
Tiểu luận
Nghiệp vụ thanh toán ngân hàng

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUA NGÂN HÀNG
Thanh toán qua ngân hàng đã ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát
triển của hệ thống ngân hàng. Tại Việt Nam, do lịch sử của hệ thống ngân hàng còn non trẻ
nên thanh toán qua ngân hàng mới được chú trọng phát triển trong thời gian gần đây.
Nhưng với tiện ích của các hình thức thanh toán qua ngân hàng, Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước đã tập trung nhiều nỗ lực cho việc phát triển lĩnh vực đặc biệt này nhằm đáp ứng
nhu cầu thanh toán của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
1.1 Khái niệm
Thanh toán qua ngân hàng là quan hệ thanh toán được thực hiện và tiến hành bằng
cách trích chuyển một số tiền trên tài khoản của cá nhân, tổ chức này sang tài khoản của cá
nhân, tổ chức khác hoặc bù trừ lẫn nhau giữa các đơn vị tham gia thanh toán thông qua hệ
thống ngân hàng. Ngân hàng là người cung ứng dịch vụ thanh toán.
Nếu việc thanh toán diễn ra trong phạm vi một quốc gia thì được gọi là thanh toán
trong nước, nếu việc thanh toán diễn ra vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia thì được
gọi là thanh toán quốc tế.
1.2 Đặc điểm
Thanh toán qua ngân hàng có các đặc điểm cơ bản sau:
Thanh toán qua ngân hàng là thanh toán chuyển khoản, không có sự xuất hiện
của tiền mặt.
Thanh toán qua ngân hàng là thanh toán chuyển khoản, diễn ra thông qua việc ghi
tăng hay giảm tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân liên quan tại
ngân hàng. Vì vậy, thanh toán qua ngân hàng không có sự xuất hiện của tiền mặt và tiền
chỉ xuất hiện dưới hình thức tiền ghi sổ, được ghi chép trên các chứng từ, sổ sách kế toán
và được gọi là tiền chuyển khoản.
Ngân hàng là trung gian thanh toán.
Trong thanh toán bằng tiền mặt trực tiếp thường chỉ có 2 chủ thể tham gia là người
phải thanh toán (người mắc nợ, người mua) và người thụ hưởng (người chủ nợ, người bán).
Nhưng để thanh toán được qua ngân hàng, ngoài 2 chủ thể trên còn có thêm chủ thể thứ ba
là ngân hàng.

Khi thực hiện thanh toán, ngân hàng đóng vai trò là trung gian giữa người có nghĩa
vụ thanh toán và người thụ hưởng. Khi nhận được yêu cầu thanh toán, ngân hàng tiến hành
kiểm tra các điều kiện thanh toán. Nếu yêu cầu thanh toán thỏa mãn các điều kiện, ngân
hàng sẽ thực hiện thanh toán cho khách hàng. Ngược lại, khi yêu cầu thanh toán không
thỏa mãn các điều kiện thì ngân hàng có thể từ chối thực hiện.
Thanh toán qua ngân hàng thường có sự tách rời về thời gian và không gian
giữa chu chuyển tiền tệ và chu chuyển hàng hóa, dịch vụ.
Như trên đã đề cập, ngân hàng là trung gian thanh toán giữa bên có nghĩa vụ thanh
toán và bên thụ hưởng. Ngân hàng tiến hành ghi tăng hoặc giảm trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của các bên. Như vậy, thanh toán qua ngân hàng là thanh toán chuyển khoản
nên việc thanh toán thường không xảy ra cùng thời điểm và cùng địa điểm với việc giao
nhận hàng hóa, dịch vụ giữa các bên.
1.3 Vai trò
Thanh toán qua ngân hàng ngày càng được sử dụng rộng rãi thay thế cho việc thanh
toán bằng tiền mặt bởi lợi ích mà nó đem lại cho các đối tượng tham gia cũng như đối với
nền kinh tế. Hoạt động thanh toán qua ngân hàng ngày càng được hoàn thiện và thể hiện
vai trò của mình cụ thể như sau:
Đối với khách hàng:
Khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng, khách hàng sẽ tiết kiệm được chi phí quản
lý, đồng thời giảm thiểu được các rủi ro trong quá trình vận chuyển, cất giữ, kiểm đếm tiền
mặt.
Thanh toán qua ngân hàng là thanh toán chuyển khoản. Ngân hàng thực hiện thanh
toán bằng cách ghi tăng hoặc giảm tài khoản tiền gửi thanh toán liên quan nên quá trình
thanh toán này diễn ra nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả hơn so với phương
thức thanh toán bằng tiền mặt.
Khách hàng có khả năng sinh lợi từ vốn nhàn rỗi trên tài khoản tiền gửi thanh toán
mở tại ngân hàng. Vì để thực hiện thanh toán qua ngân hàng thì khách hàng phải có tài
khoản tiền gửi thanh toán và số dư trên tài khoản này được ngân hàng tính và trả lãi định
kỳ hàng tháng cho khách hàng.
Khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng, khách hàng còn có thể tiếp cận được nhiều
dịch vụ hiện đại của ngân hàng như: dịch vụ thẻ thanh toán, séc, ủy nhiệm chi tự động để
thanh toán các khoản chi phí định kỳ như tiền điện, tiền nước, điện thoại, internet…

Đối với ngân hàng:
Ngân hàng có thể gia tăng nguồn vốn huy động và sử dụng nguồn vốn này với chi
phí thấp. Để thực hiện thanh toán qua ngân hàng thì khách hàng phải có tài khoản tiền gửi
thanh toán mở tại ngân hàng. Đây là một kênh huy động vốn của ngân hàng. Mặc dù số dư
trên các tài khoản này biến động thường xuyên nhưng nó vẫn duy trì một tỷ lệ ổn định và
đặc biệt là ngân hàng có thể trả lãi rất thấp hoặc không trả lãi cho nguồn vốn huy động này.
Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cấp tín dụng cho khách hàng với một tỷ trọng nhất
định theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, thanh toán qua ngân hàng còn mang lại thu nhập cho ngân hàng từ việc thu
phí dịch vụ. Ngân hàng có thể thu được phí khi thực hiện thanh toán cho khách hàng. Dịch
vụ thanh toán qua ngân hàng càng hiện đại, càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng thì
thu nhập của ngân hàng từ phí dịch vụ sẽ càng nhiều.
Bên cạnh đó, khi cung ứng có chất lượng dịch vụ thanh toán thì ngân hàng có thể tạo
và giữ được mối quan hệ tốt với khách hàng.Nếu khách hàng hài long với dịch vụ thanh
toán của ngân hàng thì khách hàng sẽ tiếp tục sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ khác của
ngân hàng để gia tăng tiện ích của mình. Từ đó, mối quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng ngày càng được củng cố. Hơn thế nữa khi hài long với dịch vụ thanh toán ngân hàng
cung cấp, khách hàng sẽ mở rộng phạm vi thanh toán của mình với các đối tác qua tài
khoản tiền gửi thanh toán mở tại ngân hàng. Thông qua đó, ngân hàng sẽ có thêm thông tin
về các đối tác của khách hàng mình để có thể tiếp cận và thiết lập mối quan hệ mới, mở
rộng khối lượng khách hàng của mình.
Đối với nền kinh tế:
Thanh toán qua ngân hàng giúp tiết kiệm được các chi phí lưu thông tiền mặt trong
nền kinh tế như chi phí vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm, bảo hiểm rủi ro, chi phí in ấn
tiền… Đồng thời, thanh toán qua ngân hàng được thực hiện bằng cách ghi sổ nên hạn chế
được rủi ro lưu thông tiền mặt.
Việc thanh toán qua ngân hàng sẽ làm giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông,
góp phần kiểm soát lạm phát. Các nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đều được lưu
lại trên sổ sách kế toán tại ngân hàng nên ngân hàng dễ dàng kiểm soát hoạt động của các
đơn vị thuộc nhiều ngành kinh tế khác nhau.
Nếu được tổ chức tốt, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt còn góp phần thúc
đẩy quá trình vận động của vật tư, hàng hóa trong nền kinh tế. Thanh toán qua ngân hàng

được thực hiện nhanh, chính xác và an toàn nên giúp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
tăng vòng quay sử dụng vốn. Điều này góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong
nền kinh tế.
Ngoài ra thanh toán qua ngân hàng còn góp phần kiểm soát một số hoạt động tiêu
cực trong nền kinh tế. Thanh toán không dung tiền mặt góp phần chống thất thu thuế một
cách hiệu quả. Thanh toán qua ngân hàng là thanh toán chuyển khoản, là một phương thức
thanh toán hiện đại, văn minh, lịch sự và giúp kiểm soát được một số hoạt động kinh tế bất
hợp pháp như rửa tiền, lừa đảo…
1.4 Một số quy định chung:
1.4.1 Đối tượng áp dụng:
Đối tượng áp dụng quy chế thanh toán qua ngân hàng gồm 2 nhóm:
Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bao gồm:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa là người tổ
chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng bằng việc ban hành quy chế thanh toán, vừa là
người cung ứng dịch vụ thanh toán nhưng ở cấp độ cao hơn.
Các ngân hàng thương mại: các ngân hàng thương mại là người cung ứng dịch vụ
thanh toán một cách mặc nhiên, phù hợp với chức năng và nhiệm vụ quy định trong Luật
Các tổ chức tín dụng.
Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính):
đối tượng này chỉ được cung ứng dịch vụ thanh toán khi Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng nếu được Ngân hàng Nhà nước cho
phép làm dịch vụ thanh toán như công ty kiều hối, bàn thu đổi ngoại tệ…
Nói chung, trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại là người cung
ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Họ có đủ điều kiện để cung cấp các dịch vụ thanh
toán một cách tốt nhất, các tổ chức khác hầu như không thực hiện dịch vụ thanh toán.
Người được cung ứng dịch vụ thanh toán (khách hàng nói chung), còn gọi là
người sử dụng dịch vụ thanh toán gồm có:
Các tổ chức (các pháp nhân) như các tổng công ty, các công ty, các tổ chức kinh tế
tập thể, cá thể, các tổ chức đoàn thể, xã hội.
Cá nhân (các thể nhân): mọi thể nhân đều có quyền sử dụng dịch vụ thanh toán qua
ngân hàng.
1.4.2 Phạm vi áp dụng: