
Các biện pháp chống lạm phát trong gói tám giải pháp của Chính phủ nêu ra đầu
năm (mà chủ yếu là thắt chặt chính sách tiền tệ và tài khóa) đã bắt đầu phát huy tác dụng
làm cho lạm phát bắt đầu dịu đi. Nhưng những nguyên nhân sâu xa của bất ổn vĩ mô và
lạm phát vẫn còn nguyên. Không thể coi thường khả năng lạm phát tái bùng phát và
những cân đối vĩ mô có thể tiếp tục xấu đi trong khi chăm chú vào các giải pháp kích cầu.
Chúng ta cũng đang gặp khủng hoảng kép. Chồng lên khủng hoảng riêng của
chúng ta là tác động ghê gớm của khủng hoảng tài chính bùng phát vào giữa tháng 9-2008
ở Mỹ, lan rất nhanh và biến thành khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Khủng hoảng toàn cầu
làm cho giá của nhiều mặt hàng giảm đáng kể (do cầu giảm trên toàn thế giới): giá dầu từ
147 đô la Mỹ/thùng xuống dưới 40 đô la Mỹ/thùng, giá sắt thép, phân bón, vật liệu xây
dựng, lương thực, vận tải... cũng giảm mạnh. Cũng nhờ sự giảm giá đó mà lạm phát ở
nước ta đã dịu bớt (chứ không hoàn toàn do thành tích của các giải pháp đầu năm 2008).
Rất tiếc chúng ta phải đối phó với cuộc khủng hoảng riêng nên chậm nhận ra tác
động của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Đến cuối tháng 9-2008 nhiều người vẫn nghĩ ảnh
hưởng của khủng hoảng này lên nền kinh tế Việt Nam không đáng kể, nhưng sau đó
Chính phủ đã mau chóng nhận ra tác động nghiêm trọng của khủng hoảng.
2.2. Các giai đoạn quan trọng của tình hình kinh tế Việt Nam năm 2008:
Nhìn chung, kinh tế Việt Nam năm 2008 sẽ đi vào lịch sử như một năm có nhiều
biến động gay go nhưng cuối cùng đã “hạ cánh mềm”. Có thể chia năm 2008 về mặt kinh
tế ra ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc trưng về mục tiêu và chính sách kinh tế khá rõ
nét.
Giai đoạn 1: Giai đoạn phát triển và xuất hiện những dấu hiệu khó khăn.
Từ cuối năm 2007, trong giai đoạn chuẩn bị và thông qua kế hoạch kinh tế xã hội
(KTXH) năm 2008, đến tháng 03-2008, chính sách kinh tế được chi phối bởi mục tiêu
tăng trưởng GDP 9%, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế hoạch 05 năm sớm (chỉ trong
ba năm), vượt ngưỡng nước có thu nhập trung bình ngay trong năm 2008… Mặc dù đã có
những cảnh báo sớm từ cuối năm 2007 về chất lượng tăng trưởng thấp, chất lượng cuộc
sống của người dân bị giảm sút, song quyết tâm của Chính phủ rõ ràng là phải đạt được
những thành tựu ấn tượng, vượt lên trên tất cả các thời kỳ trước đây. Ý chí và mục tiêu đó
được sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và những nhà ngoại giao thông qua những lời ca
tụng không ngớt về những thành tựu của Việt Nam, về vị thế mới của Việt Nam trên
thương trường quốc tế (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc…) và về dòng vốn nước ngoài đầu tư trực
tiếp và gián tiếp ào ạt đổ vào trong nước.
Trước những thay đổi mạnh mẽ về luồng vốn, tác động từ bên ngoài như vậy, lẽ ra
phải thực hiện ngay những cải cách cơ cấu và thể chế cần thiết để nâng cao năng lực giám
sát, quản lý các kĩnh vực trọng yếu như ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính theo hướng mở rộng công
khai minh bạch, mở rộng sự tham gia giám sát của các nhà khoa học, hiệp hội chuyên
môn trong quá trình chuẩn bị quyết định, soạn thảo chính sách. Song, trên thực tế Chính
phủ đã dồn dập triển khai các biện pháp và các công trình để đạt các mục tiêu đề ra: việc
phân cấp (về nguyên tắc là đúng đắn và cần thiết) quá mức cho chính quyền địa phương