Tư tưởng tự sự học Nga: lịch sử và triển vọng
1
PGS.TS. Đỗ Hải Phong
Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà Nội
T sự học là lĩnh vực tri thc liên ngành, nghn cu về một trong những phương
thc n bản kiến tạo lại bức tranh thế giới sự kiện khúc xạ vào nh dung ca con
người, hình thành ý nghĩa của trong quá trình truyn đạt, giao tiếp. Tự sự học hiểu
theo nghĩa rộng như vậy nguồn gc và quá trình phát trin lâu đời bắt rễ từ lịch sử
nghn cu văn hoá của nhân loại t thi Cổ đi. Theo mt nghĩa hẹp hơn, tự sự hc
như một hệ thống học vấn chặt chẽ như một khoa học lại được hình thành chtđầu
thế kXX và ch thực sự định hình t những m 1960-1970. Bt nguồn từ thuyết
trần thuật của mt s nhà nghn cu phương Tây (Đức, Anh) đu thế k XX, tsự học
như mt khoa học được hình thành dướinh ng tư tưởng sâu đậm của nhiều học gi
ng văn Nga từ nhng năm 1910-1920 cho đến nửa sau thế kỷ. Có thi, một trong
nhng cái nôi của ngành khoa học va lâu đời vừa non trẻ, có sức sống mnh m trong
thời hiện đại này, được thừa nhận làớc Nga.
Wolf Schmid, một trong nhng đại diện tiêu biu của tự sự học đương đại, trong cuốn
ch T sự học (2003) khng định: “Những phạm trù của tự sự học hiện đại được hình
thành ới ảnh ởng quan trọng của nhng nhà thuyết và trường phái nghiên cu
Nga, c thlà những người đại diện cho chủ nghĩa hình thức Nga (V. Shklovsky, B.
Tomashevsky), những học gicủa những m 1920 như V. Propp, M. Bakhtin, V.
Voloshinov, c những nhà thuyết thuộc trường phái Tartus-Moskva (Iu. Lotman,
B. Uspensky)(1). Danh sách các hc giNga và các trường phái góp phần hình tnh
thuyết tự sự còn cn phi được bổ khuyết, nng vai trò khơi nguồn củaởng tự sự
hc Nga là kng thphủ nhận. ớng vận động của những ởng này kng ch
to tiền đề và tác động đến sự phát triển của tự shọc thế giới nói chung, mà còn góp
phần c định con đường phát trin của tsự học Nga bước sang thế k XXI.
Trong i viết này, chúng i giới thiệu thuyết tự sự của các trường phái và các hc
gichchốt trong lịch sử hình thành và phát triển của ởng tự sự học Nga không
phải chỉ để khẳng định ý nga lịch sử của những tưởng này, còn mong muốn
c lp triển vọng của t sự học Nga trong bối cảnh hội nhập với văn hóa thế giới.
I. thuyết t sự ca “Trường pi hình thức Nga”, V. Propp và O. Freidenberg
1.Tờng phái hình thức Nga” là khuynh hướng nổi bật nhất trong giới nghiên cu
ngữ văn Nga những năm 1910-1920. Trường phái y ra đời như một sự phản ứng đối
với ch tiếp cận cảm nh thiên vtriết học, văn hoá, xã hội học lịch sử trong nghiên
cu văn học cuối thế kXIX - đầu thế kXX. Trong bối cảnh luận văn học thiếu
vắng công cụ pn tích văn bản dẫn đến việc bỏ qua, hoặcch biệt những yếu tố hình
thc ra khỏi nội dung văn bản, sự phát triển của ngôn ngữ học thôi thúc ý thức c lập
nghiên cu văn học như một khoa học chính xác trong đó mối quan hệ giữa thực tại và
văn bản, giữa hình thc và nội dung văn chương, giữa ch tiếp cận lịch đại và đồng
đại đòi hi phải được xemt lại.
Trong bi cảnh nhng m 1910-1920, phương pháp hình thứckhông chỉ ngtr
trong Trường phái hình thc” (V. Shklovsky, B. Tomashevsky, B. Eikhenbaum, Iu.
nianov, O. Brik, A. Veksler, A. Slonimsky, L. Iakubinsky), mà n nh ởng lớn
đến nhiều nhà khoa học kng hoàn toàn thuc về tng phái này (V. Zhirmunsky, M.
Petrovsky, B. Iarkho, V. Ghippius, V. Vinogradov, G. Vinokur, I. Gruzdev, G. Shpet,
L. Vưgotsky...).
Trong lĩnh vực tự sự học, c nhà nh thc chủ nghĩa Nga và nhng học giả gần gũi
với trường phái này đặc biệt quan tâm đến vấn đề kết cấu truyện kể và t chức ngôn từ,
tc là nhng vấn đ nội ti trong cu trúc tự sự văn học nghệ thut và folklore.
Phản bác lại quan niệm truyền thống về “sự kết hợp hài hòa gia nội dung vành thc
ngh thuật” n những thành tch biệt, các nhà hình thc chủ nga Nga nhấn mạnh
s thống nhất (thậm c là đồng nhất) nội dung và hình thức trong mt chỉnh thể kng
thch biệt. Trong tiểu luận thuyết của “Phương pháp hình thức(1925), sau khi
phân ch nhng ý ởng của V. Shklovsky trong bài viết S phục sinh của ngôn từ
(1914), B. Eikhenbaum khẳng định:Khái niệmhình thứchiển hiện trong nga mới
– nó kng phi là cái vỏ ngoài mà là toàn vẹn, như một thực thể động, tự nó đã mang
nh nội dung”. Trong cuộcTọa đàm v pơng pháp hình thc tại Hội triết học tự do
Petrograd (10/12/1922), phản bác lại cách tiếp cận tượng trưng chủ nghĩa trong
nghiên cứu văn học, Eikhenbaum tuyên bố:Trong nghệ thuật kng s hài a đơn
giản giữa c thành t đồng thuận, c phẩm nghệ thuật - đó là một sự đồng bộ phức
tp. bao giờ ng là kết quả của cuộc tranh đấu giữa c thành t, bao giờng như
kiểu một sự dung hòa... Bất k mộtnội dung” nào (tư ởng, tâm, v.v...) khi chuyn
a thành hình thc, cũng bị nó nuốt chng, i vốn bị hủy diệt và trthành cht
liệu. Schuyển a thành hình thc chung qui là chtrên i gọi là ni dung hình
thành một ý đồ nghệ thuật trừu tượng chính là sức mạnh khởi nguyên kiến tạo toàn b
c phẩm mi thành t khác chịu schi phối của nó. Strừu ợng nghệ thuật ấy
kng phải là một từ, một đề tài, hay truyện k– nó ngự trị trên tt cả nhữngi đó và
kng trùng kt với cái o đơn lẻ. Cnh quan niệm v ý đ nghệ thuật trừu
ợng... kiến tạo toàn bộ tác phẩm sau này s được V. Vinogradov phát trin lên thành
hc thuyết về “hình tượngc gi như “sức mạnh kết dính, kết nối tất cả mọi phương
tiện phongch thành một chỉnh thể hệ thống nghệ thuật ngôn từ... là cái cốt n trong
tp hợp xung quanh tất cả hthống phong cách củac phẩm(2). Đây cũng cnh là cái
mà c nhà tsự học hiện đại sau này s gi là “tác gitrừu tượng” (abstracte auteur).
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa lãng mạn Đức vsức mạnh cải biến” thế giới
ca nghệ thuật (F. Schleghel, Novalis), chia sẻ tinh thần tiền phong của chnghĩa vị lai,
chủ nghĩa hình thức Nga đề cao nh văn học” như “ý nghĩa tự thân” (L. Iakubinsky)
được nảy sinh trong q trình to ra” c phẩm văn chương như tổ chức hình thức
nghĩa mới bằng sự “gián ch” với thực tại, xoá bỏ nếp tư duy o mòn t nhiên bng
thpháp lạ hoá” (V. Shklovsky). Chính vì vậy mà các nhà nh thức chnga đặc
biệt quan tâm đối chiếu phongch ngôn từ, cách tổ chức truyện ktrong tác phẩm văn
chương với ngôn từ tự nhiên, câu chuyn xảy ra trong thực tế.
T hệ quan điểmy, V. Shklovsky và B. Tomashevsky điu vào nghiên cứu kết cấu
truyện k trongc phẩm tự sự.
m 1921, trong i viết vtiểu thuyết giễu nhạicủa L. Sterne, lần đầu tiên V.
Shklovsky phân bit fabula (câu chuyện) với sujet (truyện k): Người ta thường
đánh đồng ki niệm sujet với tả biến c, tức là cái mà theoi có thể gọi một ch
ước lệ là fabula. Tn thc tế, fabula ch là chất liu để hình tnh n sujet(3).
Shklovsky coi fabula là cái cn phải được vượt qua, kiến tạo lại thành sujet bằng nhng
thpplạ hóa”.
Trong phần III của cuốn sách lun văn học. Thi pháp (1925), phần H đề tài,
Tomashevsky xác định hthống thuật ng cho tác phẩm tự sự: Đề tài (cái đưc nói
đến) là sự thống nhất ý nga của c thành tố riêng bit trongc phm... Khái niệm đề
i là ki nim tổng hợp liên kết toàn b chất liu ngôn từ của tác phẩm. Đề tài th
của toàn thể tác phẩm, đồng thời mỗi phần ca c phẩm đều có đtài của mình... Đ
i ca phần kng thể pn tách nhỏ hơn được na trongc phẩm được gọi là tip...
Fabula tập hợp c motif trong mối liên h lôgich thời gian - nhân quca chúng,
n sujet tp hợp của chính những motif đó trong trình t và mối liên h n chúng
được trình bày trong tác phm(4).
Nếu n Shklovsky coi fabula thuc về phạm trù “cht liệu” cuộc sống tiền văn học
chưa được định hình, t Tomashevsky quan nim như một ước lệ tru ợng định
nh bởi ý thức người tiếp nhận trong sự đối chiếu với i được trình y trong c
phẩm”, tức là sujet. Mc dù nhng điểm kc biệt, Shklovsky và Tomashevsky v
bản đều đối lập fabula” với “sujet” để nhấn mạnh tầm quan trọng của “sujet” như
s thể hiệnng lựckiến tạo lại” cuộc đời của nghệ thuật.
Coi ngh thuật như thpháp, đối chiếu truyện kể” với u chuyệnnhư đối
chiếu “nghệ thuật” với “cuộc đời”, Shklovsky và Tomashevski ch ra sự kc biệt giữa
thời gian kể” với “thời gian fabula(thi gian xảy ra biến cố được kể), đồng thời xác
định những thpháp kết cấu truyn kn kết cấu bậc thang”, vòng tròn”, song