
Tổchức hoạtđộng nhận thức của
học sinh trong dạy học vật lý
Mục tiêu giáo dục trong thờiđại mới là không chỉdừng lạiởviệc
truyền thụnhững kiến thức, kỹnăng có sẵn cho học sinh mà điềuđặc biệt
quan trọng là phải bồi dưỡng cho họnăng lực sáng tạo, năng lực giải quyết
vấnđề,để từ đó có thểsáng tạo ra những tri thức mới, phương pháp mới,
cách giải quyết vấnđề mới, góp phần làm giàu thêm nền kiến thức của nhân
loại.
Mục tiêu giáo dục trong thờiđại mới
Mục tiêu giáo dục trong thờiđại mới là không chỉdừng lạiởviệc truyền thụ
những kiến thức, kỹnăng có sẵn cho học sinh mà điềuđặc biệt quan trọng là phải
bồi dưỡng cho họnăng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấnđề,để từ đó có thể
sáng tạo ra những tri thức mới, phương pháp mới, cách giải quyết vấnđề mới, góp
phần làm giàu thêm nền kiến thức của nhân loại. Vì vậy việc dạy học nói chung và
dạy học vật lý nói riêng cần phảiđổi mới mạnh mẽvềnội dung và phương pháp,
nhất là đổi mới phương pháp dạy và học sao cho vai trò tựchủcủa học sinh trong
hoạtđộng xây dựng kiến thức ngày một nâng cao, để từ đó năng lực sáng tạo của
họ được bộc lộvà ngày càng phát triển. Để đạtđượcđiềuđó, trong quá trình dạy
họcởtrường phổthông cần phải tổchức sao cho học sinh được tham gia vào quá
trình hoạtđộng nhận thức phỏng theo hoạtđộng của các nhà khoa học, qua đó
ngoài việc có thểgiúp học sinh trang bịkiến thức cho mình, đồng thời còn cho họ

được tập luyện hoạtđộng sáng tạo khoa học, rèn luyện năng lực giải quyết vấnđề
để sau này họ đápứng được những đòi hỏi cao trong thời kỳmới.
Bản chất của quá trình dạy học hiệnđại
Để đạtđược mục tiêu giáo dục, chiến lược dạy học, phương pháp dạy học
mới hiện nay được xây dựng trên tinh thần dạy học giải quyết vấnđề thông qua
việc tổchức cho học sinh hoạtđộng tựchủchiếm lĩnh kiến thức mà cơsởcủa nó là
hai lý thuyết phát triển nhận thức của Jean Piaget (1896-1980) và Lép Vưgôtski
(1896-1934). Việc học tập của học sinh có bản chất hoạtđộng, thông qua hoạt
động của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực trí
tuệcũng nhưquan điểmđạođức, thái độ. Nhưvậy, dạy học là dạy hoạtđộng.
Trong quá trình dạy học, học sinh là chủthểnhận thức, giáo viên có vai trò tổchức,
kiểm tra, định hướng hoạtđộng học tập của học sinh theo một chiến lược hợp lý
sao cho học sinh tựchủchiếm lĩnh, xây dựng tri thức. Quá trình dạy học các tri
thức thuộc một môn khoa học cụthể được hiểu là quá trình hoạtđộng của giáo
viên và của học sinh trong sựtương tác thống nhất biện chứng của ba thành phần
trong hệdạy học bao gồm: Giáo viên,học sinh và tưliệu hoạtđộng dạy học.
Hoạtđộng dạy và hoạtđộng học
Hoạtđộng học của học sinh bao gồm các hành động với tưliệu dạy học, sự
trao đổi, tranh luận với nhau và sựtrao đổi với giáo viên. Hành động học của học
sinh với tưliệu hoạtđộng dạy học là sựthích ứng của học sinh với tình huống học
tậpđồng thời là hành động chiếm lĩnh, xây dựng tri thức cho bản thân mình. Sự
trao đổi, tranh luận giữa học sinh với nhau và giữa học sinh với giáo viên nhằm
tranh thủsựhỗtrợxã hội từphía giáo viên và tập thểhọc sinh trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức. Thông qua các hoạtđộng của học sinh với tưliệu học tập và sự
trao đổiđó mà giáo viên thu được những thông tin liên hệngược cần thiết cho sự
định hướng của giáo viên đối với học sinh.
Hoạtđộng của giáo viên bao gồm hành động với tưliệu dạy học và sự
trao đổi, định hướng trực tiếp với học sinh. Giáo viên là người tổchức tưliệu hoạt
động dạy học, cung cấp tưliệu nhằm tạo tình huống cho hoạtđộng của học sinh.
Dựa trên tưliệu hoạtđộng dạy học, giáo viên có vai trò tổchức, kiểm tra, định

hướng hoạtđộng của học sinh với tưliệu học tập và định hướng sựtrao đổi, tranh
luận của học sinh với nhau.
Tóm lại, theo quan điểm hiệnđại thì dạy học là dạy giải quyết vấnđề,
quá trình dạy - học bao gồm "một hệthống các hành động có mụcđích của giáo
viên tổchức hoạtđộng trí óc và tay chân của học sinh, đảm bảo cho học sinh chiếm
lĩnh được nội dung dạy học, đạtđược mục tiêu xác định". Trong quá trình dạy học,
giáo viên tổchứcđịnh hướng hành động chiếm lĩnh tri thức vật lý của học sinh
phỏng theo tiến trình của chu trình sáng tạo khoa học. Nhưvậy, chúng ta có thể
hình dung diễn biến của hoạtđộng dạy học nhưsau:
- Giáo viên tổchức tình huống (giao nhiệm vụcho học sinh): học sinh
hăng hái đảm nhận nhiệm vụ, gặp khó khăn, nảy sinh vấnđề cần tìm tòi giải quyết.
Dưới sựchỉ đạo của giáo viên, vấnđề được diễnđạt chính xác hóa, phù hợp với
mục tiêu dạy học và các nội dung cụthể đã xác định.
- Học sinh tựchủtìm tòi giải quyết vấnđề đặt ra. Với sựtheo dõi, định
hướng, giúp đỡ của giáo viên, hoạtđộng học của học sinh diễn ra theo một tiến
trình hợp lí, phù hợp với những đòi hỏi phương pháp luận.
- Giáo viên chỉ đạo sựtrao đổi, tranh luận của học sinh, bổsung, tổng
kết, khái quát hóa, thểchếhóa tri thức, kiểm tra kết quảhọc phù hợp với mục tiêu
dạy học các nội dung cụthể đã xác định.
So sánh ưu, nhượcđiểm giữa trắc
nghiệm khách quan và tựluận

Hiện nay, phương thức kiểm tra ởcác môn Vật lý, Hóa học, Sinh học,
Tiếng Anh thường sửdụng là trắc nghiệm khách quan. Tuy nhiên, phương
thức này vẫn có những nhượcđiểm cốhữu của nó . Chúng ta sẽtìm hiểu
những ưuđiểm và nhượcđiểm của nó so với phương thức kiểm tra bằng tự
luậnđể có thểvận dụng vào kiểm tra đánh giá học sinh một cách tích cực,
khách quan nhất.
Trắc nghiệm
khách quan Tựluận
Chấm bài nhanh,
chính xác và khách quan.
Chấm bài mất nhiều
thời gian, khó chính xác và
khách quan
Có thểsửdụng các
phương tiện hiệnđại
trong chấm bài và phân
tích kết quảkiểm tra.
Không thểsửdụng các
phương tiện hiệnđại trong
chấm bài và phân tích kết quả
kiểm tra. Cách chấm bài duy
nhất là giáo viên phảiđọc bài
làm của học sinh.
Có thểtiến hành
kiểm tra đánh giá trên
diện rộng trong một
khoảng thời gian ngắn.
Mất nhiều thời gian để
tiến hành kiểm tra trên diện
rộng
Biên soạn khó, tốn
nhiều thời gian, thậm chí
sửdụng các phần mềmđể
Biên soạn không khó
khăn và tốn ít thời gian.

trộnđề.
Bài kiểm tra có rất
nhiều câu hỏi nên có thể
kiểm tra được một cách
hệthống và toàn diện
kiến thức và kĩnăng của
học sinh, tránh được tình
trạng học tủ, dạy tủ.
Bài kiểm tra chỉcó một
sốrất hạn chếcâu hỏiởmột
sốphần, sốchương nhấtđịnh
nên chỉcó thểkiểm tra được
một phần nhỏkiến thức và kĩ
năng của học sinh , dễgây ra
tình trạng học tủ, dạy tủ.
Tạođiều kiệnđể HS
tự đánh giá kết quảhọc
tập của mình một cách
chính xác.
Học sinh khó có thểtự
đánh giá chính xác bài kiểm
tra của mình.
Không hoặc rất khó
đánh giá được khảnăng
diễnđạt, sửdụng ngôn
ngữvà quá trình tưduy
của học sinh để điđến
câu trảlời.
Có thể đánh giá đượcc
khảnăng diễnđạt, sửdụng
ngôn ngữvà quá trình tưduy
của học sinh để điđến câu trả
lời.Thểhiệnởbài làm của học
sinh
Không góp phần
rèn luyện cho HS khả
năng trình bày, diễnđạt ý
kiến của mình. Học sinh
khi làm bài chỉcó thể
chọn câu trảlờiđúng có
sẵn.
Góp phần rèn luyện cho
học sinh khảnăng trình bày,
diễnđạt ý kiến của mình..
Sựphân phốiđiểm
trải trên một phổrất rộng
nên có thểphân biệt
Sựphân phốiđiểm trải
trên một phổhẹp nên khó có
thểphân biệtđược rõ ràng

