
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
---oOo---
TIỂU LUẬN MÔN NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
CÁC TỔ CHỨC ĐÁNH GIÁ RỦI RO QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI
Thực hiện : NHÓM 09
GVHD : PGS TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
Lớp : K21-NGÂN HÀNG Đ ÊM 4
PHẠM THỊ KIỀU NGÂN
PHAN THÀNH NHÂN
TRẦN THỤY HO ÀI MY
TRẦN NHƯ PHƯƠN G
TP.HCM, THÁNG 02/2013

1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong nền kinh tế rủi ro có thể xuất hiện
trong bất kỳ lĩnh vực nào. Rủi ro có thể phát sinh từ những quốc gia giàu có
nhất cho đến những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Rủi ro xuất hiện có thể
ngoài những dự báo của con người và gây nên những hậu quả to lớn về lâu dài.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ
như hiện nay thì rủi ro không chỉ đơn thuần được xem xét trong phạm vi một
lĩnh vực bên trong một quốc gia mà nó được mở rộng ra phạm vi một quốc gia
và lớn hơn đó là phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy cần phải xem xét rủi ro ở tầm
quốc gia, tức là rủi ro quốc gia, khi tiến hành hoạt động đầu tư . Chính vì vậy,
rủi ro quốc gia được đánh giá như thế nào chúng tôi lựa chọn đề tài” CÁC TỔ
CHỨC ĐÁNH GIÁ RỦI RO QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI”.

2
I. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO QUỐC GIA
1. Khái niệm về rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế,
về chính sách quản lý ngoại hối – ngoại thương của một quốc gia khiến cho con nợ
không thể hoặc không sẵn sàng để thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho chủ nợ ở
nước ngoài. Chẳn hạn như: nhà xuất khẩu không nhận được t iền thanh toán, nhà đầu
tư hoặc người cho vay không thu hồi được vốn…
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xă hội, chính
trị ở một quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro
quốc gia cũng bao gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối
trả nợ nước ngoài của chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá t hấp tiền tệ hay
mất giá, phá giá tiền tệ
2. Phân loại
Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó có những
quan niệm cơ bản như sau
2.1. Rủi ro Quốc gia đứng trên góc độ lãnh thổ Rủi ro Quốc Gia của nước
nhập khẩu và Rủi Ro Quốc Gia của nước xuất khẩu.
Rủi ro Quốc Gia của nước nhập khẩu: Xảy ra khi người mua hoàn
toàn có khả năng và sẵn sàng thanh toán cho người bán, song do những
gbiến động hoặc biến cố bất thường trong quốc gia nhập khẩu ảnh hưởng
đến chính trị, kinh tế… khiến cho Chính Phủ nước đó cấm các công ty của
mình thanh toán ngoại tệ cho nước ngoài, hoặc nhập khẩu hàng hóa về
thuộc diện cấm không làm thủ tục thông quan nên không thể thanh toán.
Rủi ro Quốc Gia của nước xu ất khẩu: Xảy ra khi có sự thay đổi về
chính sách ngoại thương, thuế quan của quốc gia đó. Nhà xuất khẩu đã
chuẩn bị giao hàng, song do biểu thuế xuất khẩu tăng, hoặc hàng hóa đó bị
cấm xuất khẩu nên gặp rủi ro không thể chuyển hàng đi. Đôi khi do quan hệ
giữa hệ hai quốc gia có biến cố không bình thường, nên khó khăn trong việc
nhận tiền hàng của người xuất khẩu

3
2.2. Đứng trên góc độ đầu tư: rủi ro quốc gia gồm rủi ro kinh tế, rủi ro
thương mại và rủi ro chính trị.
Rủi ro kinh tế: là rủi ro liên quan tới việc phát triển kinh tế vĩ mô của
một quốc gia, như sự phát triển lăi suất và tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng
tới khả năng lợi nhuận của đầu tư.
Rủi ro thương mại : là rủi ro liên quan đến một đầu tư xác định, chẳng
hạn như rủi ro liên quan đến việc hoàn thành đầy đủ các hợp đồng với các
công ty tư nhân hay đối tác địa phương.
Rủi ro chính trị: thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc
gia mà có thể ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các
nghĩa vụ tài chính của mình. Rủi ro chính trị tăng lên từ các sự kiện như
chiến tranh, xung đột nội bộ hay xung đột bên ngoài, khủng bố… dẫn đến
những thay đổi trong chính phủ
2.3. Một quan điểm thứ ba trong phân tích rủi ro quốc gia là phân loại rủi
ro quốc gia thành rủi ro chính trị, và rủi ro tài chính.
Cách phân loại này là cách phân loại phổ biến nhất và thường được các tổ chức
xếp hạng sử dụng.
Rủi ro chính trị.
Rủi ro tài chính thể hiện khả năng của một quốc gia để đáp ứng cho
việc thanh toán các khoản tín dụng chính thức, thương mại… nước ngoài.
Rủi ro kinh tế và rủi ro t ài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia
đối với các khoản nợ của mình, trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh
thiện chí trả nợ đó.
II. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA
1. RỦI RO CHÍNH TRỊ
1.1.
Nh ững hàn h đ ộn g củ a chí nh ph ủ:
Đối với nhiều quốc gia đây là loại rủi ro quan trọng nhất. Một quốc gia
là một thực thể chính trị với những luật lệ và quy định áp dụng đối với đầu
tư. Thêm vào đó những điều luật bảo vệ quyền đối với tài sản cá nhân, sự

4
sẵn sàng và khả năng của một chính phủ thay đổi những luật lệ và quy định
này sẽ tạo thành một nguồn rủi ro đối với đầu tư.
Chính phủ có quy ền lực đặc biệt tác động tới nền kinh tế; chính phủ có
thể đưa ra một đạo luật tác động tới một số ngành công nghiệp hoặc một số
công ty mà nhà đầu tư đang đầu tư vào, hoặc chính phủ có thể ban hành luật
mới điều chỉnh trần lãi suất ngân hàng, xoá nợ cho một số nhóm ngành cụ
thể của xã hội.
Khi quốc gia có một vị thủ tướng hay tổng thống mới, họ có những hệ tư
tưởng kinh tế và chính trị khác nhau. Trong quá trình này, vận mệnh của
nhiều ngành và nhiều công ty có thể trải qua một sự thay đổi lớn lao. Thay
đổi các chính sách chính phủ mới cũng là một nguyên nhân của rủi ro chính
trị.
Hệ thống pháp luật phát triển chưa đầy đủ rõ ràng sẽ gây tâm lý bất an
cho nhà đầu tư, những thủ tục và giấy tờ rườm rà làm bước cản cho nguồn
vốn đầu tư đổ vào trong nước.
Mức độ tham nhũng cao, lạm dụng quyền lực công, các quyền lực quan
chức chính phủ cho lợi ích cá nhân, ví dụ như đòi hỏi, yêu cầu đưa hối lộ,
đây là một trong những nhân tố chính của rủi ro chính trị ở nước đang phát
triển
1. 2. C hu yển vốn ra nư ớc ng oài hay là Đồ n g t iền k h ông c ó k hả n ăn g c huyể n đ ổi:
Chính trị mang không ít rủi ro cho người đầu tư và nguy cơ phát sinh
khi bên cho vay hoặc các nhà đầu tư khi nhận tiền trả nợ hoặc khoản thu hồi
từ hoạt động đầu tư bị hạn chế bởi các quyết định của Nhà nước, Chính phủ
làm trở ngoại hoặc ngăn cản hoạt động kinh doanh, như: tịch thu, quốc hữu
hóa, thoái thác…
Cụ thể khi đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài thường chú ý khi đánh giá
rủi ro của một quốc gia là tắc nghẽn chuy ển giao tiền tệ. Thông thường, các
nhà đầu tư muốn đầu tư vào một quốc gia khác, có được lợi nhuận và
chuyển nó trở lại nước nhà. Vì vậy, tắc nghẽn chuyển tiền hay là đồng tiền
không có khả năng chuyển đổi thành nội tệ của nhà đầu tư gây trở ngại đến