intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN:Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Giấy Bãi Bằng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập.Mở đầu --------* Tính cấp thiết của đề tàiKhác với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây, trong nền kinh tế

Chia sẻ: Nguyen Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:66

287
lượt xem
78
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

TIỂU LUẬN: Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Giấy Bãi Bằng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập .Mở đầu -------- * Tính cấp thiết của đề tài Khác với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, cạnh tranh vừa là một trong những đặc trưng cơ bản, vừa luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng của các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh. Do vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh luôn là một...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN:Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Giấy Bãi Bằng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập.Mở đầu --------* Tính cấp thiết của đề tàiKhác với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây, trong nền kinh tế

  1. TIỂU LUẬN: Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Giấy Bãi Bằng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập
  2. Mở đầu -------- * Tính cấp thiết của đề tài Khác với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đ ây, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, cạnh tranh vừa là một trong những đặc trưng cơ bản, vừa luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng của các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh. Do vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh luôn là một tron g những vấn đề quan trọng hàng đầu của các doanh nghiệp. Công ty Giấy Bãi Bằng, trong quá trình hình thành và phát triển của mình, đã dần dần thích ứng với môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, Với những cố gắng của Lãnh đạo Công ty cũng như của tập thể cán bộ công nhân viên, Công ty đ ã duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh, hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra hàng năm, doanh thu và lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo nộp ngân sách và nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên, trong một tương lai không xa, nền kinh tế thị trường nước ta tất yếu sẽ phải phát triển ngày càng hoàn thiện hơn, h ội nhập ngày càng nhiều hơn, sâu sắc hơn với kinh tế khu vực và thế giới ... Liệu Công ty Giấy Bãi Bằng còn có thể duy trì hoạt động như hiện nay, liệu công ty có thể đứng vững trước sự canh tranh ngày càng khốc liệt hơn của các doanh nghiệp khác, cả trong nước lẫn ngoài n ước. Để tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường mới đó, Công ty Giấy Bãi Bằng phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Vì vậy, nghiên cứu để nắm rõ thực trạng, nhận diện chính xác những mặt mạnh, mặt yếu về năng lực cạnh tranh hiện
  3. nay của Công ty, tìm ra những giải pháp đúng đắn nhằm nâng cao nhanh chóng năng lực cạnh tranh là một vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách của Công ty. Đề tài luận văn: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Giấy Bãi Bằng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập" được thực hiện nhằm mục đ ích góp phần nhỏ vào việc nghiên cứu ấy.  Đối tượng, phạm vi đề tài: Đề tài tập trung nghiên cớu chủ yếu về cạnh tranh, n ăng lực cạnh tranh. Đề tài được nghiên cứu ở phạm vi ngành giấy và chủ yếu tại Công ty giấy Bãi Bằng.  Mục đích, nhiệm vụ của đề tài: Góp phần tìm kiếm giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty giấy Bãi Bằng. Nhiệm vụ đề tài cần giải quyết gồm: Hệ thống hoá vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. - Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh của Công ty giấy Bãi Bằng. - Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty giấy Bãi Bằng. -  Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các ph ương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học, so sánh và mô hình hoá.  Kết cấu luận văn: Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn chia thành 3 chương.
  4. Yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển doanh nghiệp trong cơ chế th ị trường và hội nhập. 1.1 Những nội dung c ơ bản về cạnh tranh trong cơ chế thị trường. 1.1.1 Nhận thức chung về thị trường - Cơ chế thị trường: + Khái niệm thị trường: Th ị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông. Ngư ời có hàng hoá, dịch vụ đem ra trao đổi gọi là người bán, người có nhu cầu và khả năng thanh toán gọi là người mua. Trong quá trình trao đổi, giữa người mua và ngưới bán hình thành những mối quan hệ. Vì vậy, xét theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau, hình thành giá cả. Đứng trên phạm vi toàn xã hội, thị trường là một mạng lưới những người mua, người bán gặp nhau, nơi cung - cầu gặp gỡ và cân bằng, hoặc nói cách khác, thị trường xét theo nghĩa rộng là tổng hoà các quan hệ mua bán, cung cầu trên bình diện xã hội. Như vậy, đ ể hình thành thị trường, đ òi hỏi phải có các yếu tố cơ bản sau: Đối tượng trao đổi là hàng hoá, dịch vụ: đối tượng tham gia trao đổi là người mua, người bán: điều kiện thực hiện trao đổi là khả năng thanh toán, đ ịa điểm trao đổi: Các thể chế hoặc tập tục (lu ật ch ơi) để đảm bảo hoạt động mua bán an toàn, nhanh chóng. Trong lịch sử nhân loại, thị trường đã phát triển qua những nấc thang khác nhau: - Th ị trường cổ điển: Là thị trường có đầy đ ủ các yếu tố hàng hoá, dịch vụ, người mua, người bán, gắn với tính chất hoặc đặc đ iểm nào đó.
  5. - Th ị trường phát triển: Là thị trường mà người mua, người bán có thể cam kết, thực hiện mua bán nhưng không cần phải trực tiếp trao đổi hàng hoá. Đây là thị trường văn minh, khi người mua, người bán đã đạt tới độ tín nhiệm, quy mô mua bán lớn. - Th ị trường hiện đại: Là thị trường có người mua, người bán hàng hoá, dịch vụ (hữu hình, vô hình) người môi giới và các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Vì đối tượng mua bán khá ph ức tạp, do đó rất cần người môi giới, tư vấn, nhất là môi giới tư vấn tài chính. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, người ta mua bán hết sức thuận lợi. Mặc dù ở cách xa nhau về mặt địa lý, người ta vẫn có thể giao dịch, mua bán một cách mau lẹ thông qua các p hương tiện thông tin hiện đại. Th ị trường có vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ thị trường mà giá cả được hình thành như thước đo chung, là căn cứ khách quan để đ iều chỉnh hành vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất. Sở dĩ thị trường có vai trò to lớn vì nó có những chức năng cơ bản sau đây: - Chức năng thừa nhận: Thông qua quá trình trao đổi giữa người mua và người bán, tính hàng hoá của sản phẩm có thể được thừa nhận hoặc không được thừa nhận. Nếu được thừa nhận thì quá trình mua bán được giải quyết, sản phẩm trở thành hàng hoá. Nếu không đư ợc thừa nhận thì quá trình mua bán không được giải quyết, sản phẩm không trở thành hàng hoá. - Chức năng thực hiện: Sự thực hiện giá trị chỉ xảy ra khi quá trình trao đổi hàng hoá được thực hiện. Thông qua chức năng thực hiện các hàng hoá, dịch vụ mà hình thành nên giá cả hàng hoá, dịch vụ.
  6. - Chức năng điều tiết: Thông qua việc hình thành giá cả dưới tác động của quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh, nguồn lực xã hội được điều tiết một cách tự động từ n ơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi hiệu quả thấp sang n ơi hiệu quả cao. Ngoài ra, thị trường còn kiểm tra, đánh giá trình độ, năng lực tổ chức, quản lý của các nhà sản xuất kinh doanh và cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản lý. + Cơ chế thị trường: Là cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế thị trường. ở đó, các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường phát huy tác dụng. Ban đầu, cơ chế thị trường được Adam Smith khái quát và mô tả trong học thuyết của ông. Ông cho rằng, nếu bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tự do tiêu dùng, nhà nước không can thiệp vào kinh tế mà chỉ cần bảo đảm dịch vụ an ninh xã hội thì sẽ có một cơ chế tự nhiên, như một "Bàn tay vô hình", điều tiết cung - c ầu, điều tiết sản xuất tiêu dùng và cuối cùng giúp cho việc phân phối các tài nguyên khan hiếm của xã hội một cách hiệu quả nhất. Đó là th ị trường thuần tuý thị trường tự do cạnh tranh không có sự can thiệp của Nhà nước. Ngày nay, cơ chế thị trường tự do thuần tuý, hầu như không còn tồn tại. ở hầu khắp các Quốc gia áp dụng cơ chế thị trường, người ta đều sử dụng mô hình kinh tế hỗn hợp, tức là kết hợp cơ chế "Bàn tay vô hình" của thị trường với "Bàn tay hữu hình" - sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước vào nền kinh tế. Mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế có nhiều mức độ khác nhau, tuỳ theo từng Quốc gia. Như vậy, c ơ chế thị trường hiện nay gồm 3 thành tố: 1. Th ị trường hoạt động theo quy luật vốn có của nó, ai nhận thức được, làm đúng sẽ có lợi, ngược lại không nhận thức đ ược, không tôn trọng quy luật thị trường sẽ bị thua thiệt hoặc bị thị trường trừng phạt. Bằng cách này các yếu tố sản xuất, tài nguyên và kết quả sản xuất sẽ được phân phối theo quy luật thị trường.
  7. 2. Nhà nước can thiệp, điều tiết thị trường nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, cân bằng những vấn đề về kinh tế, xã hội, môi trường cơ chế thị trường hiện đại thể hiện rõ trong mô hình kinh tế hỗn hợp. Đó là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. 3. Người tiêu dùng, nhà doanh nghiệp - những tác nhân năng động của cơ chế thị trường - được hoạt động tự chủ nhưng phải tuân thủ quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của Nhà nước. Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật khách quan của thị trường, bao gồm: - Quy luật giá trị: Việc sản xuất hàng hoá phải trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, trao đổi phải bình đẳng, ngang giá. Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh phải tuân thủ quy lu ật này mới có thể tồn tại và phát triển. - Quy luật cung - cầu: Biểu hiện quan hệ giữa cung và cầu hàng hoá thông qua giá cả hàng hoá. Quy luật này tác động trực tiếp đến giá cả hàng hoá và phương hướng sản xuất, tiêu dùng của xã hội. - Quy luật canh tranh: Yêu cầu hàng hoá sản xuất ra phải có chất lượng tốt h ơn, chi phí thấp hơn, thái độ phục vụ văn minh hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh với các hàng hoá khác cùng loại. Như vậy có thể hiểu: Giá cả thị trường, cung - cầu hàng hoá và cạnh tranh là các bộ phận hợp thành chủ yếu của cơ chế thị trường. Các bộ phận này có quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, giá cả là cá nhân của thị trường , cung cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn, là sức sống của thị trường. 1.1.2 Khái niệm cơ bản cạnh tranh:
  8. Cạnh tranh (tiếng Anh là Competion) về mặt thuật ngữ được hiểu như là sự cố gắng giành thắng lợi, phần thắng về mình giữa những người những tổ chức hoạt động có những mục tiêu và lợi ích giống nhau trong kinh doanh, cạnh tranh được định nghĩa như là sự đua tranh giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm dành ưu thế trên cùng một tài nguyên, s ản phẩm hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình. Cạnh tranh: Là một trong những đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường, không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân theo những quy luật khách quan riêng của nó, trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc, thiết bị, công nghệ, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm để dành ưu thế so với đối thủ của mình. Kết quả là kẻ mạnh về khả năng vật chất và trình độ kinh doanh sẽ là người chiến thắng. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Nếu lợi nhuận thúc đẩy các cá nhân tiến hành sản xuất - kinh doanh thì cạnh tranh lại bắt buộc và thôi thúc họ phải đ iều hành các hoạt động sản xuất - kinh doanh một cách có hiệu quả nhất: + Tác động tích cực của cạnh tranh là: - Sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu. - Khuyến khích áp dụng các tiến bộ kỹ thuật. - Thoả mãn các nhu cầu của người tiêu dùng. - Thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất. + Tuy nhiên cạnh tranh cũng có tác động tiêu cực đó là: Trong sản xuất việc giữ bí mật không muốn chuyển giao công nghệ tiên tiến, là tình trạng ganh đua quyết liệt, "Cá lớn nuốt cá bé". Trong đời sống xã hội là sự tàn phá môi trường và sự tha hoá về đạo đức dễ xảy ra.
  9. 1.1.3 Các loại hình canh tranh: Cạnh tranh được xem xét dưới nhiều khía cạnh, nhiều hình thức khác nhau như: Cạnh tranh tự do, cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh không lành mạnh ... Các hình thức cạnh tranh phụ thuộc vào tính chất của thị trường và bản chất của nền kinh tế. - Cạnh tranh tự do: Được hiểu như là một nền kinh tế phát triển một cách tự do, không có sự can thiệp của Nhà nước, trong đó giá cả lên xuống theo sự chi phối của các quy luật thị trường, cùng với các quy luật kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật giá trị. Cạnh tranh tự do dẫn đến sự phân hoá 2 cực: Giàu nghèo rõ rệt. - Cạnh tranh hoàn hảo ( Perfect Competition) hay còn gọi là cạnh tranh thuần tuý (Pure Competition) là hình thức cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá là không đổi trong toàn bộ một đ ịa danh của thị trường; Các yếu tố sản xuất được tự do luân chuyển từ ngành này sang ngành khác; Chi phí vận tải không đáng kể và không đề cập tới. Cạnh tranh hoàn hảo xẩy ra khi không một người sản xuất nào có thể tác động đến giá cả trên thị trường. Mỗi người sản xuất đều phải bán sản phẩm của mình theo giá thịnh hành mà thị trường đã chấp nhận thông qua quan hệ cung - cầu. Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi có một số lớn doanh nghiệp nhỏ sản xuất một mặt hàng y hệt nhau và sản lượng từng doanh nghiệp quá nhỏ không thể tác động đến giá cả thị trường. Cạnh tranh hoàn hảo muốn tồn tại phải có các điều kiện. - Tất cả các hàng kinh doanh trong ngành đó có quy mô tương đối nhỏ. - Số lượng các hàng kinh doanh trong các ngành đó phải rất nhiều trong điều kiện như vậy không có Công ty nào đủ sức mạnh để có thể cos ảnh hưởng đến giá cả của các sản phẩm của mình trên thị trường. Sản phẩm của các hẵng đưa ra trên thị trường giống nhau tới mức cả người sản xuất và người tiêu dùng rất khó phân biệt.
  10. + Cạnh tranh không hoàn hảo: (Imperfect Competition) là hình thức cạnh tranh mà ở đó các cá nhân, người bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thể lực có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường. Cạnh tranh không hoàn hảo có 2 loại: Độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền. + Độc quyền nhóm (Oligopoly): tồn tại trong những ngành sản xuất mà ở đó chỉ cơ một số ít người sản xuất hoặc một số ít người bán sản phẩm. Sự thay đổi về giá của một doanh nghiệp, gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp khác và ngược lại. ở các nước phát triển các ngành công nghiệp có độc quyền nhóm là nh ững ngành như sản xuất ô tô, cao su, chế biến thép v.v. + Cạnh tranh mang tính độc quyền (Mono Polistics Competition): Là hình thức cạnh tranh mà ở đó nh ững người bán có thể ảnh hưởng đến những người mua bằng sự khác nhau của các sản phẩm mà mình sản xuất ra về hình dáng, kích thước, chất lượng và nhãn hiệu. Trong nhiều trường hợp người bán có thể bắt người mua chấp nhận giá sản phẩm do họ định ra. Trong hình thức cạnh tranh này có nhiều người bán và có nhiều người mua. Các sản phẩm của người bán về cơ bản là giống nhau song khác nhau về mẫu mã, chất lượng, màu sắc v.v. Các hãng kinh doanh thường có cố gắng tạo ra các sản phẩm của họ phong phú, có nhiều điểm khác biệt so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Trong ngành công nghiệp cạnh tranh kiểu này, quy mô của các doanh nghiệp có thể là lớn, vừa, nhỏ vì vậy nhập và bỏ ngành hàng dễ dàng hơn. + Cạnh tranh lành mạnh (Healthy Competition): Là hình thức cạnh tranh lý tưởng, trong sáng, thúc đẩy sản xuất phát triển, không có những thủ đoạn hoặc âm mưu đen tối trong sản xuất kinh doanh của các nhà doanh nghiệp, thể hiện phẩm chất đạo đức trong kinh
  11. doanh không trái với các quy định của văn bản pháp luật và không đi ngược lại lợi ích xã hội, việc tính toán thu lợi nhuận trên cơ sở cải tiến, sáng tạo để sản xuất và cung cấp cho xã hội nhiều sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ với chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. + Cạnh tranh không lành mạnh (Unfair Competition): Là hình thức cạnh tranh mà trong quá trình sản xuất và kinh doanh các nhà doanh nghiệp luôn có thái độ không trung thực, gian dối như: biếu xén, hối lộ để dành ưu thế trong kinh doanh, vu khống về chất lượng sản phẩm, hàng hoá của đối tác cạnh tranh; tung ra thị trường sản phẩm mang nhãn hiệu của đối thủ cạnh tranh, ngăn cản việc phân phối sản phẩm của đối thủ cạnh tranh bằng các hành vi trái pháp lu ật, sử dụng "Chiến tranh giá cả" để loại bỏ đối thủ cạnh tranh. - Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong mọi lĩnh vực và được biểu hiện đa dạng. Ngoài các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuần tuý còn xuất hiện các hành vi lạm dụng thế mạnh về kinh tế, tài chính để cạnh tranh thể hiện tính chất "Cá lớn nuốt cá bé" (như bán phá giá chẳng hạn). + Cạnh tranh bất hợp pháp (Fraudulent Competition): Là những hành vi của các nhà kinh doanh thực hiện cạnh tranh trái với quy định của pháp luật đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán truyền thống của kinh doanh lành mạnh, xâm phạm lợi ích của xã hội, của Nhà nước, của người tiêu dùng và của các nhà kinh doanh khác. + Có 2 loại cạnh tranh kinh tế: Là cạnh tranh trong sản xuất và cạnh tranh trong lưu thông. - Cạnh tranh trong sản xuất: Là cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản xuất - nó bao gồm cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch.
  12. Để có siêu lợi nhuận các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho chi phí sản xuất nhỏ hơn so với doanh nghiệp khác - Như vậy cạnh tranh trong nội bộ ngành chính là động lực cho sự phát triển tiến bộ kỹ thuật. Khác với cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất ở những ngành khác nhau nhằm mục tiêu tìm nơi đầu tư có lợi, là nh ững nơi có tỷ suất lợi nhuận cao - Điều này đảm bảo cho việc đầu tư vốn bình đẳng giữa các ngành tạo nhân tố cho sự phát triển. - Cạnh tranh trong lưu thông Là cạnh tranh trên lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hoá, cạnh tranh trong lưu thông gồm có cạnh tranh giữa người bán và người mua, người bán với người bán, người mua với người mua. Cạnh tranh giữa người bán với người mua chính là sự tác động qua lại giữa sức cung và sức cầu trên thị trường. Sự cạnh tranh này dẫn đến hình thành giá cả cân bằng trên thị trường. Cạnh tranh giữa người bán với người bán là cạnh tranh để làm cho giá cả hàng hoá có xu hướng giảm, còn cạnh tranh giữa người mua với người mua lại có tác động ngược lại thường làm cho giá cả tăng lên. + Cạnh tranh được coi như là một cuộc cạnh tranh kinh tế: Trong điều kiện đó doanh nghiệp muốn chiến thắng phải tìm ra các kỹ thuật tiến công phù hợp - Với một cách khác là phải có các biện pháp cạnh tranh. Ngày nay, người ta thừa nhận trong điều kiện kinh tế thị trường phải dựa vào cạnh tranh giá cả, chất lượng và điều kiện giao nhận.
  13. - Có thể hiểu cạnh tranh giá cả dưới hai giác độ: Giác độ tích cực là nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật nên tăng năng suất lao động, giảm chi phí và giảm giá cả xuống, do vậy hàng hoá được chấp nhận trên thị trường và doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh trạnh đó là cạnh tranh lành mạnh; Giác độ thứ hai của cạnh tranh giả cả là tìm cách bán phá giá thậm chí còn thấp hơn cả chi phí để đ ối thủ phải bỏ thị trường sau đó chiếm lại toàn thị phần và tự do lên giá đó là cạnh tranh không lành mạnh. - Trong nền kinh tế hiện đại, cạnh tranh bằng chất lượng trở thành then chốt, chất lượng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thoả mãn nhu cầu của hàng hoá về quy cách phẩm chất, kiểu giáng v.v. làm cho người tiêu dùng thoả mãn. - Một vấn đề khác trong cạnh tranh là vấn đề điều kiện giao nhận như đảm bảo thời gian giao hàng, phục vụ sau bán hàng. - Ngoài ra quảng cáo là biện pháp cạnh tranh thông dụng ngày nay. Qua quảng cáo, hàng hoá đi vào tâm lý người tiêu dùng và từ đó chiếm lĩnh được thị trường. Tóm lại cạnh tranh là môi trường tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường, không có cạnh tranh sẽ không có tính năng động và sáng tạo trong hoạt động sản xuát - kinh doanh. Song xã hội dần dần sẽ chấp nhận hành vi cạnh tranh lành mạnh bằng các ph ương thức sản xuất và vận chuyển hàng hoá một cách khoa học hiệu quả chứ không thừa nhận hành vi cạnh tranh bằng cách dựa vào các thủ đoạn lừa đảo, không trong sáng. 1.1.4 Tiêu chí xác định sức mạnh cạnh tranh: Sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá của một doanh nghiệp có thể biểu thị d ưới dạng quan hệ theo tương quan tỷ lệ thuận nghịch sau đây:
  14. L K = ---- + M + F P Trong đó: K: Là năng lực cạnh tranh L: Là chất lượng sản phẩm P: Giá cả hàng hoá, sản phẩm M: Các tác nhân trong thị trường F: Các chính sách tác động vào thị trường và tiếp thị. Chúng ta lần lượt xét các yếu tố sau: 1.1.5 Các yếu tố tác động cạnh tranh: Thứ 1: Chất lượng hàng hoá (L) quyết định và tỷ lệ thuận với sức cạnh tranh. Thứ 2: Giá cả (P) : Theo quy luật cung - cầu thị trường được hình thành từ các hệ thống cung và cầu. Sự tương tác cung - cầu sẽ dẫn đến sự hình thành giá cả và quyết đ ịnh số lượng hàng hoá được trao đổi (gọi là giá cả cân bằng). Thứ 3: Các tác nhân trong thị trường (M) bao gồm: + Người mua: Là tác nhân chủ yếu trên thị trường và họ là khách hàng tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp. Họ có thể là cá nhân hay là các tổ chức tập thể. Thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu của họ luôn là mục tiêu hoạt động của các tác nhân khác (nhà cung cấp, nhà phân phối) trên thị trường.
  15. + Người cung cấp: Đây là kh ởi nguồn của dòng vận động hàng hoá đưa ra th ị trường để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Họ là nguồn cung sản phẩm và là những người sản xuất (hàng nội) hay là các nhà nhập khẩu (hàng ngoại). + Người phân phối: Đây là khâu trung gian giữa người cung cấp và người mua. Họ có vai trò chủ yếu trong thị trường vì nhờ có họ mà cung gặp được cầu. Hoạt động chủ yếu của họ là kinh doanh thương mại và bao gồm: Nhà bán buôn, nhà bán lẻ, đại lý. + Các tác nhân khác: Đây là những tác nhân quan trọng có ảnh hưởng tới môi trường hoạt động của doanh nghiệp bao gồm: - Nhà nước có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng thông qua việc ban hành hệ thống văn bản pháp quy chính sách nhằm tạo ra môi trường chính trị, pháp luật và kinh tế vĩ mô cho hoạt động của các doanh nghiệp. Đặc biệt chính sách tài khoá của Chính phủ ảnh hưởng tới cung - c ầu hàng hoá hoặc là chính sách đầu tư c ũng vậy. - Các cơ quan tài chính như ngân hàng, bảo hiểm thông qua các quy định về tín dụng, lãi suất, tỷ lệ bồi thường thiệt hại v.v. Các cơ quan này có thể ảnh hưởng đến sự phân bổ ngân sách cho tiêu dùng hay tiết kiệm đến giá cả hàng hoá. Từ đ ó đến sức mua, đến quan hệ cung - c ầu trên thị trường. - Các cơ quan Quốc tế có ảnh hưởng rất lớn tới điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp. Các cơ quan này gồm các c ơ quan Liên hiệp quốc (UMCERP, UNFPA, UNDP, FAO ...) và các cơ quan tài chính Quốc tế (IMF, WB, ADB ...). Các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực. Ví dụ: Các dự án của ADB cho Việt nam vay tiền làm đ ường sẽ tăng cầu về vật liệu xây dựng và về ôtô, xe máy v.v. - Các tổ chức tư nhân như nghiệp đoàn, các hội.
  16. Thứ 4: (F): Các chính sách th ị trườn g và tiếp thị bao gồm: + Xác đ ịnh thị trường mà doanh nghiệp h ướng tới: Có những hoàn cảnh khó khăn xảy ra cho doanh nghiệp thị trường co hẹp lại, cạnh tranh gay gắt, cần biến đổi, trong tình hình đó mục tiêu của doanh nghiệp chỉ là tồn tại được trên thị trường hay là duy trì cho doanh số hay thị phần không giảm đi. Ngoài những trường hợp này đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện một chính sách phòng ngự để bảo về thị trường đã có, và nếu muốn phát triển, doanh nghiệp phải xác định thị trường mà doanh nghiệp mu ốn xâm nhập. - Xâm nhập vào thị trường của các giới cạnh tranh: Với các mục tiêu này doanh nghiệp thu hút các khách hàng hiện đang tiêu thụ sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, chính sách này hợp với các doanh nghiệp có ưu thế mạnh đối với các đối thủ cạnh tranh: Như chất lượng, giá cả, thị hiếu tiêu dùng v.v. - Phát triển thị trường với các khách hàng tiêu dùng mới. Trong trường hợp này doanh nghiệp tìm trong thị trường những vị trí chưa có các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh hoặc vì một lý do nào đó mà họ bỏ qua. Để đạt được mục đích này, doanh nghiệp phải áp dụng một số phương pháp tiếp thị thích hợp, như chính sách xúc tiến bán hàng hạ giá, đ ổi mới. + Phân đoạn thị trường đ ể nhằm xác định đoạn thị trường mà doanh nghiệp hướng tới. Người ta thường căn cứ vào một số tiêu chuẩn để phân doạn thị trường: Như về địa lý, về dân số - x ã hội, tâm lý, hành vi tiêu dùng. + Định vị sản phẩm: Vừa thiết kế một sản phẩm vừa tạo ra cho nó một hình ảnh đối với khách hàng để cho trong tâm lý người này có một vị trí nhất định (rõ và cá biệt) so với
  17. các sản phẩm cạnh tranh vì trong đ oạn thị trường mà doanh nghiệp chọn có rất nhiều sản phẩm cùng loại hoặc có khả năng thay thế so với sản phẩm của doanh nghiệp. + Chính sách tiếp thị: Chính sách này bao gồm 4 chính sách, bộ phận, được gọi là "4 P" tức là viết tắt của (tiếng Anh) Product: Sản phẩm, Price: Giá, Promotion: Xúc tiến bán hàng, Place: Điểm phân phối. - Chính sách giá cả: Vùng giá, điều kiện thanh toán, chế độ tín dụng. - Xúc tiến bán hàng: Đây là việc lựa chọn các phương tiện chủ yếu để thông tin và gây ảnh hưởng đến khách hàng của doanh nghiệp: Quảng cáo, xúc tiến bán, giao tiếp, lựa chọn bán hàng. - Chính sách phân phối: Cách giao hàng, kỹ thuật bày bán hàng, kho hàng, tổ chức kho tàng, chu trình phân phối v.v. 1.1.6 Các công cụ cạnh tranh chủ yếu được sử dụng trong nền kinh tế thị trường: Để nâng cao hệ số biểu thị sức cạnh tranh (K) hiện nay trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp thường sử dụng những công cụ sau đây: Một là + Chất lượng hàng hoá: Đây là công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để thắng các đối thủ cạnh tranh. Hai là + Giá cả hàng hoá: Giá cả hàng hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá song sự vận động của giá cả còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Mức sống còn thấp, người tiêu dùng tìm mua những hàng hoá có giá rẻ, ng ược lại khi
  18. mức sống cao h ơn người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều đến hàng hoá có chất lượng tốt, chấp nhận mức giá cao. Ba là + áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại: Thực tiễn đã chứng minh các doanh nghiệp tồn tại và phát triển được cần có dây chuyền công nghệ mới, hiện đại, có phương pháp quản lý khoa học. Bốn là + Thông tin: Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá cả, đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Năm là: Phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Đây là công cụ rất quan trọng để chiến thắng trong cạnh tranh. Đây chính là khâu phục vụ trước, trong và sau khi bán hàng : Bao gồm tiếp thị, quảng cáo, mời khách, thanh toán linh hoạt v.v. Sáu là: Tính độc đoán sản phẩm: Sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã, nhãn hiệu hàng hoá cũng như việc không ngừng nâng cao chất lượng tính năng hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển hiện nay. Bảy là: Chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp: Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm dành dật khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toán nh ư quy ước về giá cả, số lượng, kích c ỡ, mẫu mã bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc thanh toán bằng ph ương thức bán trả góp, bán chịu, bán gối đầu v.v.v Những hành vi này sẽ được thực hiện tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh.
  19. Tám là: Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro: Trong kinh doanh lợi nhuận doanh nghiệp thường tỷ lệ thuận với sự mạo hiểm, rủi ro. Trong kinh doanh sử dụng có hiệu quả công cụ này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải có tài n ăng và bản lĩnh. + Các tiêu chí để đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp trên thị trường bằng các tiêu chí sau: Chất lượng, giá cả hàng hoá bán trên thị trường cao hơn hay th ấp hơn các doanh nghiệp khác, dịch vụ và các điều kiện phục vụ việc mua, bán hàng hoá thuận lợi hay không thuận lợi, chi phí thấp hay cao hơn các doanh nghiệp khác. Khi đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp người ta thường xem 3 tiêu chuẩn hàng đầu là chất lượng sản phẩm, giá c ả và những điều kiện giao hàng đối với sản phẩm đó. + Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao xác nhận các chỉ tiêu như: Tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ, hiệu quả kinh doanh dịch vụ và điều kiện phục vụ việc mua (bán) hàng hoá, dịch vụ, chi phí dịch vụ và điều kiện phục vụ. + Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao có nghĩa là hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp phải có chất lượng cao h ơn các doanh nghiệp khác, dịch vụ và điều kiện mua (bán) hàng hoá thuận tiện hơn, chi phí thấp hơn các doanh nghiệp khác. 1.2 Quan điểm của Nhà nước ta về cạnh tranh chuẩn bị cho hội nhập Quốc tế: Đánh giá về tình hình nền kinh tế nước ta, bên cạnh những thành tựu đạt được, nghị quyết đại hội IX nêu rõ những yếu kém như sau: "Nền kinh tế phát triển chưa v ững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả trong nước và nước ngoài, một phần do thiếu sức cạnh tranh". Trên cơ sở đánh giá
  20. tình hình, Ngh ị quyết đại hội Đảng IX cũng đã nêu rõ định hướng phát triển của nền kinh tế trong đó nhấn mạnh việc nâng cao sức cạnh tranh như sau: "Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 là bước rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược 10 năm 2001 - 2010 nhằm: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế". Để chuẩn bị cho hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập AFTA, trong các giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, Nghị quyết đại hội Đảng IX nhấn mạnh "Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển ... từng ngành, từng doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện các cam kết quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, mở rộng thị phần trên những thị trường truyền thống, khai thông và mở rộng thị trường mới". Tóm lại: Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta rất quan tâm và đã có những định hướng cho cả nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng về nâng cao năng lực cạnh tranh để hội nhập thành công nền kinh tế thế giới mà trước mắt là AFTA. Trọng tâm của AFTA là giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0  5 % và triệt tiêu từng bước hàng rào phi thuế quan cản trở th ương mại trong vòng 15 năm kể từ 1-1-1993 cho 2 loại mặt hàng chính là hàng công nghệ và nông sản chế biến với 15 nhóm mặt hàng cụ thể là: Dầu thực vật, xi măng, dược phẩm, phân bón, chất dẻo, sản phẩm cao su, đồ da, bột giấy v.v.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0