Tiểu luận " CƠ SỞ QUY HOẠCH VÀ KIẾN TRÚC" SV: Ngô Văn Đại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

TTIỂU LUẬN CƠ SỞ QUY HOẠCH VÀ

KIẾN TRÚC

Câu 1:theo cách hiểu ngày nay đô thị là gì?

Trình bày vài nét sự khác nhau cơ bản giữa

thành thị và nông thôn

Câu 2 : Đô thị hóa là gì? Trình bày vài nét cơ bản

về tình hình đô thị

hóa ở Việt Nam và trên thế giới.

Câu 3: Em có nhận xét gì về thành phố Hà Nội.

Bài làm:

2

Câu 1:theo cách hiểu ngày nay đô thị là gì?

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Trình bày vài nét sự khác nhau cơ bản giữa

thành thị và nông thôn

1.Đô thị

Là một không gian cư trú của cộng đồng người

sống tập trung và hoạt động trong khu vực kinh tế

phi nông nghiệp(từ điển bách khoa Việt Nam. NXB

Hà Nội,1995)

Đô thị là nơi tập trung dân cư.chủ yếu lao động phi

nông nghiệp sống và làm việc theo kiểu thành thị

Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ,chủ yếu là

lao động nông nghiệp,cơ sở hạ tầng thích hợp,là

trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên nghành có

vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của cả

nước,của một vùng trong tỉnh hoặc trong

huyện(thông tư 31/ttld,ngày 20/11/1990 của liên bộ

3

xây dựng và ban tổ chức cán bộ chính phủ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Như vật, đô thị là điểm dân cư tập trung với mật

độ ca,chủ yếu là lao động phi nông nghiệp có hạ tầng

cơ sở tích hợp là trung tâm tổng hợp hay chuyên

nghành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã

hội của cả nước,của cả một miền đô thị,một huyện

hoặc một đô thị trong huyện

ở nước ta một địa bàn hay khu vực nào đó được

gọi là đô thị phải đáp ứng một số tiêu chuẩn trong

đó có 3 yếu tố hàng đầu:

-Quy mô dân số tối thiểu 4000 người.

-Lao động phi nông nghiệp :60%

-Mật độ dân cư tối thiểu 6000 người/km2

Ở nước ta.dân cư đô thị thường được tính là

4

những người sống và làm việc ở nội thành,phần

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

ngoại thành thường là không tính là dân cư đô

thị.Nếu phân chia theo nghề nghiệp thì những người

làm nông nghiệp không tính vào dân cư đô thị,mà

xếp vào nông thôn.Ở thành phố Hồ Chí Minh trong 7

triệu dân hiện nay,dân cư đô thị chiếm 85%,nông

thôn là 15%

Hay ngoại thành,có thể thị trấn,thị tứ khi có cơ

hội đô thị hóa,từ đô thị mở rộng không gian và diện

5

tích cũng như

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

thu hút luồng di cư của dân không nhất thiết từ đô

thị trung tâm mà cả những vùng khác nhất là nông

thôn trong cả nước

1.1 Những đặc điểm kinh tế xã hội của đô thị

Thứ nhất,đô thị là nơi tập trung nhiều vấn đề có

tính toàn cầu:

-vấn đề môi trường:tốc độ tăng quá nhanh về

công nghiệp hóa và đô thị hóa dẫn đến phá hủy một

phần môi trường sinh thái về công nghiệp hóa và đô

thị hóa dẫn đến phá hủy một phần môi trường sinh

thái,gây ô nhiễm môi trường…trong khi khắc phục

các sự cố rất chậm chạp,không đầy đủ vì nhiều

nguyên nhân trong đó có nguyên nhân quan trọng là

6

tài chính hạn chế,nhận thức chưa đầy đủ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

- vấn đề dân số: tốc độ gia tăng quá nhanh về dân

số và dân số đô thị,hai hướng chuyển dịch dân cư là

chuyển dịch theo chiều rộng và theo chiều sâu diễn

ra song song.

-vấn đề tổ chức không gian và môi trường:quy mô

dân số đô thị tập trung quá lớn so với trình độ quản

lý,dẫn đến không điểu hòa gây bế tắc trong tổ chức

môi trường sống đô thị.

-Thứ hai,quan hệ thành thị và nông thôn luôn tồn

tạo,ngày càng trở nên quan trọng. -Thứ ba, hệ thống

thị trường đô thị với những đặc trưng riêng biệt:

-thị trường đô thị là một hệ thống hoặc địa điểm,ở đó

diễn ra việc mua bán,trao đổi hang hóa và dịch vụ.

-những thị trường chủ yếu của đô thị bao gồm:thị

trường lao động,thị trường đất và bất động sản,thị

trường giao thông,thị trường hạ tầng đô thị,thị trường

7

dịch vụ,thị trường tài chính.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Thứ tư,đô thị như một nền kinh tế quốc dân:vì đô thị

cũng được giới hạn về mặt hành chính,hoạt động

của nó có tính độc lập tương đối.

Thứ năm,đô thị mang tính kế thừa của nhiều thế hệ

cả về cơ sở vật chất.kinh tế và văn hóa.nền văn hóa

được kế thừa và phát triển với bản sắc dân tộc Việt

Nam

2.Sự khác nhau giữa thành thị và nông thôn

Về quy mô dân số: Quy mô dân số của đô thị lớn

hơn, mật độ dân cư đông đúc hơn so với nông thôn.

Ở nước ta theo quy định tại nghị định 72/2001/NĐ –

CP ngày 5/10/2001 các đô thị chia thành 5 loại, lớn

nhất là đô thị đặc biệt quy mô dân số từ 1,5 triệu trở

lên, mật độ dân số 15.000 người/km2 trở lên, nhỏ

nhất là đô thị loại 5, dân số từ 4.000 người trở lên,

mật độ dân số từ 2.000ng/km2 trở lên. Hiện nay ở

8

nước ta thủ đô HN và TPHCM là 2 đô thị đặc biệt có

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

quy mô và mật độ dân số cao nhất. Về các nhóm giai

cấp, tầng lớp xã hội thì ở đô thị đặc trưng chủ yếu là

giai cấp công nhân, ngoài ra còn có các tầng lớp giai

cấp khác như tư sản, thợ thủ công, viên chức, trí

thức, v.v... Còn đối với nông thôn thì đặc trưng chủ

yếu ở đây là nông dân, ngoài ra ở từng xã hội còn có

các giai cấp, tầng lớp như địa chủ, phú nông, nhóm

9

thợ thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, v.v...

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

1 góc thành phố hà nội

Nông thôn đông bằng bắc bộ

+ Về cơ cấu lao động và lĩnh vực sản xuất: chủ

yếu ở đô thị có đặc trưng là sản xuất công nghiệp; ngoài

10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

ra, còn có các lĩnh vực khác như dịch vụ, thương

nghiệp, sản xuất tinh thần, v.v... Còn đối với nông thôn

thì đặc trưng rõ nét nhất là sản xuất nông nghiệp; ngoài

ra, còn phải kể đến cấu trúc phi nông nghiệp bao gồm:

dịch vụ, buôn bán, tiểu thủ công nghiệp mà có vai trò

rất lớn đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.

+ Về cơ sở hạ tầng: cơ sở hạ tầng ở đô thị nhiều và

tốt hơn ở nông thôn

+ Về lối sống, văn hóa: thì đối với nông thôn

thường rất đặc trưng với lối sống văn hóa của cộng

đồng làng xã mà được phân biệt rất rõ ràng với lối sống

thị dân đặc trưng cho khu vực đô thị.

11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Cuộc sống thường ngày ở nông thôn

12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Cuộc sống thường ngày ở 1 góc phố hà nội

Đặc trưng này có rất nhiều khía cạnh để chỉ ra sự

khác biệt giữa đô thị và nông thôn: từ hệ thống dịch vụ,

13

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

sự giao tiếp, đời sống tinh thần, phong tục, tập quán, hệ

giá trị, chuẩn mực cho hành vi,... đến khía cạnh dân số,

lối sống gia đình, sinh hoạt kinh tế,... ngay cả đến hệ

thống đường xá, năng lượng, nhà ở đều nói lên đây là

hai cộng đồng có các khía cạnh văn hóa, lối sống tách

biệt nhau. Đây là đặc trưng cơ bản nhất về mặt xã hội

học khi phân tích sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn.

Chính đặc trưng này đã tạo ra bản sắc riêng, diện mạo

riêng cho ta phân biệt rõ nét hơn giữa hai hệ thống xã

hội đô thị và nông thôn.

Câu 2 : Đô thị hóa là gì? Trình bày vài nét cơ

bản về tình hình đô . thị hóa ở Việt Nam

và trên thế giới

2.1 Đô thị hóa là gì?

- Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ

lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên

tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực.

14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó

theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được

gọi là mức độ đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có

tên là tốc độ đô thị hóa.

Đô thị hóa là quá trình phát triển rộng rãi lối sống thị

thành thể hiện qua các mặt dân số, mật độ dân số, chất

lượng cuộc sống,...

Các nước phát triển (như tại châu Âu,Mĩ hay Úc)

thường có mức độ đô thị hóa cao (trên 80%) hơn nhiều

so với các nước đang phát triển (như Việt

Nam hay Trung Quốc) (khoảng ~30%). Đô thị các nước

phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị hóa

thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát

triển.

Sự tăng trưởng của đô thị được tính trên cơ sở sự gia

tăng của đô thị so với kích thước (về dân số và diện

tích) ban đầu của đô thị. Do đó, sự tăng trưởng của đô

thị khác tốc độ đô thị hóa (vốn là chỉ số chỉ sự gia tăng

15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

theo các giai đoạn thời gian xác định như 1 năm hay 5

năm).

2.2 tình hình đô thị hóa ở Việt Nam và trên thế giới

a.Đô thị hóa ở 1 số nước trên thế giới

Cùng với sự khác biệt về trình độ phát triển về

kinh tế là sự khác biệt về mức độ đô thị hóa

giữua các nước. Ở châu Âu có thể nhận ra sự khác

biệt về mức độ đô thị hóa dễ dàng, sự thay đổi mức

độ đô thị hóa trung bình đến mức độ đô thị hóa cao,

ngay trong cùng quốc gia cũng có sự biến đổi theo

từng vùng lãnh thổ.

Trong số các nước châu Âu có 12 nước có tỉ lệ dân

số đô thị hơn 75% là các nước kinh tế phát triển. các

nước đô thị hóa cao trong số các nước đang phát triển

là bỉ 97%, Lucxambua 91%, Hà Lan 90%, Anh 89%,

Đan Mạch 72% và CHLB Đức 88%. Như vây, các

16

nước đô thị hóa cao là các nước ở ven vành đai biển

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Bắcgồm 4 nước: Bỉ, Hà Lan, CHLB Đức và Đan

Mạch, thêm vào đó là Anh- đất nước trải dài trên Đại

Tâu Dương. Trong khi một số nước nhỏ ở châu Âu

như: Monaco 100% dân số sống ở đô thị, Malta 91%

dân số đô thị, Lucxambua 91%, các nước châu Âu

khác: Aixolen 94% có mức độ đô thi hóa cao cũng

như những đảo ở biển Bắc.

23 nước có tỉ lệ dân số đô thị từ 50%- 75% ví dụ:

Bộ Đầu Nha 54%

3 nước và quần đảo Chenen có tỉ lệ dân số đô thị

dưới 50% như: Anbani 42%, Bosnia Herzegovinia

43%, Mondova 45%, quần đảo Chenen là 31% là khu

vực kinh tế kém phát triển hơn.

Đô thị hóa ở các nước châu đại dương

Số dân đô thị ở châu Đại Dương chiếm 72% như

tỉ lệ dân số đô thị lại tập trung cao nhất vào một số

17

nước trong khu vực như: Nauru 100%, Ruam 93%,

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Úc 91%, Niudilan86%, Tân calê đônia 71%, Palau

70%, các nước này có tỉ lệ dân số đô thị cao. Ngược

lại trên các đảo Melanêsia và Polinêsia có mức đô thị

hóa thấp: Papua Niu ghi ne 13%, quần đảo Xalomon

16%, lien bang Micôronexia 22%, Tây Xoa na 22%,

Tonga 33%.

Châu Đại Dương chỉ có Úc là có 5 thành phố với

quy mô dân số trên 1 triệu. thành phố lớn nhất là

Xitni- thành phố cảng trung tâm kinh tế văn hóa,

thương mại lớn nhất của úc với dân số là 3,7 triệu dân

chiếm 25% số dân đô thị của toàn quốc.

Men buốc là trung tâm văn hóa lớn có 3,1 triệu dân

chiếm 21% dân số thành thị của cả nước. Brisbane là

cảng biển quan trọng; Perth là cảng biển phía tây,

Canberra là thủ đô của Úc nhưng là thành phố có quy

mô dân số nhỏ. Các thành phố ở phía Đông Nam và

18

có sự rang buột chặc chẽ với chính quốc (Anh). Phần

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

lớn người dân châu Đại Dương là người châu Âu 96%

dân số, riêng người Anh và người Ailen chiếm 77%

và người dân các nước khác di cư đến châu Đại

Dương qua các thời kì đặc biệt là “cơ sốt vàng” giữua

thế kỉ 19. cùng với công nghiệp khai thác vàng và

khai thác khoáng sản là sự phát triển các ngành công

nghiệp điện lực, luyện kim, chế tạo máy phát triển

mạnh. Công nghiệp của Úc đứng vị trí thứ 10 trên thế

giới làm cho dân số đô thị của nước này tăng lên

nhanh chóng.

Đô thị hóa ở khu vực Tây Âu

Khu vực đô thị hóa cao, đã ở giai đoạn kết.

Là khu vực diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp,

công nghiệp hóa cao là điều kiện để tiến hành quá

trình đô thị hóa.

Nước Anh:là nước có trình độ đô thị hóa cao, lịch

19

đô thị hóa lâu dài, chiếm 89% dân số đô thị và là một

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

nước duy nhất ở Tây Âu có nhiều thành phố có hơn 1

triệu dân như: Luân Đôn, Birminham, Manchester Và

Leed. Trong đó thủ đô Luân Đôn dân số hơn 7 triệu

ngừời. quá trình đô thị hóa ở Anh gắn liền với quá

trình phát triển cuộc cách mạng công nghiệp. sự phát

triển công nghiệp đa xlàm thay đổi nhanh chóng sau

sắc kinh tế -xã hội của nước Anh, những nơi đông dân

nhất của Anh tập trung vào vùng Tay Bắc nơi xuất

hiện hàng loạt các trung tâm công nghiệp mới:

Manchester, Birminham, Liperpoon. ở Anh có 60

thành phố hơn 10000 dân và có 25 thành phố 25.000

dân.

Quá trình đô thị hóa ở anh diễn ra nhanh chóng và

mạnh mẽ vào đầu thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20, hiện

nay đô thị hóa ở Anh đã vào giai đoạn kết tỉ lệ dân số

20

đô thị đạt tới 89% dân số cả nước. Xu hướng phát

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

triển ở Anh cũng như ở các nước phát triển là di cư từ

thành phố vào nông thôn.

Thành phố London (vương quốc anh)

-Áo là nước nhỏ ở Tây Âu, có diện tích 838km2 với

8,1 triệu dân năm 1995 và hầu như giữ nguyên dân

số đến năm 2005 (8,2 triệu dân). Áo là nước có dân số

đô thị tập trung và thủ đô Viên với mức cao nhất 1,8

triệu dân. Áo là quốc gia có hơn một nữa dân số song

ở đô thị nhưng là nước có dân số đo thị thấp ở Tây

21

Âu.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

-Pháp với số dân 58,1 triệu năm 1995; 60,7 triệu năm

2005. pháp có quá trình đô thị hóa lâu dài, tốc độ gia

tăng dân số đô thị rất nhanh, giữua thế kỉ 19 có ¾ dân

số là sống ở nông thôn. Nhưng đến 1901 có đến 40%

dân số sống ở đô thị; 2005 Pháp có 76% dân số đô thị.

Trong đó tập trung vào những vùng kinh tế ở phía

Đông và phía Bắc có nhiều siêu đô thị sầm uất.

Pải là siêu đô thị lớn nhất nước Pháp với 10 triệu dân

chiếm 23% dân số đô thị và chiếm khoảng 17% dân

số cả nước.

Macxay có số dân là 798,43 ngàn người, là thành phố

lớn thứ hai về dân số.

-Đức

Có trình độ đô thị hóa cao, lịch sử đô thị hóa lâu dài

với tỉ lệ dân số thành thị là 88% dân số toàn quốc,

trong đó có 20% dân số tập trung vào các thành phố

22

lớn trên 100000 dân

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Khu vực đô thị hóa lớn nhất là Essen chỉ chiếm 9%

dân số đô thị, sau đó là 3 thành phố lớn: Franfuot,

Béclin, và Colonho, tổng cộng 3 tnành phố này chiếm

14% dân số toàn quốc.

-Đô thị hóa ở khu vực Bắc Mĩ

ở lục địa Bắc Mĩ cả 2 nước Canada và Mĩ đều có mức

đô thị hóa cao những không có đô thị lớn đứng đầu

thế giới.

-Canada: đất nước có tỉ lệ đô thị hóa cao 79% dân số

đô thị. Có 4 thành phố lớn trên 1 triệu dân: Tôronto,

Montreal, vancuvo, Ottawa.

-Hoa kì: một siêu cường quốc về kinh tế, có trình độ

công nghiệp hóa cao, tỉ lệ dân cư đô thị chiếm tới 795

dân số toàn quốc. các thành phố lớn tập trung thành

một dãi từ boxton đến Oasinton, dãi đô thị này tập

trung đến 45 triệu dân kéo dài trên 750 km, rộng từ

23

100 đến 200 km. Các thành phố lớn của Hoa kì chủ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

yếu tập trung ở khu vực Đông Bắc và khu vực quanh

ngủ hồ. Đó cũng là những trung tâm công nghiệp nổi

tiếng của Hoa Kì.

24

Thành phố newyork (Mỹ)

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

- Ở Việt Nam, đô thị hoá đang diễn ra với tốc độ cao,

đặc biệt ở thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội.

Quá trình này vốn đã có từ lâu trong lịch sử nhưng thật

sự tăng tốc từ những năm đổi mới, 1986 đến nay. Tốc

độ đô thị hoá càng về sau càng lớn. Tuy vậy, việc

nghiên cứu về đô thị hoá chưa thực sự quan tâm đúng

mức. Trong những công trình đã có thường ít nghiên

cứu lý thuyết mà đa số mô tả, tổng kết thực trạng đô thị

hoá ở một số thành phố. Một số nghiên cứu cụ thể,

công phu của Viện Nghiên cứu kinh tế thành phố Hồ

Chí Minh rất đáng chú ý. Tham khảo các nghiên cứu

trong và ngoài nước, khái niệm đô thị hoá được đề cập

có thể chưa giống nhau nhưng thống nhất ở chỗ, có hai

thành tố luôn được nhắc tới.

- Một là, đô thị hoá là sự tăng lên của cư dân đô thị. Sự

tăng lên này theo 3 dòng chính: sự tăng dân số tự nhiên

của cư dân đô thị, dòng di dân từ nông thôn ra thành thị

và điều

25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

chỉnh về biên giới lãnh thổ hành chính của đô thị. Ba

dòng này có vai trò và vị trí khác nhau

theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

-Ở Malayxia, từ 1957 đến 1970, mức tăng dân số tự

nhiên chiếm tới 61% trong tổng mức dân số đô thị, các

yếu tố di cư và phân loại mỗi yếu tố chỉ đóng góp 20%.

Mười năm sau, 1980, tăng dân số tự nhiên chỉ còn 40%,

hai yếu tố di cư và phân loại đã tăng lên mỗi yếu tố

30%. Giai đoạn (1991-2000) tăng dân số tự nhiên vẫn

là yếu tố quan trọng nhất làm tăng dân số đô thị, đóng

góp tới 46%, trong khi mức tăng do phân loại đô thị chỉ

chiếm 21% và mức tăng dân số do di cư là 33%.

-Ở Trung Quốc, theo Guoming Wen, giai đoạn từ

năm 1971-1978 dân số đô thị tăng thêm 12,92 triệu

người, trong đó 49% từ nguồn tăng dân số tự nhiên,

41% từ nguồn di cư vào đô thị và chỉ có 10% là nguồn

dân bổ sung do thay đổi địa giới hành chính. Giai đoạn

từ 1978 đến 2000, dòng di cư chủ đạo từ nông thôn ra

thành thị ở giai đoạn này ngoài sự thu hút của đô thị với

26

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

nông thôn, còn có việc Chính phủ Trung Quốc thực

hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình làm cho mức

sinh giảm mạnh, nên dân số tăng theo mức sinh tự

nhiên giảm xuống. Người ta tính hai nguồn tăng dân số

tự nhiên và nhập cư chiếm tới 3/4 những thay đổi hành

chính lãnh thổ là 1/4 lượng dân số bổ sung của đô thị .

-Ở Hàn Quốc, theo Jung Duk nguồn gia tăng dân số ở

các đô thị chủ yếu là do di dân từ các khu vực nông

thôn lên thành phố, đây là nguyên nhân chính làm tăng

cư dân đô thị. Trong khi dân số quốc gia Hàn Quốc gia

tăng gấp 2 đến 3 lần trong vòng nửa cuối thế kỷ XX, thì

dân số 6 thành phố lớn nhất tăng bình quân 8,4 lần

27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

. -ở Hà Nội

-Ở thành phố Hồ Chí Minh, dân số đô thị tăng lên vẫn

theo 3 nguồn trên. Sự biến động của từng giai đoạn có

khác nhau. Do Nhà nước thực hiện kế hoạch hoá gia

đình và nhận thức của người dân nên tỷ lệ dân số tự

nhiên giảm dần:

- 1979-1989: 1,61%

28

- 1990-1995: 1,75%

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

- 1996-2000: 1,52%

- 2001 - 2005: 1,38%

Trong khi đó, tỷ lệ dân số tăng cơ học tăng dần:

- 1979-1989: 0,02%

- 1989-1999: 0,84%

- 2000 đến nay: 2,33% .

Để nhìn nhận vấn đề đô thị hoá ở thành phố Hồ

Chí Minh thông qua nguồn tăng dân số rõ hơn, nhóm

nghiên cứu đưa ra sơ đồ so sánh sự tăng dân số tự

nhiên và cơ học từng năm như sau:

Từ năm 1979 đến 1999, dân nhập cư luôn luôn ít

hơn dân số tăng tự nhiên. Nhưng từ năm 2001 đến

nay dân số nhập cư tăng đột biến gần 2 lần dân số

tăng tự nhiên. Đồng thời ta cũng thấy dân số đô thị từ

1979 đến 2006 luôn luôn tăng, càng về sau càng đột

biến. Năm 1979 dân số thành phố Hồ Chí Minh

khoảng 3.293.146 người, năm 2006, đã 7 triệu người.

29

Tuy nhiên qua từng giai đoạn, đô thị hoá có khác

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

nhau.

Quy hoạch tphcm

Hai là, đô thị hoá mở rộng không gian đô thị,

không gian kiến trúc. Mở rộng không gian đô thị là

một tất yếu đối với các đô thị trên thế giới trong quá

trình đô thị hoá. Đó cũng có thể, đô thị sát nhập vào

đô thị hoặc đô thị hoá mở rộng đô thị ra ngoại thành

30

hoặc lân cận. Mở rộng không gian đô thị cũng mang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

tính lịch sử, tuỳ từng quan niệm của mỗi quốc gia.

Quá trình tập trung dân cư cao và yêu cầu phát

triển của đô thị trong điều kiện phát triển kinh tế - xã

hội, thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều lần phải mở

Dân

Diện

số dân GDP

diện

Thành phố số GDP

tích

(triệu (2004)

(km2)

người)

rộng không gian đô thị, đáp ứng yêu cầu đô thị hoá

và phát triển.

Sau ngày 30/4/1975, thành phố Hồ Chí Minh có

diện tích 1.295,56km2 dân số 3.498.120 người, được

chia gồm nội đô Sài Gòn - Chợ Lớn. Vùng ven đô,

31

ngoại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

New 780 7,0 284,7

York (Mỹ)

Seoul (Hà 605 10,3 198,0

n Quốc

196,0 Los 1.20

Angeles (Mỹ) 0

3 191 Osaka (Nh 204

ật Bản)

6,8 164 Hồng 1.10

Kông (Trung 3

Quốc

Toronto ( 632 4,3 141,9

Canada)

Thành phố 2.09 7,0 10,0

Hồ Chí Minh 5,01

thành (gồm các huyện thuộc tỉnh Gia Đình trước

đây).

32

Dưới thời Mỹ - Ngụy, có 11 quận nội thành. Sau

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

năm 1975 thay đổi địa giới còn 8 quận, đồng thời lập

thêm 4 quận vùng ven mới. Đó là Gò Vấp, Phú

Nhuận,

bảng diện tích dân số, tổng thu nhập một số thành

phố trên giới thế

Theo http://antg.cand.com.vn ngày 21/6/06

Bình Thạnh, Tân Bình. Diện tích nội thành và vùng

ven là 142,7 km2 chia ra 267 phường. Vùng ngoại

thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi,

Bình Chánh, Nhà Bè. Với diện tích: 1.152,8km2 chia

ra 77 xã.

Năm 1978, thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận

thêm 2 huyện duyên hải (nay là Cần gìơ) của tỉnh

Đồng Nai. Với diện tích 714km2, có bờ biển 15 km.

33

Năm 1997, 4 quận vùng ven đô thị hoá đã ổn định.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Không gian đô thị lại mở rộng lần nữa. Lần này nội

thành có 12 quận và 05 quận ven là: Quận 12, 7, 2, 9

và Thủ Đức.

Quá trình đô thị hoá ở thành phố Hồ Chí Minh

với tốc độ chóng mặt, 5 quận mới này sau chưa đầy

10 năm, nhiều quận đất nông nghiệp đã hết, quá trình

đô thị hoá vẫn tiếp diễn. Năm 2003, thành phố lại mở

địa giới đô thị lần nữa, quận Tân Bình trở thành quận

vùng ven thứ 6. Theo tốc độ đô thị hoá như hiện nay,

khu vực đô thị lại tiếp tục mở rộng trong thời gian

không xa và các quận vùng ven lại tiếp tục xuất hiện.

Diện tích toàn thành phố liên tục tăng, năm

199012 chỉ 11km2, nhưng sau năm 1975 diện tích

thành phố đã tăng hơn 100 lần. Và đến nay đã tăng

hơn 300 lần. Do nhiều nguyên nhân, trong đó có áp

lực đô thị hoá trong lịch sử. Với diện tích như hiện

nay, thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị có diện

34

tích lớn hơn nhiều thủ đô, thành phố nổi tiếng trên

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

35

thế giới.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

1 góc thành phố busand (Hàn Quốc)

Như vậy, đô thị hoá biểu hiện dễ thấy là sự mở rộng

không gian đô thị, không gian kiến trúc và sự tăng

lên của dân nhập cư từ nhiều luồng khác nhau tạo

36

nên sự tập trung dân cư lớn trong m ột th ời gian nh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

ất đ ịnh . Dân cư vùng đô thị hoá ở thành phố Hồ Chí

Minh trước hết là cư dân vùng được đô thị hoá, hai là

dân cư di chuyển từ nội thành ra vùng ven do vùng

nội thành quá tải hoặc đến vùng ven lập nghiệp phát

triển kinh tế. Một luồng dân cư rất lớn chảy về từ

nông thôn tất cả các vùng trong cả nước . Do đó, về

mặt dân cư có thể xem đô thị hoá là một quá trình

phức tạp bố trí lại dân cư, sắp xếp lại lao động. Đô

thị hoá nhanh chóng làm cho đô thị ổn định nhanh lại

phải tiếp tục mở rộng không gian ra vùng ven. Đó là

một quá trình liên tục. Quá trình này chỉ kết thúc khi

đô thị đã đi vào ổn định.

Câu 3: Em có nhận xét gì về thành phố Hà Nội.

May mắn hơn với những đứa bạn học cùng hồi phổ

thông, tôi được học đại học ở Hà Nội. Một đứa nhà

quê quanh năm chỉ gắn liền với đồng ruộng; tiếp xúc

37

với những người nông dân hiền lành chất phác;

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

một cuộc sống yên ả, không quá ồn ào. Chính vì thế

khi lên Hà Nội, những ngày đầu tôi thực sự vất vả

với việc phải thích nghi môi trường mới; con người

mới; cuộc sống mới. Nhưng dần dần rồi tôi cũng

hiểu; thích nghi được những cái mới ở Hà Nội và

chính những những cái “ mới” ấy làm tôi yêu Hà Nội

hơn. Và qua ba năm làm sinh viên thì Hà Nội đã ở

trong tôi.

Hà Nội trong tôi – Là những căn phòng trọ chật hẹp

chỉ hơn 10m2, với những người ở cùng không quen

biết đến từ các tỉnh khác; có những lần bị ốm nặng

được bạn bè cùng phòng chăm sóc, cảm thấy cảm

động vô cùng nhưng bên cạnh đó có những câu

chuyện bất đồng do không hiểu nhau luôn làm tôi

cảm giác mệt mỏi song bản thân vẫn luôn quan niệm

rằng có duyên thì mới ở với nhau. Vì thế tôi luôn

38

mỉm cười với những điều đó.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

1 góc nhà trọ

Hà Nội trong tôi – Là bốn mùa với những cung bậc

cảm xúc khác nhau. Mùa xuân đi ngắm những trồi

non nảy lộc của những hàng cây ven đường. Mùa hè,

Hà Nội ít cây xanh thêm thời tiết nóng nực làm cho

tôi luôn có cảm giác mệt mỏi và khó chịu; và rồi kéo

theo đó là những câu chuyện mất điện, mất nước liên

tục làm cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày gặp nhiều

39

phức tạp, cảm giác cái gì cũng ồn ào hơn. Có lẽ vì

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

thế tôi hay bị ốm khi vào hè. Thu đến Hà Nội mang

một sắc khác biệt hơn mọi nơi. Đi xe máy chậm

chậm hoặc đi bộ dọc theo phố Lê Thanh Nghị ngắm

cây hoa sữa đang khoe bông; tỏa hương thơm nồng.

Mùa đông lặng lẽ đến; những cơn gió thổi vi vu, lang

thang trên các con phố; nhìn những gánh hàng rong;

những quán nước ven đường…Bốn mùa với những

cảm xúc khác nhau nhưng mọi cái vẫn luôn đọng lại

trong tôi dù là nhỏ nhất

Hà Nội trong tôi – Là những lần đạp xe hoặc đi xe

máy lang thang khắp các phố phường; để ngắm và

cảm nhận những gì đang diễn ra trên những khu phố

ấy; cảm nhận cuộc sống ở Hà Nội, có đôi lúc ở đâu

đó Hà Nội ồn ào, náo nhiệt lắm nhưng có đôi lúc ở

một nơi nào đó lại yên tĩnh đến lạ kỳ. Càng đi nhiều,

càng khám phá được nhiều thứ muôn màu ở Hà Nội

40

hơn.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

Hà Nội trong tôi – Là những buổi chiều một mình

lang thang đi dạo một vòng từ cầu Chương Dương

sang cầu Long Biên để ngắm dòng sông Hồng chảy,

ngắm hòang hôn buông xuống sau đó về Tràng Tiền

mua kem và đi một vòng quanh Bờ Hồ; và cũng có

những buổi chiều mát của mùa hè cùng lũ bạn nô đùa

dưới ven sông Hồng, thả hồn tới cõi mênh mông.

Hà Nội trong tôi – Là những buổi chiều đi học về,

41

tắc đường đến nghẹt thở với những luồng khói từ đủ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

các loại xe xả ra; là những khi trời đổ cơn mưa dào,

một vài con đường lại chìm trong nước; là con sông

Tô Lịch ô nhiễm một màu đen, ngày nào cũng phải

đi qua.

Hà Nội trong tôi – Là những cuộc hò hẹn với các bạn

bè làm thiện nguyện; bè bạn quen qua online ở khắp

các vùng miền của đất nước. Chúng tôi gặp gỡ và

giao lưu với nhau; đưa các bạn đi chơi vài nơi ở Hà

Nội.

Hà Nội trong tôi – Là nơi có một mối tình đầu chóng

vánh với một người xa lạ nhưng đã có rất nhiều kỷ

niệm với nhau dưới những cơn mưa dào; dưới ngày

Hà Nội ngập lụt; những ngày nắng ấm;… và để rồi

mối tình ấy cũng đã tan biến về một nơi xa nào đó.

…………………………….

Đó là tất cả những gì mà tôi đã có với Hà Nội đến

bây giờ Thời sinh viên là những câu chuyện buồn vui

42

luôn đan xen; là những ngày chìm trong những

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG NGÔ VĂN ĐẠI _55CB2_MSSV:255655

khủng hỏang tinh thần; những cơn đau về bệnh tật.

Tất cả tưởng chừng như không thể vượt qua nhưng

chính những điều ấy, Hà Nội lại nằm sâu và chặt

trong lòng tôi hơn. Và đã không ít lần tôi đã muốn

rời xa Hà Nội bởi những mệt mỏi và cả những tính

tóan nhưng dường như mỗi lần quyết định rời xa thì

43

mọi ký ức của tôi với Hà Nội lại ùa về.