NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l

29

TÍNH CHẤT ANH HÙNG

mang tính chất sáng tạo và dểu nhanh chóng trồ thành hiện thực, việc sáng tạo ấy, có thể gọi là những hành dộng anh hùng. Đặc biệt, thần thoại Mường còn có mụ Dá Dấn, một nhân vật dặc biệt. Nét dặc biệt ấy là:

1. H uyền th oại sinh thậnh

QUA HÌNH TƯỢNG MỤ DÁ DẤN - NHÂN VẬT THẦN THOẠI MƯỜNG _______________ ■■______

HOÀNG ANH NHÂNn

ãi đến giữa thập kỉ 70 cùa th ế kỉ XX, sách Đẻ đất, đè nước - Bộ sử thi thần thoại Mường - mới được công bố. Một bàn sưu tầm ỏ Thanh Hoán), một bàn sưu tầm ở Hoà Bình'2’, đến nay hai bản này vẫn là văn bàn gốc.

Thuở ày, chưá có trời đất, tấ t cả- chỉ là một khoảng không gian mênh mông vô tận. Một trận mưa lớn tràn qua, rồi nước rú t đì để lại một cây to, cành lá xanh tốt. Cây này sinh ra ông Thu Tha, bà Thu Thiên, ông bà truyền nên trời nên đất. Nhưng nước rút kiệt, đất đai bị khô cằn, phải có ông Pôồng Piêu làm nên trận mưa lóp, đất đai mới trở lại mầu mỡ và trên m ặt đất mọc lên một cây si to, cành lá toả ra "lấp một bên dất, khuất một bên trời”, tròi sai con sâu Hốc, sâu Hà xuống cắn gốc, móc lòng. Cây si héo, cây si chết và cây si mục.

Giá trị nhiều m ặt của bộ sử thi, đã được nhiều học giả khai thác, nghiên cứu lịch sử dân tộc, lịch sử tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật... Bài viết này nhằm bước đầu tìm hiểu nhân vật thần thoại Mưòng.

Thân cây si mục hoá ra con rán khổng lồ hình thù kì quái. “Chín tai, mười mắt”, m ặt cây si mục hoá ra cọn ong to lớn lạ thường “lưng dài chín sải, nọc dài chín gang”. Mọi vật khiếp sợ không dám đến gần. Cành si mục, mỗi cành ngả ra rồi khoanh lại thành 1919 vùng đất, còn gốc cây si:

"Cành mục loà xoà, Hoá ra chân ra tay m ụ Dá Dấn. Cành mục lùm xùm, Hoá ra đầu tóc m ụ Dá Dấn. Cành mọc lia thia, Hoá ra tai ra m ắt m ụ Dá Dấn. Cành mục sừng sững, Hoá ra ngực, ra lưng mụ Dá Dẩn..." Đẻ đất đẻ nước có một hệ thông nhân vật dồ sộ, phong phú. Nhiều nhân vật có công tích lởn lao, kì diệu, có nhân cách tuyệt vời. Nào ông Thu Tha, bà Thu Thiên truyền nên trời nên đất, ông Pôồng Piêu làm nên mưa. ôn g Cuông Minh Vàng Rậm và nàng Á Trời khai mỏ đồng, mỏ vàng, dúc nên m ặt trời, m ặt trăng, nàng Dặt Cái Dành tìm ra giống lúa, Tìu Vịn nghĩ ra cách săn bấn, Tặm Tạch tìm được cây chu đá chu đổng bông thau quả thiếc, rồi mụ Húng chăn gà, mụ La nuôi lợn, đến những con vật thông minh như con rùa dạy làm nhà, chim Tào Trào, Chiền Chiện ấp trứng nờ ra người. Đẻ đất đẻ nước (tr.36)<;,>

Tuy mỗi nhân vật phần nhiều chỉ xuất hiện một lần, làm một công việc cụ thể, nhưng việc làm của họ đều là việc mỏ đầu,

Khi mụ Dá Dấn xuất hiện thì ông Thu Tha, bà Thu Thiên, ông Pôồng Piêu và đến cả con rắn, con ong kì quái thẩy đều biến mất. Cái thế giói buổi đầu hình thành chỉ còn lại một mụ Dá Dấn và một cây si xanh Chi hội VNDG Thanh Hoá.

HOÀNG ANH NHÂN

30

tốt. Mụ Dá Dâ*n và cây si trỏ thành biểu tượng của sự sông và họ có quan hệ máu thịt vói nhau.

Như vây, tên “Mú Dá Dấn” không chỉ là nhóm từ chỉ tên một cá nhân, cá thể để phân biệt với cá nhân, cá thể cùng loại, mà còn có ý nghĩa chỉ vị thế, vai trò của con người mang tên ấy. Đó là người đàn bà có m ặt đầu tiên trên hành tinh này và là biểu tượng cùa sự sinh sôi nòi giông.

2. Huyền thoại sin h ra con người

Quan niệm về cõi sống và cõi chết ngưòi Mường cho rằng: Khi một con người dược sinh ra ở dương gian, thì cây si cũng mọc lên một cành xanh tốt, con người và cây si như hình vối bóng, theo nhau suô’t cả cuộc dòi. Nếu ngưòi ấy bị ốm đau, thì cành si cũng bị héo, không may người ấy chết, thì cành si cũng chết và lìa khỏi thân cây si. Thế là con ngưòi trở thành chủ thể của vũ trụ, còn cây si thì thành vật tổ trong tín ngưỡng dân gian Mường.

"Mụ Dá Dấn, Miệng hay đòi ăn cá, Dạ hay đòi ăn cơm, ăn canh, Miệng hay rành rành dạy bảo. Mụ ở dưới đất nghe thấp, Muốn cất lên trời cao cao. Tằm ăn tằm lại đẻ, Nhẻ'4' ăn nhẻ lại trứng".

Cây si là biểu tượng sức sống của vũ trụ, cây si sinh ra mụ Dá Dấn, nên trong mụ có sức sống, có tầm nhìn vũ trụ, mà vũ trụ cũng là phạm vi hoạt động của mụ. Mụ đẻ hai trứng, hai trứng ấy nở ra Bưốm Bạc, Bướm Bò, chúng to lớn lạ thường:

"To hơn đụn chín, đụn mười Tiếng cười như tiếng trống cái, Tiếng nói như tiếng sấm vang Xương vai dài tám mươi lóng Xương ôhg dài bảy mươi gang..."

(tr.36) Đọc phần đầu sử thi thần thoại Mường, như nghe được âm vang của nước réo sóng xô, của sấm vang chớp giật, rùng rỢn dữ dằn, tưỏng như vũ trụ đang phải gồng mình chịu đựng sự chuyển động ngả nghiêng của vạn vật, từ thuở khai thiên lập dịa vọng vế. Nhưng chính hiện tượng dữ dằn ấy, lại đem đến thông diệp về một niềm vui lón cho nhân loại, đó là lúc vũ trụ “trở dạ” và sinh ra th ế giới, một th ế giới có trời đất, núi sông, biển rừng, có các loại sinh vật. Đặc biệt có một con người được sinh ra với thiên chức tiếp tục sinh sôi nòi giống và xây dựng cuộc sống con ngưòi. Đó là mụ Dá Dấn.

Đôi bướm khổng lồ này lấy hai nàng tiên và sinh ra 10 con là:

Sinh ra trong môi trường đặc biệt như vậy, nên mụ cũng mang cái tên đặc biệt. Nhóm từ "mụ Dá Dấn” là phiên âm từ tiếng Mường, nghĩa của từng từ là:

- Mú: Là mụ, là bà thường dùng chỉ ngưòi chị gái của bố, là hạng người được xếp vào hàng quý mến, tôn kính.

- Dá: Là dàn bà

- Dấn: Là dầu tiên, ví như: “Cấn dấn” là mỏ đầu.

Dịch ra tiếng Việt thì “Mú Dá Dấn” là “Người đàn bà đầu tiên”. "Cun Khôồng Láng Cun Khôồng Vá Cun Khôồng Tập, Khôồng Tàng Cun Khôồng Êm, Khôồng Am Cun Khôồng Lấm, Khôồng L ồ’ Cun Khôồng May CunKhôồng Vàng Cun Khôồng Lót Cun Khôồng x ế Trống chim Tùng, mái chim Tót" (tr.40)

NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l

31

Nhưng chín con trên đều là ma quái, không nên người. Chỉ có trông chim Tùng, mái chim Tót là những con vật khổng lồ:

"Đậu cành dâu da, gẫy cành dâu da, Bám dây tà lền, dứt dầy tà lền"

Không có nơi ỏ, chúng toan ăn lá ngón để chết, nhưng may gặp mụ Dá Dấn:

Chúng lại vào hang dẻ lần thứ hai, lần này dẻ được 1919 trứng, nhưng ấp mãi vẫn không nở, chúng đem trứng trả cho mụ Dá Dân, chim khổng lồ cam chịu bất lực và bỏ di mất. Mụ Dá Dấn phải cầu ba bốn loại chim vào ấp. Nhưng trứng vẫn không nở. Cuối cùng phải viện đến chim Tào Trào - Chiền Chiện. Tuy thân hình chim nhỏ bé, nhưng chúng biết cách ấp:

"Buổi sáng, Con mái lẩy cánh che phía mặt trời mọc,

Buổi chiều, hầm hập, Con trôhg lấy cánh bạc che hướng

m ặt trời lận.

Lẩy hòn đá đập giả giả, Lấy ngọn lá vỗ hờ hờ. "Gặp mụ Dá Dẩn hay lo, Mụ Dá Dấn hay thương hay bảo: Hai cháu chớ vào rừng mà sợ con gấu, Đừng vào thung mà sỢcon cọp Con mái tìm chỗ mát rỉa lông Sẽ nên đá hay Trôhg, Con trông thì ra rửa mỏ Sẽ nên đá chùa chiền, hang Hao. Đào đất cho nên sông sâu, ruộng rộng Cho có nơi mà ăn Cho có ngăn mà ở".

(tr.4O - 41)

Có nơi ăn chôn ở rồi, mụ Dá Dấn lại bảo:

Bỗng thấy nở trứng Tiếng, Nghe ồn ào tiếng Lào Nghe lao nhao tiếng Kinh Nghe inh inh tiếng Mọn Nghe họn họn tiếng Xiên Quan Nghe oang oang tiếng Thái Nghe hớt hài tiếng Mán".

(tr.47)

Tiến trình sinh người phải trải qua các chặng:

- Cây si sinh ra người (mụ Dá Dấn)

- Ngưòi đẻ ra trứng

- Trứng nỏ ra bướm

- Bưởm lấy tiên đẻ ra ma quái và chim

- Chim dẻ trứng "Con m ái bay vào núi đá hang Trống Đục lấy chín phiến nông Con Trống bay vào núi đá hang Hao Đục lấy chín phiến sâu Đục làm lỗ, m ổ làm hốc Con trống bay vào rộc sông cái Cặp lấy chín nén cỏ bái Con mái bay xuống rộc sông con Cõng lấy mười nén tranh v ề khoanh đi khoanh lại làm tổ Tổ tròn như m ặt sáng Tổ rộng như mặt sông Miệng tổ cao n hư quả núi Cuối tổ như mái nhà sàn..." - Chim ấp trứng nở ra người. (tr.41)

Nhưng do tính năng động vốn là đặc tính của sinh vật, dã sàng lọc di các bưóc dệm như: Trứng nở ra Bướm, Bưốm lấy Tiên, Bưốm và Tiên sinh ra ma quái... nên còn lại mô hình hoá sinh người là:

ở đây, chim Tùng, chim Tót đẻ nhiều trứng, nhưng ấp lâu ngày trứng không nỏ, chúng giận dữ ném ra rừng trứng nở ra cây thì cây cụt ngọn, nỏ ra quả thì quả không chín, nở ra củ thì củ nứt vỏ...

HOÀNG ANH NHÂN

32

Trứng

Chim

Người

Người

Chim

Trứng

"Đất đen trồng cây ưò,'6) Đất đỏ trồng cày vang, Đất vàng trồng trầu, cau, trồng chuôĩ.

Nghĩa là:

- Người đẻ ra trúng, trứng tự nở ra chim

- Chim đè ra trứng, chim ấp trứng mới nồ ra người.

Dưới dốc trồng cây nứa nhỏ, Đầu dốc trồng cây nứa to. N hưng còn lo nứa dài không có mắt, Dang dài không có lang. Mụ Dá Dấn Lấy chỉ đen ra thắt mắt dang, Lấy chỉ vàng ra thắt mắt nứa. Nứa mới có lang, dang mới có mắt".

(Mo lên trờìi2) tr.90) Như vậy: Người - Trứng - Chim là các yếu tố có tính chất quyết định sinh ra con ngưòi.

Vậy7 hàng ngàn quả trứng do chim Tùng, chím Tót đẻ ra, mà chim Tào Trào, Chiền Chiện ấp nở ra một cộng đồng gồm nhiều dân tộc này, có quan hệ gì với bọc trăm trứng cùa bà Âu Cơ, nở ra một trăm người COJ1 trai không? Rồi con chim Tào Trào, Chiền Chiện này có quan hệ gì vói con chim Lạc “một vật chứng quan trọng trong lịch sử hình thành dân tộc ta” ?(5). Có thể là có, nhưng không thuộc lĩnh vực nghiên cứu cùa bài viết này. Trên cơ sỏ ấy, ngọn núi gieo cây to, lưng chừng đồi núi gieo cây lim, cây sến, cây lát. Thấp hơn trồng cây luồng, cây nứa, cây dang, dưối tán rừng gieo h ạt náo, hạt vo, trồng nhượng để nhuộm chài, trồng cây vuôn để gội tóc, trồng cây lốt nấu canh nhái, trồng cây sênh làm men rượu, trồng lúa làm cơm, trồng bông, dâu làm quần áo, trồng cây hơi trâu chữa m ắt trâu bò. Mụ còn trồng cây chu đá, chu đồng bông thau quả thiếc, loại cây tượng trưng cho sự giàu có, quyển uy. Việc gieo trồng mụ phân ra:

"Tháng một trồng cây hoà m át Tháng chạp trồng cây niêng Tháng giêng trồng cây vôn Tháng bôh trồng cây trám Tháng năm trồng cây ngô Tháng sáu trồng cây trảy Tháng bảy, tháng tám trồng rau tươi Tháng chín tháng mười trồng bông ở dây, trong tiến trình sinh người, mụ Dá Dấn là người vừa thực hiện, vừa hướng dẫn khuyên can ngưòi và vật, mụ là người thầy, người mẹ của muôn loài. Sinh ra một cộng đồng ngưòi, mụ đã thổi một luồng sinh khí, xua tan mọi sự lạnh lẽo vắng vẻ, tạo nên sức sông đầu tiên cùa vũ trụ thô sơ, là một hành động anh hùng, một kì tích có một không hai. cơm, trái lúa 3. Huyền thoại sin h ra m uôn vật Và làm nên nước mó trong xanh".

(tr.90)

Có một loại cây mụ rấ t trân trọng, nâng niu, cây này phải dược trồng đầu tiên và trồng nơi cao nhất, thoáng đãng nhất, gần đất gần trời, thân cây không có sâu có luỵ, lón nhanh, xanh tươi bôh mùa, đó là Lúc này, con người phải là con người phát triển về thể chất, lí trí, tâm hồn, kĩ năng. Mụ Dá Dấn đã khai thác mọi khả năng ẩn chứa trong vũ trụ, để hoàn thiện một bưổc địa bàn sinh tụ, tiếp tục nâng cao sức sống của con người. Trước nhất là chọn đất gieo trồng.

NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l

33

cây khăng. Từ “khăng” tiếng Mường có nghĩa là hòm, người ta dùng thân cây để dục hòm hình thuyền chôn người chết, nên cây khăng như là một vật thiêng: Để có cái mặc, mụ dạy trồng dâu, trồng bông, nuôi tằm, dệt vải, dệt thổ cẩm. Mụ còn lo cả chỗ ngồi cho sang, nơi nằm cho êm cho ấm:

"Trồng cây khăng gỗ quý, Khi cây khăng còn nhỏ Không lấy làm roi đuổi trâu bò Không dùng ngăn mương, đắp phai Người nên gái, nên trai một tuổi Cây khăng củng nên khăng một, Người con gái con trai hai ba tuổi Cây khăng cũng nên khăng hai, khăng ba

"Đem trồng cây gon, cày cói Đừng trồng trên đồi, chớ gieo nơi bằng Mà trồng nơi bờ sông, bờ biển. Khi cói lên nhiều, Đỉ ra cắt lấy, Ban ngày phơi nắng, Ban đêm hong lửa. Sợi cói săn thành nan Đan di đã phải Đan lại đã nên Nên chiếu bông trải ra Chiểu hoa trải trong nhà trong cửa".

Rồi cây khăng nên cả nên lớn Mọc trên đỉnh núi cheo leo Đ ể chim về đậu buổi tôĩ Ai có việc khôh, việc tội mới chặt (tr.113) cây này".

(tr.91)

Trồng cây đã nên rừng, nhưng con ngưồi chặt cây chưa có rìu, có dao, bắt cá chưa có chài có lưới, săn thú chưa có nõ, có súng, gánh chưa có sọt, hái dâu chưa có dón... mụ phải dạy dân làm những dụng cụ trên. Nhưng nhà lang, nhà đạo còn phải ăn cơm bằng ống nứa, uống rượu ống bương, mụ dạy rằng:

"Kén mười ngày tốt, Chọn một ngày lành, Cầm thuổng, cầm m ai ra đi đào đất, Đất đen làm ang, Đất vàng làm gạch, làm ngói, Làm bát, làm dọi, đựng cơm, đựng canh.

Việc làm của mụ Dá Dấn, dù lớn dù nhỏ đều được dân Mường ngưỡng mộ, không ít việc đã đi vào truyền thuyết, tục ngữ, phương ngôn của dân tộc. Vì thương dân ở xa xôi, núi rừng buồn tẻ, mụ gánh một gánh xường, rang (làn điệu dân ca Mường) lướt nhẹ trên mây đi phân phát cho các nơi, chưa đến được vùng hẻo lánh thì bỗng nhiên đứt dây, một sọt rơi xuống mưòng Ai, còn đầu gánh bên kia cũng đứt quai rớt xuông mường Kí - ống. Từ dó, mường Ông, mường Ai nổi tiếng là đất xường, có nhiều người làm được lắm bài xường hay, không ít các cô gái đẹp người, có giọng xưdng bay bổng, ngọt ngào, sâu lắng làm say đắm lòng ngưòi. Xường mường Ông, mường Ai được xem là xường gốc. Giải thích hiện tượng trên, ngưòi Mường nói gọn một câu: “Đứt sọt mường Ai, đứt quai mường Ong”.

Làm cả be sành đựng rượu. Trời mưa dem vào nhà mà cất, Trời nắng nhấc ra mà phơi, Phơi khô xếp vào lò. Nung đi cho phải Nung lại cho rồi..."

Từ 1919 vùng đất chết, do càc cành si mục khoanh lại, nay có trí tuệ, bàn tay con người tác động một cách tích cực, mới có rừng núi, ruộng nương, nhà của, lúa ngô, có con cá lá rau... Tuy còn đơn sơ nhưng mỗi ( tr .lll)

HOÀNG ANH NHÂN

34

thành tựu dành được đều như những tia sáng rọi chiếu, vén bức màn mờ ảo để con người nhìn tận mắt, sò tận tay một hiện thực sống động. Đó là 1919 mưòng tràn trề sức sống, một cộng đồng người dầy quyền uy trước thiên nhiên.

Khi con ngưòi ý thức được quyển lực cùa mình trước thiên nhiên, thì chinh phục thiên nhiên và làm chủ thiên nhiên trở thành khát vọng cháy bỏng. Hiện tượng này là sự thực trong lịch trình tiến hoá nhân loại. Vũ trụ vốn to lởn, dữ dằn, mà con người thì hiền lành bé nhò, nên phải bằng mọi cách vươn mình lên ngang tầm vũ trụ. Cái cốt lõi sự th ật trên liền được chắp cho đôi cánh lãng mạn, đưa ưổc mơ khát vọng của con người bay vào huyền thoại. Đó chính là biện pháp “nhân hoá vũ trụ” trong xây dựng hình tượng nhân vật thần thoại.

Một lần nữa, tính chất anh hùng lại dược bộc lộ, nhưng khác vối lần trước, lần này là những công việc bình thường như vỡ đất, trồng cây, lo cái ãn, cái mặc sắp xếp lại cuộc sống cho các vùng cư dân, nhưng vẫn là những sáng tạo đầu tiên nên hành dộng ấy đều trở thành phi thưòng, vói tư cách là một con người vốn nặng lòng yêu thương con người, thiết tha với cuộc sống, đã cùng muôn vật đi tìm sự sống cho vũ trụ, ổn định nơi sinh tụ cho con người.

Từ huyền thoại sinh ra con người đến sinh ra muôn vật, cùng vói nhân cách tuyệt vời của mụ, dã dựng thành một hình tượng anh hùng chinh phục thiên nhiên, xây dựng th ế giởi và cũng là hình tương bất tủ, ung dung thanh thản lồng lộng giữa đất trời, sông núi, giản dị, thân thương trong tình yêu của con người.□

H A N

(1) ĐỂ đất đè nước, Vương Anh, Hoàng Anh Nhân, Ti Văn hoá Thanh Hoá xuất bản song ngữ Việt - Mường, 1975.

(2) Đẻ đất đè nước, Thơ dân gian dân tộc Mường, Bùi Thiện, Thương Diễn, Quách Giao, Nxb. Văn học, 1976.

(3) Những đoạn trích trong bài viết này đều trích từ sách Đẻ đất đẻ nước, bản Thanh Hoá xuất bản, 1975.

(4) Nhẻ: Con bưởm tằm.

(5) Theo sách Việt Nam trước công nguyên, Trần Quang Thân, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001.

(6) Cây vỏ: Loại thân thảo, lá to như lá mít nhưng mềm. Dùng lá ngâm vào nước, đạp cho nát thành bột; lấy bột hoà với nước thành màu chàm.

(7) Mo lên trời, Hoàng Anh Nhân sưu tầm, phiên âm, dịch thơ, Nxb Văn học, 1994. Từ dây, các doạn trích đều lây từ sách này.

Các vị thánh dược tôn vinh là bất tử cùa dân tộc ta như Tản Viên, còn có ngọn núi Ba Vì và ngôi dền ỏ chân núi dể lúc sống nghỉ ngơi, khi chết làm nơi thờ phụng. Hoặc Thánh Gióng dù Thánh đã bỏ áo lại, một mình một ngựa bay thẳng lên trời, nhưng dân làng Phù Đổng cũng xây dựng đền thò để ngàn năm hương khói. Riêng mụ Dá Dân dù có công tích lổn lao với dân tộc, nhưng không một chút bận bịu riêng tư, mụ ung dung thanh thản bưốc ra ngoài tác phẩm văn học, để hoá thân cùng mọi cuộc đời, gắn bó cá nhân mình với cuộc sống dân tộc, để được tham dự vào mọi niềm vui, nỗi buồn. Mọi việc lớn nhỏ cùa mỗi nhà, mụ vẫn như một vị cứu tinh, vía con trẻ bị lạc, ông bà già cả ấm đau, vợ đè khó khăn phải kêu đến mụ, làm lễ đầu năm, lễ cơm mởi, làm vía lúa, lại mời mụ về. Muốn nên vợ nên chồng, làm nhà làm cửa, rước mụ đến để được sự hộ hành, dệt vải không nên, dệt raam (thổ cẩm) không đẹp cũng mời mụ Dá Dấn. Mụ trỏ thành chỗ dựa tinh thần cho mọi lớp người trong cộng đồng.