T học để biết đến học để biết làm
- Một đất nước munnhng bước phát trin nhy vt tđầu tư để phát trin
con người cần được xem là loi đầu tư có giá trị hàng đầu, trong đó đầu tư cho giáo
dc là loại đầu tư có tầm chiến lược.
Nói đến hi hoá giáo dc đi hc chúng ta phải xét đến con s sinh viên đại hc
trên tng s dân. Theo thống kê đi chiếu do ông H Anh Tun cung cp (bàn tròn
do TBKTSG t chc vào ngày 14-5-1999) thì Vit Nam hin nay t l đó là 32
sinh viên trên 10.000 n. Trong khi đó con s tương đương ở Thái Lan và Hàn
Quốc đông hơn ở Vit Nam t 8 đến 12 ln. Xem thế ta cn phi phát trin mng
lưới các trường đại hc, công lp cũng như dân lp, mi mong theo kp các nước
chung quanh v mt giáo dục đại hc.
Ch mi đối chiếu con s sinh viên theo học đại hc Vit Nam hai nước
châu Á ta thy thua h quá xa. Ti sao li có tình trạng như vậy?
Khó khăn cho việc xã hi hoá giáo dc đại hc nước ta nm khâu tuyn sinh
đại hc, không phải đậu xong tú tài hc sinh nào cũng đều được đi học đại hc.
Nếu đậu tú c tnh thì các em phi tp trung v các thành ph để thi tuyn vào
đại hc. Sĩ số d thi để được tuyn vào một trường đại học nào đó, công lập hay
dân lập, thường phi chi t m đến 12 sinh viên để chn mt. Rõ ràng đây là
mt rào cn rt khc lit cho các cô chiêu cu tú ca ngày m nay, khác vi
những năm 1950, c ai đậu được tú tài thì con đường học lên đại học, đỗ c nhân,
bác sĩ, kỹ sư được rng m.
Vi mt rào cn rt gay gắt như thế mà đầu tư cho giáo dục đại hc công lp
dn lp cũng đòi hi mt s tin khng l. Chính vì vậy Nhà nước không nên và
không th ôm c trách nhim đầu tư này cho riêng mình ngân sách còn phi chi
cho nhiu chuyn khác. Nhà nước nên để cho người Vit trong nước và nước
ngoài, thm c c cộng đồng người nước ngoài cùng chia s trách nhim đu
này min là không đi ngược li vi mục tiêu Nhà nước đề ra.
Li xin nói v đầu ra. Nn giáo dục đại hc ca Vit Nam munhiu qu t
phải có chương trình đào tạo có cht lượng ngày mt cao, nhưng chất lượng này do
ai đặt ra? Chúng ta thường quên là sn phẩm mà đại học đào tạo - nghĩa là s sinh
viên theo hc cấp đại hc - không phi là để cho đại hc s dụng mà là để cho xã
hi nói chung s dng. Thế mà đại hc không h để ý đến phn ng ca xã hi đối
vi sn phm mình đào tạo. c nước chung quanh ta, các hip hi ngành
ngh chuyên môn như hội ngành xây dng, qun tr, kế toán... đu có góp ý vic
trường đại hc v chương trình ging dy các b môn này đại hc sao cho p
hp vi tình hình thc tế ngoài xã hi. Chương trình ging dy được thay đổi như
thế nào để cho sinh viên khi ra trường không thy ng ngành v ngành mà mình
định xin vào. Ngành giáo dc không còn trong tháp ngà xa ri vi thc tế.
Chúng ta cũng có tiến hành đánh giá chất lượng đào tạo đại học, nhưng đánh giá
nó t góc đ của người làm giáo dc, ngưi dy đại hc ch chưa làm như các
nước khác. Ngay như ở Nhật, người ta đòi hi mt sinh viên tt nghip nước
ngoài phi theo hc mt khoá hc ca ngành nào đó tại một trường đại hc Nht
trong mt thi gian t sau tháng đến một năm trước khi đi làm ở mt hãng Nht
trong c.ràng nn giáo dục đại hc Nht là mt mt xích trong quá trình
nht th hoá t giáo dục đào tạo đến sn xuất kinh doanh. Tôi đng ý chất lượng
đào tạo là quan trọng nhưng tôi cho rằng không phi chngành giáo dục đánh
giá chất lượng đó mà phải có s đồng đánh giá ca các ngành ngh chuyên môn
khác trong hi vì h là người trc tiếp s dng sn phm.
Nhn xét ca tôi đây có liên quan đến mc tiêu giáo dục đại hc. Cách ging dy
tại địa hc ca chúng ta hin nay là dy cho sinh viên học để biết. Có nghĩa là dy
chuyên v lý thuyết ít có thực hành, ít có đi thực tế để tìm hiu cách mà khu
vc sn xuất và kinh doanh đang làm hiện nay. Còn cách dy các c khác
dy sinh viên học đ biết làm, có nghĩa là chương trình ging dy phi kết hp
thuyết và thc tế sn xut kinh doanh hin có trong xã hi, xut phát t vic ng
dng lý thuyết đó vào thc tế. T biết đến làmn mt khong cách rt xa.
Nhưng có phải là ngành giáo dc ca ta không biết được điều đó ? Thưa có biết.
Biết ti sao không làm? Có nhiu vấn đề đây.
Theo chúng tôi, đ được một chương trình đào tạo thích hp cho tng ngành
ngh chuyên môn t phi có s phi hp cht ch và đầy hiu biết gia ngành giáo
dục và ngành chuyên môn nào đó. Muốn có được s hiu biết đó thì 2 ngành phi
có nhng chuyên gia hiu biết rõ chuyên môn, hiu biết rõ nhng nguyên tắc sư
phm, hiunhng điều cn biết v ngành đó và nhu cu v nhân s ca ngành
đó. Hiện nay, Việt Nam chưa có thể có s phi hợp như vừa nói. c kế tiếp
sau khi lên được chương trình ging dy này lin đòi hi mt s phi hp cht
ch giữa trường đại học và cács sn xut kinh doanh. c ta hin nay chưa
có được s phi hợp như vậy vì hai bên chưa hiểu nhau.
Nhưng theo thiển ý, thì vic chuyn đổi mc tiêu ca giáo dục đại hc t học để
biết sang học để biết làm là một điều cn thc hin ngay ty gi nếu chúng ta
mun các sinh viên ca chúng ta trong thi gian ti có th sánh vai vi sinh viên
của các nước khác.