thế để phát triển hoa cây cảnh, đặc biệt tại một số địa phương
như Đà Lạt (Lâm Đồng), Mộc Châu (Sơn La), Điện Biên... điều kiện khí
hậu thuật lợi để hình thành các trang trại sản xuất hoa công nghiệp phục
vụ tiêu dùng nội địa xuất khẩu. Do đó, tiềm năng phát triển hoa cây
cảnh của Việt Nam rất lớn, tuy nhiên chúng ta chưa tận dụng được
những lợi thế này.
Theo số liệu thống của Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp Phát
triển nông thôn), tổng diện tích sản xuất hoa, cây cảnh cả nước gần
35.000 ha, diện tích này được phân bổ khá đều ở cả hai miền Nam, Bắc.
Cả nước khoảng hơn 22.600 ha hoa; trong đó, các tỉnh miền Bắc
có hơn 9.200 ha, miền Nam có khoảng hơn 13.400 ha; thu nhập bình quân
trồng hoa, cây cảnh trên cả nước 285 triệu đồng/ha/năm. So với giá trị
thu nhập/ha canh tác toàn ngành trồng trọt 82-83 triệu đồng/ha/năm,
mức thu nhập này gấp gần 3,5 lần.
Trong vòng 10 năm gần đây (2005-2015) diện tích hoa đã tăng hơn
2,3 lần, giá trị sản lượng tăng 7,2 lần, đạt 6.500 tỷ đồng; trong đó, xuất
khẩu xấp xỉ 50 triệu USD. Mức tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị hecta
là 3 lần, hình thành nhiều mô hình đạt từ 800 triệu đến 2,5 tỷ đồng trên một
hecta. Theo ông Trần Xuân Đinh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, kết quả
điều tra nhu cầu thị trường hoa, cây cảnh của Việt Nam cho thấy, giai đoạn
2000 - 2011 trung bình mỗi năm tăng 9%; giai đoạn 2011-2015 tăng trên
11%. Mức độ tiêu dùng hoa, cây cảnh trungnh của người dân đô thị đến
năm 2014 trên 130.000 đồng/người/năm. nông thôn, mức độ tiêu
dùng tương ứng chỉ bằng 20% so với đô thị, mức tăng bình quân về cầu
15%/năm. Các loại hoa thông thường, rẻ tiền được tiêu thụ quanh năm
tập trung vào giữa cuối tháng phục vụ nhu cầu tâm linh; mức tiêu thụ
đặc biệt cao trong các dịp lễ hội hoặc sự kiện trọng đại tăng rất lớn vào
cuối năm, mùa cưới Tết âm lịch. Bên cạnh đó, thị trường cây cảnh, cây
thế, cây bon sai, cây lá màu cũng phát triển mạnh đáp ứng nhu cầu trồng ở
công sở, khu đô thị mới, dải phân cách đường giao thông lớn… Đây sẽ
cơ hội lớn cho ngành hàng hoa, cây cảnh Việt Nam phát triển.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOA CÂY CẢNH Ở PHÚ THỌ
Phú Thọ tỉnh thuộc vùng đông bắc Việt Nam. Phía Bắc giáp tỉnh
Tuyên Quang Yên Bái, phía đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía đông
giáp huyện Ba - thành phố Nội, phía tây giáp tỉnh Sơn La, phía
nam giáp tỉnh Hòa Bình. Phú Thọ tỉnh nằm trong quy hoạch vùng
thủ đô Hà Nội.
Vị trí địa lý
Phú Thọ một tỉnh Trung du miền núi phía Bắc của Việt Nam, vị
trí trung tâm vùng cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Nội. Tỉnh
Phú Thọ nằm trên trục hành lang kinh tế Hải Phòng Nội Côn Minh
(Trung Quốc), phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Tây tiếp giáp thành phố
5