
Tiểu luận
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi khi xã hội phát triển, đến một trình độ nhất định , tự trong bản
thân nó c ho ra đời những sản phẩm - những công cụ để phục vụ chính cho
sự phát triển đó. Từ khi có s ự phân công lao động xã hội, và sự xuất hiện
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã tạo ra rất nh iều sản phẩm, mà một
trong những sản phẩm của nó chính là quan hệ tín dụng. Đến lượt nó, khi
ra đời sẽ thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển lên trình độ cao hơn. Do đó,
sự tồn tại của nó như một tất yếu khách quan.
Ngày nay, chúng ta biết rằng, khi kinh tế thị trường là sự phát triển của
nền kinh tế ở một trình độ cao. Trong đó, các chủ thể độc lập với nhau về tính
chất sản xuất kinh doanh, về quyền sở hữu, về sự tuần hoàn và luân chuyển
vốn. Như vậy trong nền kinh tế có những doanh nghiệp “thừa” vốn. Ví dụ như
các doanh nghiệp có tiền bán hàng nhưng không phải trả lương, thuế và các
khoản chi khác do đó tạm thời thừa tương đối. Trong khi đó có những doanh
nghiệp thiếu vốn những người thừa vốn sử dụng vốn này để thu lợi nhuận còn
doanh nghiệp thiếu vốn muốn sử dụng phải đi vay để duy trì hoặc tiến hành
sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy hai nhu cầu này đều giống nhau ở
chỗ để thu lợi nhuận và mang tính chất tạm thời. Nhưng chúng khác nhau về
chiều vận động và quyền sở hữu. Do đó trong nền kinh tế tất yếu tồn tại quan
hệ tiêu dùng và tín dụng. Vì vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa
to lớn đến sự thành công của các ngân hàng thương mại trong chiến lược huy
động và sử dụng vốn cho đầu tư và phát triển. Nâng cao chất lượng không chỉ
là những biện pháp cải thiện chất lượng mà phải bao gồm những biện pháp
mở rộng tín dụng có hiệu quả, có như vậy hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng thương mại mới ngày càng phát triển, hòa nhập được với xu thế tiên tiến
của công nghệ ngân hàng .

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ THUYẾT C HUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn
đó sẽ được hoàn trả lại trong tương lai cùng với chi phí của khoản tín dụng
đó. Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với
các chủ thể kinh tế khác trong xã hội trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là
người đi vay vừa là người cho vay. Vì vậy bản thân tín dụng ngân hàng phải
làm tốt hai mặt. Thứ nhất là đối với người cho ngân hàng vay và thứ hai đối
với người mà ngân hàng cho vay. Chính thực hiện tốt chức năng này và với
nghiệp vụ của riêng mình về việc kinh doanh tiền tệ mà tín dụng ngân hàng đã
trở thành một hình thức tín dụng không thể thiếu trong mọi nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng thực chất dây là một h ình thức quan hệ tín dụng gián
tiếp mà người tiết kiệm thông qua vai trò trung gian của ngân hàng thực hiện
đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn. Sự xuất hiện của tín dụng ngân
hàng trên cơ sở là thu lợi nhuận một hình thức tín dụng sẽ không xuất hiện
nếu nó không được hưởng lợi ích gì từ dịch vụ mà nó mang lại. Nhưng lợi
nhuận của tín dụng ngân hàng mang lại dựa trên sự thoả mãn ngày một tốt
hơn nhu cầu khách hàng. Thứ nhất là nhu cầu vốn nhàn rỗi của các chủ thể
trong nền kinh tế. Khi có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư sinh lời và ngân hàng là
nơi đầu tư lí tưởng và an toàn, ít gặp rủi ro. Cùng với sự đổi mới trong chiến
lược phát triển của hệ thống ngân hàng, khách hàng còn được hưởng lãi theo
lãi suất thoả thuận giữa họ và ngân hàng. Thứ hai nhu cầu đòi hỏi vốn của các
chủ thể thiếu vốn trong nền kinh tế. Họ sẽ không có được nguồn vốn theo thời
hạn và khối lượng vốn mà mình mong muốn nếu không thông qua tín dụng
ngân hàng. Chỉ có ngân hàng là người đáp ứng đầy đủ, đồng thời ngân hàng
có thể tư vấn, có thể xem xét dự án đầu tư tránh g ây thiệt hại cho nền kinh tế.
Như vậy lợi nhuận mà ngân hàng thu được dựa trên sự đáp ứng đầy đủ hai

mặt đối với người đi vay và người cho vay. Hiện nay nghiệp vụ ngân hàng có
nhiều sự pha trộn giữa nghiệp vụ truyền thống và các công ty tài chính.
Nhưng tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức tín dụng không thể thiếu trong
nền kinh tế.
Trong lịch sử phát triển của kinh tế hàng hoá, tín dụng ngân hàng đa trải
qua một quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp về kĩ thuật và nghiệp
vụ, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng lớn về không gian phù hợp với quá trình
phát triển của nền sản xuất hàng hoá ngày càng hoàn thiện.
Trong thời kì đầu của lịch sử sản xuất và lưu thông hàng hoá, có một số
người không trực tiếp sản xuất và lưu thông hàng hoá, mà đứng ra làm trung
gian nối liền giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá qua đồng tiền. Chức năng
ban đầu của họ là “ nhận giữ hộ tiền của một số thương nhân, đồng thời tiến
hành thanh toán các khoản tiền trong giao dịch mua bán hàng hoá”. Đương
nhiên để làm việc đó họ phải thu về một lượng chi phí ( lợi tức ) nhất định từ
những đố i tác mà họ làm dịch vụ.
Nhờ hoạt động trung gian này tạo điều kiện cho sản xuất và lưu thông
hàng hoá phát triển thuận lơị. Đến lượt nó, sản xuất và lưu thông càng phát
triển thuận lợi, lại càng làm cho những người hoạt động trung gian cũng tích
luỹ ngày một nhiều tiền. Như vậy, những người này đã trở thành những người
“ buôn tiền ”. Càng về sau để có thể có lợi nhiều hơn, họ cùng tập hợp nhau
lại để có nhiều vốn thực hiện các hoạt đông trung gian nói trên. toàn bộ hoạt
động của nó mặc dù còn rất sơ khai về kĩ thuật nhưng dẫu sao đó cũng là
mầm mống cuả tín dụng ngân hàng sau này.
Trong lịch sử phát triển tín dụng, t ín dụng thương mại xuất hiện sớm hơn
tín dụng ngân hàng nhưng lại tồn tại và phát triển song song với nhau. điều
cần nhấn mạnh ở đây là cả cả hai loại hình tín dụng này chỉ có thể phát triển
thuận lợi khi chúng dựa vào nhau, cùng làm diều kiện “ tiền đề ” cho nhau.

Tín dụng ngân hàng tuy khác tín dụng th ương mại về hình thức, phạm vi,
qui mô và thời gian hoạt động. Song giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ
trợ và bổ sung cho nhau. Tín dụng ngân hàng giúp khắc phục một số mặt hạn
chế của tín dụng thương mại về không gian và địa lí, về quy mô tín dụng
thương mại về trường hợp khi đến kì hạn trả tiên nếu vì lí do nào đó mà người
mua chịu không có hoặc không có tiền để trả.
Hoạt động tín dụng thương mại thông qua công cụ thương phiếu đã tạo ra
tiền đề cho sự gắn bó giưã tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Sự gắn
bó này nhờ thông qua việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu và tái
chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng, khi các đối tác có thương phiếu có nhu
cầu về tiền của mình. Hoạt động tín dụng ngân hàng thông qua cơ chế hoạt
động của các tổ chức ín dụng trung gian. ở nước ta, ngay từ khi có Pháp lệnh
của Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 23-5-1990 có quy định các loại ngân
hàng và các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, t rong đó có
ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và là m phương tiện
thanh toán.
Thuộc loại ngân hàng này bao gồm: Ngân hàng thương mại quốc doanh;
Ngân hàng thương mại cổ phần; Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Ngoài ra còn có ngân hàng đầu tư và phát triển, các trung
gian tài chính khác…
Các ngân hàng thương mại, khi cần vốn cũng có thể đem thương phiếu đã
chiết khấu đến ngân hàng trung ương để tái chiết khấu trong phạm v i quy
định.
Như vậy, nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu về thực chất là nghiệp vụ
tín dụng ngân hàng, một nghiệp vụ qua đó ngân hàng dành cho khách hàng