
PH N M Đ UẦ Ở Ầ
Triết học đã trải qua hàng triệu năm phát triển và đạt
được những thành tựu to lớn, ảnh hưởng đến mọi mặt của
đời sống xã hội loài người. Dù triết học phương Tây và
phương Đông ra đời gần như cùng thời điểm (khoảng thế
từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên) nhưng giữa
chúng có những điểm khác biệt căn bản. Những điểm khác
biệt này bắt nguồn từ những điều kiện tự nhiên, điều kiện
lịch sử, văn hóa, xã hội...từ sự khác nhau về quan niệm
sống, cách sống của nguời phương Đông và phương Tây.
Nhìn vào lịch sử phát triển của nền triết học phương
Tây và phương Đông ta có thể nhận thấy được sự đối
nghịch đó. Triết học phương Tây được xây dựng chủ yếu
bởi các nhà khoa học, gắn liền với các thành tựu khoa học
đặc biệt là khoa học tự nhiên.Các nhà triết học phương tây
thiên về giải thích thế giới bằng nhiều cách lý giải khác
nhau thể hiện trong tư duy phản biện của họ. Cho nên, vấn
đề khởi nguyên đã trở thành vấn đề căn bản trong triết học
tự nhiên của họ để trả lời cho “câu hỏi “thế giới bắt đầu từ
đâu và quay về đâu?”, “bản tính của thế giới là gì?” cho
thấy rõ nổ lực của các triết gia mong muốn vượt qua ảnh
hưởng của thế giới quan thần thoại đem đến lời giải đáp
nghiêm túc về tất cả những gì đang diễn ra xung quanh và
tác động trực tiếp lên đời sống con người”1. Nghiên cứu
vấn đề đó họ đã tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con
người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ
1 Triết học Hy Lạp cổ đại, PTS. Đinh Ngọc Thạch, Nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội - 1999

thế giới khách quan. Vì vậy triết học phương Tây mang đậm
tính hướng ngoại, đồng thời họ ít quan tâm đến mặt xã hội
của con người, đề cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con
người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức,
không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để
giải phóng con người.
Triết học phương Tây ít nhiều vẫn duy trì theo đúng
nguyên nghĩa của triết học trong việc tìm kiếm chân lý bằng
lý trí. Tuy nhiên, như đã nói triết học phương Tây ít quan
tâm đến vấn đề về con người, vấn đề này chỉ thực sự len
lỏi vào triết học phương Tây khi nó được đánh dấu bằng
bước ngoặt Socrate. Trong khi đó vấn đề con người trong
lịch sử tư tưởng phương Đông đã có một bề dày lâu dài và
được khai thác ở nhiều góc độ khác nhau thể hiện quan
niệm nhân sinh sâu sắc. Nếu như Hy Lạp, La Mã được xem
như là các trung tâm triết học lớn ở phương Tây thì Ai Cập,
Babylon thì Trung Hoa, Ấn Độ được ví là thành trì của triết
học phương Đông. Khi triết học Trung Hoa ghi dấu ấn bởi
các phương pháp, đường lối trị nước khác nhau trong
những học thuyết chính trị - xã hội thì triết học Ấn Độ
hướng sự quan tâm của mình tới vấn đề giải thoát trong
triết lý đạo đức nhân sinh.
Đặt nền tảng cho toàn bộ căn nguyên tư tưởng của
triết học Ấn Độ thời kì cổ đại đó chính là bộ kinh Upanishad.
Để hiểu được những gì tinh túy nhất của triết học Ấn Độ cổ
đại mà không nắm được cái thần chứa đựng trong

Upanishad thì cũng giống như đi đường mà không có bản
đồ vậy!
Hội tụ trong Upanishad là cả một dòng tư tưởng sâu
sắc và hàm súc nhất, nó vạch ra những tư tưởng mà từ đó
bản thân những ai muốn tiếp thu, tìm hiểu về triết học Ấn
Độ ở thời kì này đều phải cung kính như nó là tất cả những
gì mà chân lý vĩnh hằng đã bao chứa trong đó. Áo nghĩa thư
(tên Việt hóa của Upanishad) được xem là nền tảng của
toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ, nó không những là thành
tựu kì vĩ của riêng người dân Ấn mà hơn thế nó còn là một
trong những tinh hoa của minh triết phương Đông, cũng
như lớn hơn, nó được xem như một bông hoa rực rỡ nhất
giữa đại ngàn núi rừng tư tưởng triết học tâm linh nhân
loại.
Việt Nam với những điều kiện địa lý, lịch sử được biết
đến như là nơi giao lưu, tiếp biến của hai luồng văn hóa
Đông – Tây, chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung hoa
và Ấn Độ. Trong đó Ấn Độ với tư tưởng triết lý nhân sinh
đạo đức, đặc biệt là Phật giáo đã ghi dấu ấn vào nền văn
hóa tinh thần của người Việt và trở thành những giá trị văn
hóa tinh thần quí báu của nhân dân với đặc trưng xem
trọng đời sống tâm linh, truyền thống đạo đức ngàn đời.
Với mục tiêu phát triển xã hội Đảng và nhà nước ta
khẳng định: kiên định về đường lối chính trị của Đảng Cộng
Sản Việt Nam xây dựng đất nước ta theo mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Nhưng nói thế nào đi nữa

mục đích chung của toàn thể nhân loại và mỗi quốc gia đều
muốn hướng đến cuối cùng là vì sự phát triển của chính đời
sống con người, hạnh phúc cho con người. Do vậy, nhân tố
con người là nhân tố cần được quan tâm hàng đầu. Như đã
đề cập, triết học Ấn Độ nói riêng và triết học phương Đông
nói chung nghiên cứu thiên về con người, giải thích các
hiện tượng quy về mối quan hệ đạo đức nhân sinh mà đến
nay nó vẫn còn mang giá trị thức tỉnh thời đại đầy nhân văn
cao cả.
Thiết nghĩ nghiên cứu về triết học Ấn Độ là một việc
hết sức cần thiết và mang ý nghĩa thiết thực. Trong đó
nghiên cứu “Tư tưởng triết học trong Upanishad” sẽ giúp
chúng ta hiểu hơn về triết học Ấn Độ cũng như có cái nhìn
sâu sắc về đạo làm người.
Chương 1
UPANISHAD VIÊN NG C QUÝ C A N N TRI T H C N ĐỌ Ủ Ề Ế Ọ Ấ Ộ
1.1. Ngu n g c c a kinh Upanishadồ ố ủ
Nói đến thánh kinh Veda người ta luôn tôn sùng một
cách kính cẩn, những tư tưởng chứa đựng, thể hiện trong
đó đầy tinh tế, vi diệu và Upanishad là một trong những bộ
kinh quan trọng nhất của thánh kinh Veda. Có thể nói nó là
đứa con được sản sinh ra từ quá trình phát triển và bình
chú kinh Veda mà thành. Do vậy, Upanishad là những lời
bình chú tôn giáo về các lẽ thiết yếu, về ý nghĩa của các lễ

nghi và ý nghĩa triết lý sâu xa của các bài kinh cũng như
các bản thần thoại Veda.
“Upanishad xuất hiện vào khoảng từ thế kỷ thứ VIII
đến thế kỷ thứ V trước công nguyên. Đó là thời kì đặc biệt
của nhân loại. Thời kì mà Karl Jaspers đã mệnh danh là
“thời đại trục” (période axiale) của lịch sử loài người, tức là
thời kỳ với sự phát triển của đời sống xã hội và trí óc, như
một sự gặp gỡ tất yếu, lần đầu tiên ở Hy Lạp, Trung Hoa và
Ấn Độ, con người đồng thời từ bỏ vương quốc của thần
thoại, tôn giáo nguyên thủy để tiến bước sang vương quốc
của tư duy triết học, chuyển từ việc nghiên cứu giới tự
nhiên sang tìm hiểu chính cuộc sống và thế giới nội tâm con
người, với những nhà triết học lớn cùng xuất hiện, đặt cột
mốc cho bước ngoặt lich sử ấy là Socrate, Platon, Aristote
ở Hy Lạp; Khổng Tử, Lão Tử ở Trung Hoa; các tác giả
Upanishad và Phật Thích Ca ở Ấn Độ”2.
Ở phương Tây, sự xuất hiện của Socrates như là một
minh thị cho bước hồi quy mang tính đột phá về tư tưởng
mà người ta thường nhắc đến như một dấu son cho nền
triết học phương Tây – “bước ngoặt Socrates” chuyển từ
triết học tự nhiên sang triết lý học đạo đức, từ nguyên lý vũ
trụ sang nguyên lý nhân sinh. Ciceron cho rằng Socrates đã
đưa triết học từ trên trời xuống dưới đất. Ở Socrates triết
học được quy về đ o đ c h c duy lýạ ứ ọ . Sự đột phá về tư tưởng
ở chỗ dốc toàn bộ ham muốn nhận thức của con người và
2 Doãn Chính, Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nhà xuất bản chính trị Quốc
gia, 1997, tr.110 – 111.