
TRƯỜNG CĐ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VÀ DU LỊCH SÀI
GÒN
BÁO CÁO THỰC TẬP
TOUR XUYÊN VIỆT
NĂM HỌC : 2007 – 2011

HÀ NAM
Hà Nam là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng
Việt Nam. Phía bắc tiếp giáp với Hà Nội, phía đông giáp với
tỉnh Hưng Yên và Thái Bình, phía nam giáp tỉnh Ninh Bình,
đông nam giáp tỉnh Nam Định và phía tây giáp tỉnh Hòa Bình.
Hà Nam bao gồm thành phố Phủ Lý và 5 huyện:
Huyện Bình Lục
Huyện Duy Tiên
Huyện Kim Bảng
Huyện Lý Nhân
Huyện Thanh Liêm
Thành phố Phủ Lý cách Hà Nội khoảng 60km.
GIAO THÔNG ;
Đường sắt : Bắc – Nam
Đường bộ : Quốc lộ 21A , Quốc lộ 21B , Quốc lộ 38
Diện tích: 823,1 km² lượng mưa trung bình hàng năm:
1.900 mm nhiệt độ trung bình: 23-24°C số giờ nắng trong năm:
1.300-1.500 giờ độ ẩm tương đối trung bình: 85%
Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông. Phía Tây của tỉnh
(chủ yếu ở huyện Kim Bảng) có địa hình đồi núi. Phía Đông là
đồng bằng với nhiều điểm trũng.

Dân cư
Hà Nam có 811.126 người (1999), chiếm 1,1% dân số cả
nước và 5,6% dân số đồng bằng sông Hồng, mật độ dân số
986,2 người/km². 91,5% dân số sống ở khu vực nông thôn và
8,5% sống ở khu vực đô thị. Dân cư đô thị chủ yếu ở thành phố
Phủ Lý và các thị trấn: Hòa Mạc, Đồng Văn, Quế, Vĩnh Trụ,
Bình Mỹ, Kiện Khê. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên năm 1999 là
1,5%.
Lịch sử
Từ thời các vua Hùng, đất Hà Nam ngày nay nằm trong
quận Vũ Bình thuộc bộ Giao Chỉ; đến thời nhà Trần đổi là châu
Lỵ Nhân, thuộc lộ Đông Đô. Ngày 20/10/1908, Toàn quyền
Đông Dương ra nghị định đem toàn bộ phủ Liêm Bình và 17 xã
của huyện Vụ Bản và Thượng Nguyên (phần nam Mỹ Lộc) của
tỉnh Nam Định, cùng với 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên Nghiệp của
huyện Phú Xuyên (Hà Nội), nhập vào huyện Duy Tiên lập thành
tỉnh Hà Nam. Tháng 4 năm 1965, Hà Nam được sáp nhập với
tỉnh Nam Định thành tỉnh Nam Hà. Tháng 12 năm 1975, Nam
Hà sáp nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh, năm 1992
tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình lại chia tách như cũ. Tháng 11
năm 1996, tỉnh Hà Nam được tái lập.
Văn hóa
Hà Nam là tỉnh có nền văn minh lúa nước lâu đời và nền
văn hóa dân gian phong phú, thể hiện qua các điệu chèo, hát

chầu văn, hầu bóng, ả đào, đặc biệt là hát dậm. Đây cũng là
vùng đất có nhiều lễ hội truyền thống và di tích lịch sử.
Một số lễ hội truyền thống tiêu biểu:
Lễ hội đền Trúc (còn gọi là hội Quyển Sơn) tổ chức
ở xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng tổ chức từ mùng 6 tháng giêng
đến mùng 10 tháng 2 âm lịch.
Hội chùa Đọi Sơn ở xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên,
thờ Phật, thờ Lê Đại Hành, Nguyên phi Ỷ Lan, và Lê Thánh
Tông; hội tổ chức vào 21 tháng 3 âm lịch.
Hội đền Trần Thương ở xã Nhân Đạo, huyện Lý
Nhân, thờ Phật, thờ Lê Đại Hành, Nguyên phi Ỷ Lan, và Lê
Thánh Tông; hội tổ chức vào 18 đến 20 tháng 8 âm lịch, đây là
lễ hội lớn của vùng, có tổ chức bơi trải và nhiều trò vui khcs.
Đền Trần Thương thờ Trần Hưng Đạo.
Hội làng Duy Hải ở huyện Duy Tiên, thờ Trần
Khánh Dư, được tổ chức hằng năm vào 22 tháng giêng.
Di tích lịch sử
Danh thắng Kẽm Trống thuộc xã Thanh Hải, huyện
Thanh Liêm, đây là nơi dòng sông Đáy chảy xen giữa hai dãy
núi đá vôi tạo thành cảnh quan sơn thủy thơ mộng.
Đền Trúc-Ngũ Động Sơn: nằm tại thôn Quyển Sơn,
xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, cách Phủ Lý hơn 7 km theo quốc
lộ 21A. Tương truyền Lý Thường Kiệt trên đường chiến thắng

trở về đã cho quân dừng ở đây để tế lễ và ăn mừng. Sau này để
tưởng nhớ ông, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ dưới chân
núi Cấm gọi là đền Trúc. Trong dãy núi còn có
Danh thắng Ngũ Động Sơn, là năm hang đá nối liền
nhau thành một dãy động liên hoàn, có chiều sâu trên 100m.
Chùa Long Đọi: được xây dựng từ đời vua Lý Thánh
Tông, chùa nằm ở toạ độ 105o30-186,01 kinh độ đông; 20o20-
22,775 vĩ độ bắc. Chùa nằm trên đỉnh núi Đọi, với độ cao 79m
so với mặt nước biển, thuộc địa phận xã Đọi Sơn huyện Duy
Tiên, cách thủ đô Hà Nội 50km về phía nam; cách thành phố
Phủ Lý 10 km về phía đông bắc. Long Đọi sơn tự nằm trên thế
đất cửu long. Toàn cảnh núi Đọi nhìn xa giống như một con
rồng đất rất lớn nằm phục ở giữa đồng bằng vùng chiêm trũng.
Tuy được xây dựng từ giữa thế kỷ XI nhưng thực sự phát triển
và xây dựng bề thế vào năm 1118, đời vua Lý Nhân Tông, tháp
Sùng Thiện Diên Linh đã được xây dựng với ý nghĩa cầu thiện.
Động Cô Đôi (thiên cung đệ nhất động) ở Ba Sao,
Ao Tiên,
Đầm Tiểu Lục Nhạc,
Sông Đáy, sông Châu...
KHÁCH SẠN :