NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TÍNH ĐỊA PHƯƠNG
CỦA XƯỜNG GIAO
DUYÊN CỦA NGƯỜI
MƯỜNG Ở THANH
HOÁ NHÌN TỪ GÓC
ĐỘ TÊN RIÊNG CHỈ
ĐỊA DANH
MAI THỊ HỒNG HẢI?
@"°" dùng tên riêng chỉ địa điểm
(địa danh) trong ca dao dân ca
người Việt đã được nghiên cứu công
phu và sâu sắc, mở ra một hướng mới
trong nghiên cứu về đặc điểm loại hình
và khám phá thế giới nghệ thuật của ca
đao dân ca nói riêng và văn học dân
gian nói chung'”. Theo hướng đi đó,
trong bài viết nhỏ này chúng tôi tiến
hành khảo sát một yếu tố thuộc phương
điện ngôn ngữ là tên riêng chỉ địa danh
trong xường giao duyên của người
Mường ở Thanh Hoá với mục đích góp
phần làm sáng rõ hơn tính địa phương
của thể loại này.
Tài liệu mà chúng tôi dùng để khảo
sát, thống kê là hệ thống văn bản
xường giao duyên (còn gọi là xưởng
Thiết Ống - M.H) trong sách Tực ngữ
đân ca Mường Thanh Hoá của cố tác
giả Minh Hiệu, Nxb Văn hoá dân tộc,
` Thạc sĩ, Trường Đại học Hồng Đức,
Thanh Hoá.
4ö
1999. Đây là một công trình dược sưu
tầm, biên soạn công phu, tư liệu cung
cấp có tính hệ thống, đảm bảo cho việc
thống kê có cơ sở thực tế và khoa học.
Xường giao duyên bao gồm một hệ
thống bài ca rất phong phú, thứ tự các
bài ca được sắp xếp theo một trình tự
được dân gian qui ước khá chặt chẽ -
trình tự ấy chính là sự khúc xạ những
bước đi và sự tiến triển của tình yêu
lứa đôi: Từ lúc đang còn xa lạ đến quen
nhau, thăm đò tài năng, cảnh ngộ tình
duyên của nhau, rồi tỏ tình, thử thách
lòng chung thuỷ của nhau và cuối cùng
là bày tó nguyện ước được "chơi nên
cửa, nhởi nên nhà". Tính chất trần
thuật, tính tự sự kết hợp với mạch trữ
tình dàn trải là đặc điểm nổi bật trong
kết cấu các bài ca. Do vậy mà hầu hết
các bài ca đều dài. Nếu ở ca dao Việt,
các bài ca có số lượng hai đến bốn dòng
là đa số thì ở xường giao duyên, sau khi
khảo sát gần 100 bài ca trong văn bản
nói trên, (cũng như qua thực tế điền dã,
sưu tầm), chúng tôi thấy những bài ca
từ 4 đến 8 dòng là rất ít. Phần lớn là
trên 10 dòng đến 20, 30 dòng trở lên,
thậm chí có bài dài hơn 300 dòng (như
bài bắc bông). Vì vậy số liệu thống kê
chúng tôi không tính theo tỉ lệ trên số
câu (bài) mà tính theo số lần xuất hiện
các tên riêng chỉ địa danh trong tư liệu
văn bản đã chọn. Cũng cần phải nói
thêm là văn bản xường giao duyên của
người Mường ở Thanh Hoá nói riêng,
văn học dân gian nói chung, chỉ ổn định
vào thời điểm diễn xướng, cho nên
nhiều yếu tố trong văn bản đều có thể
thay đổi bởi tình huống của mọi cuộc
44
hát giao duyên là không giống nhau. Từ
đặc trưng chung ấy mà số lượng thống
kê có thể còn hạn chế và xác suất có thể
chưa ổn định. Song qua việc khảo sát
thống kê các tên riêng chỉ địa danh,
chúng ta sẽ thấy có thể giải mã được
một số vấn đề có liên quan đến đặc
trưng thể loại.
* Số lần xuất hiện và phân loại tên
riêng chỉ địa danh”?
Trong hệ thống văn bản xường giao
duyên, số lần tên riêng chỉ địa danh
xuất hiện là: 135 _
Tên riêng chỉ địa danh gồm 8 loại:
+ Tên các dơn vị hành chính như:
làng, xã, mường.
+ Tên các địa điểm thuộc nơi lao
động hoặc phục vụ giao thông như cầu,
đường, sông, suối, gò, đổi, bãi, bến,
đồng, ruộng.
+ Tên các địa điểm thường là nơi
thực hiện các sinh hoạt xã hội, văn hoá,
tín ngưỡng như: chợ, chùa.
Theo thống kê chúng tôi thấy: Tên
các đơn vị hành chính (làng, mường):
78 lần.
Tên sông: 11 lần
Tên núi: 7 lần
Tên đồi, gò: 8 lần
Tên chợ: 9 lần
Tên bãi, bến: 4 lần
Tân đường: 8 lần
Tên đồng ruộng: 2 lần
Tên cầu: 4 lần
Tên chùa: 4 lần
MAI THỊ HỒNG HẢI
Từ số lần xuất hiện các tên riêng
chỉ địa danh, chúng tôi nhận thấy:
1. Đặc điểm bao trùm và nổi bật là
tên các loại địa danh đều thuộc địa bàn
cư trú của người Mường ở Thanh Hoá:
tính dân gian và tính nguyên sơ cũng
thể hiện khá rõ:
... tốt mường là mường Cun Võng
Tốt trống là trồng Cun Xàng
Tốt trầu, tốt nang Đạo Kí
Tốt bến, tốt nước: Âma, Mí, Xảm,
Khèo
Lắm tre pheo làng Bèo, làng Bọt
Lắm sặt là đất đồi Công
Lắm cồng uui cao là đất Khướng,
Khái
Lắm rú bãi là đất Cành Nàng...
(Mường Vống nay thuộc xã Cấm
Giang; Mường Xàng ở Bá Thước; Mường
Ký nay ở xã Kỳ Tân và xã Văn Nho
huyện Bá Thước; Âm, Mí, Xảm Khèo là
tên bốn làng thuộc vùng Hồ Điền - Bá
Thước; làng Bèo, Bọt nay thuộc xã Cẩm
Tiến - Cẩm Thuỷ ở đây có nhiều tre,
luồng...)
+ Lâu bưa lâu ngày
Ta đi đường Mường Khô cho thoa
lòng trông đi ngó lại
Trông xuống chợ Bãi
Tq chơi lại chợ Mu...
(Mường Khô nay thuộc xã Điền Lư -
Bá Thước; chợ Bãi, chợ Mầu ở Cẩm Vân
- Cẩm Thuỷ)
+ Em ở nhà ra đi qua cầu cây sỉ
bến. Một
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Tay em cầm nón, tay nhón lấy quai
Đi đường Mường Ai sợ lấm
Đi đường Mường Khẩm sợ quanh
Đi đường Mường Danh nghe nên
tréo tró
(Bến Một xưa nay thuộc xã Quí
Nương - huyện Bá Thước; Mường Ai
nay thuộc xã Long Vân; Mường Khấm
(tức Mường Phấm) nay thuộc xã Cẩm
Thạch; Mường Danh nay thuộc xã Cẩm
Bình).
2. Tên địa danh các đơn vị hành
chính như làng, mường xuất hiện nhiều
nhất: 78 lần trong tổng số 135. Tên các
mường đều là tên các đơn vị hành chính
tồn tại cho đến Cách mạng Tháng Tám
19450).
ở. Tên địa danh các đơn vị hành
chính cũng như tên các loại địa danh
khác thuộc địa bàn miền xuôi của tỉnh
Thanh Hoá hầu như không có. (Địa bàn
Thanh Hoá có thể phân làm hai miền
khá rõ: miền núi và miền xuôi. Miền
núi xứ Thanh là một khu vực rộng lón,
chiếm 2/3 diện tích tự nhiên toàn tỉnh:
Cư trú trên vùng đất miền núi xứ
Thanh ngày nay là các dân tộc: Việt,
Mường, Thái, Thổ, Hmông, Khởơmú,
Dao, trong đó dân tộc Mường có số
lượng dân cư đông nhất và có mặt từ
lâu đời. Người Mường tập trung ở các
vùng đổi núi thấp dọc hai bên lưu vực
sông Mã, sông Âm, sông Mực... thuộc
các huyện Ngọc Lạc, Bá Thước, Cẩm
Thuỷ, Lang Chánh, Thạch Thành...).
4. Tên các loại địa danh thuộc địa
bàn các tỉnh ngoài (như Hoà Bình) chỉ
45
xuất hiện một lần trong đoạn bài ca
sau:
Thương thiết quay mặt trông xuống
Mường Mu
Thấy đàn chim cu ăn lúa Mường
Vống
Thấy đàn chim cu ăn lúa Mường Bi
Anh chưa hịp hút khúc xường "chân
đi” sao em đã ngủ...
Anh chưa kịp hút khúc xường “gòi
chảy" em đành sao đi nằm...
Mường Mu thuộc xã Long Vân -
huyện Bá Thước; Mường Vống thuộc xã
Cẩm Giang huyện Cẩm Thuỷ: Mường
BI - một mường lớn ở Hoà Bình). Việc
xuất hiện tên Mường Bi theo chúng tôi
cũng có thể là do nhu cầu bắt vần với
câu dưới:
Nguyên bản tiếng Mường là:
Xương xiết, viễn mặt trôông xuồng
mướng Mu
Kỉa tán cú cu ăn loó mướng Vôồng
Kỉa tán cú côồng ăn loó mướng P¿
Eenh chưa rắng xướng chân ứi nó
ùn tà tây
Eenh chưa rắng xướng cái trầy ùn
tà t¡ nắm...
Những số liệu thống kê cùng sự
phân tích sơ bộ như trên cho chúng ta
thấy rằng: Người Mường rất gắn bó với
làng, với mường. Điều này trùng hợp
VỚI NEƯỜI Việt, Nhưng điểm khác và
nổi rõ hơn ở đây là: đặc điểm của sự
xuất hiện tên các địa danh đã phản ánh
rõ tính chất "tự cấp tự túc khá khép
kín". Trong sinh hoạt xã hội, sinh hoạt
46
văn hoá, văn nghệ của người Mường ở
xứ Thanh trước đây. Nó chứng tỏ tính
địa phương là một trong những đặc
trưng của thể loại Xường giao duyên -
một hình thức sinh hoạt văn nghệ cổ
truyền đã phát triển trong những điều
kiện xã hội - lịch sử khác xa ngày nay.
Trên thực tế, sự tồn tại của diễn xướng
xường giao duyên - cho đến nay - không
còn nữa (lí do vì sao chúng tôi xin chưa
trình bày trong bài viết này). Song
những âm vang của tên đất, tên mường
vẫn gợi lên sức sống và vai trò của sinh
hoạt xường giao duyên trong đời sống
văn hoá tỉnh thần của người Mường ở
xứ Thanh.
Sự xuất hiện các tên riêng chỉ địa
danh trong xường giao duyên cũng
thường liên quan đến hai chủ đề phổ
biến như trong ca dao của người Việt là
ea ngợi tình yêu nam nữ, ca ngợi cảnh
vật và truyền thống địa phương”. Song
do chức năng sinh hoạt xã hội của thể
loại qui định, nên các tên riêng chỉ địa
danh thường xuất hiện nhiều hơn ở chủ
đề thể hiện tâm tư tình cảm, tình yêu
lứa đôi.
Địa danh dùng để thể hiện nỗi nhớ
mong xa cách và ước nguyện gắn bó:
+Em thì ở đất
Anh ở một mường
Nghe sầu nghe thương
Trèo lên núi Puluoong anh mong
ngó ró...
+lĩm ở ngon sông Chếnh
Anh ở ngọn sông Âm
MAI THỊ HỒNG HẢI
Ước sao ta được như đôi chìm
Án ngày bay đêm chung nhau một
Sa...
+ Ước sao anh biến nên chiếc nốc,
em biến nên mái dầm
Để trời mưa dâm, ta chèo ngang
sông sang đất La Hán...
Sự xuất hiện của những tên riêng
chỉ địa danh như vậy cũng có vai trò
góp phần tìm hiểu, khám phá những
biểu hiện phong phú, đa dạng trong đời
sống tình cảm con người, đặc biệt là
trong tình yêu đôi lứa.
Rõ ràng trên cái nền truyền thống
chung của văn học dân gian thể hiện
trong thể loại, các tên riêng chỉ địa
danh cũng có vai trò góp phần cấu tạo,
tổ chức nội dung bài ca, đặc biệt góp
phần "tạo nên tính địa phương của văn
học dân gian"“)
M.T.H.H
(1) Nguyễn Xuân Kính "Cách dùng tên
riêng chỉ địa điểm" trong sách “Thi pháp ca
đao” Nxb Khoa học xã hội, 1999,
(2) Cách phân loại tên địa danh chúng
tôi dựa theo cách phân loại tên riêng chỉ
địa điểm của PGS.TS Nguyễn Xuân Kính
trong sách đã dẫn (1).
(3) Theo tài liệu "Nghiên cứu vấn để
Mường nước" của Ban dân tộc Thanh Hoá,
tháng 6 năm 1975,
(4), (5), (6) Xem Nguyễn Xuân Kính,
sách đã dân,