intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn học: Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:165

18
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Văn học "Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại" trình bày các nội dung chính sau: Cơ sở lý luận và sự xuất hiện của cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại; Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ sự phản ánh về con người và thế giới hiện thực; Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ nghệ thuật biểu hiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ SI NA CẢM QUAN TÔN GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI Ngành: Lí luận văn học Mã số: 92 22 01 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp Hà Nội, 2023
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các kết quả trình bày trong luận án là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của cán bộ hướng dẫn. Các nội dung được nêu trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách quan và chưa từng được công bố trong các công trình nào trước đó. Hà Nội, ngày tháng năm 2023 LÊ SI NA
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................................. 6 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ..................................................................... 6 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tôn giáo......................................................... 6 1.1.2. Những nhà văn tiêu biểu viết về tôn giáo ....................................................... 13 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................................... 18 Tiểu kết...................................................................................................................... 25 Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA CẢM QUAN TÔN GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ..............................26 2.1. Những quan niệm về tôn giáo và cảm quan tôn giáo ......................................... 26 2.1.1. Quan niệm về tôn giáo .................................................................................... 26 2.1.2. Quan niệm hợp nhất tôn giáo với tín ngưỡng ................................................. 27 2.1.3. Về khái niệm “cảm quan” và “cảm quan tôn giáo” ........................................ 30 2.2. Cơ sở lịch sử - xã hội, văn hóa - văn học của cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại .......................................................................................31 2.2.1. Một số vấn đề về tôn giáo ở Việt Nam ........................................................... 31 2.2.2. Mối quan hệ giữa tôn giáo với văn học nghệ thuật .........................................39 2.2.3. Ảnh hưởng của tôn giáo trong văn học Việt Nam .......................................... 50 2.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại ...................................................................................................................62 Tiểu kết...................................................................................................................... 67 Chương 3. CẢM QUAN TÔN GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI NHÌN TỪ SỰ PHẢN ÁNH VỀ CON NGƯỜI VÀ THẾ GIỚI HIỆN THỰC ............................................................................................................68 3.1. Cảm quan về con người ..................................................................................... 68 3.1.1. Con người được huyền thoại hóa .................................................................... 68 3.1.2. Con người mang niềm tin tôn giáo ................................................................. 73 3.1.3. Con người trong mối quan hệ thiện ác ............................................................ 80 3.1.4. Con người mất chúa - đổ vỡ niềm tin ............................................................. 92
  4. 3.1.5. Con người khát vọng .....................................................................................100 3.1.6. Con người mang tinh thần giải thiêng tôn giáo ............................................103 3.2. Cảm quan về thế giới hiện thực .......................................................................107 3.2.1. Thế giới nhiều bất trắc, vô thường ................................................................ 107 3.2.2. Thế giới thiêng liêng .....................................................................................111 3.2.3. Thế giới mang giáo lý và lễ nghi ..................................................................113 Tiểu kết....................................................................................................................115 Chương 4. CẢM QUAN TÔN GIÁO NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN .................................................................................................................................117 4.1. Biểu tượng ........................................................................................................117 4.1.1. Biểu tượng Mẫu- như một biểu tượng Tôn giáo bản địa .............................. 117 4.1.2. Biểu tượng của Phật giáo ..............................................................................122 4.1.3 Biểu tượng của Thiên Chúa giáo ...................................................................135 4.2. Ngôn ngữ ..........................................................................................................137 4.2.1. Ngôn ngữ Phật giáo .......................................................................................137 4.2.2. Ngôn ngữ Thiên Chúa giáo ...........................................................................139 4.3. Không gian tôn giáo ......................................................................................... 142 4.3.1. Không gian Phật giáo ....................................................................................142 4.3.2. Không gian Thiên Chúa giáo ........................................................................145 Tiểu kết....................................................................................................................150 KẾT LUẬN ............................................................................................................151 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... .........153 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .................................................................................................... 162
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Nhà nghiên cứu phân tâm học Erich Fromm từng cho rằng: “Vấn đề tôn giáo không phải là vấn đề Thượng đế mà là vấn đề con người”. Có thể nói, mỗi một tư tưởng tôn giáo từ khi ra đời, dù quan niệm hay đức tin có thể khác nhau nhưng đều quan tâm đến những vấn đề về khổ đau kiếp người, hướng tới sự vỗ về xoa dịu và mong mỏi cuộc sống tốt lành bình an cho muôn loài. Chính vì thế mà tôn giáo và văn học đã có sự gặp gỡ, có mối tương thông, liên quan mật thiết với nhau. Tư tưởng tôn giáo trở thành tư tưởng của văn học. Từ thời cổ đại, văn học đã gắn liền với tôn giáo. Các tác phẩm như trường ca Ấn Độ Ramayana và Mahabharata hay trường ca Iliad, Odisee của Hy Lạp thấm đẫm tinh thần và hình ảnh tôn giáo. Trong thời trung đại, dưới chế độ thần quyền, tôn giáo trở thành một trong những chủ đề và cơ sở chính của văn học. Đến thời Phục Hưng, phản ứng lại các giáo điều tôn giáo, phong trào nhân văn bắt đầu lấy tôn giáo làm đối tượng giải thiêng của văn học nghệ thuật, điển hình là François Rabelais với bộ tiểu thuyết nổi tiếng: Gargantua và Pantagruel, Dante với Thần khúc… Và tới thời kì Khai sáng cho đến nay, truyền thống tôn giáo vẫn là một trong những cơ sở của tư tưởng văn học mà chúng ta có thể bắt gặp trong các tác phẩm của những nhà văn lớn như Voltaire, Tolstoi, Dostoievski, Eco, Salman Rushdie, James Wood... Ở Việt Nam, tư tưởng tôn giáo manh nha xuất hiện trong văn học dân gian, đến thời kì văn học trung đại tôn giáo cũng đã có tác động khá rõ. Những tư tưởng của thời đại như Nho giáo, Phật giáo được dàn trải trong rất nhiều những tác phẩm, thể hiện rõ tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn, tư tưởng ngợi ca cái đẹp, cái thiện, phê phán cái xấu, cái ác; đề cao giá trị của con người, đề cao hiếu đạo, cùng với đó là ước vọng hướng đến tình yêu tự do và hạnh phúc lứa đôi. Đến thời hiện đại, nhiều tôn giáo mới xuất hiện ở Việt Nam, đặc biệt là Kitô giáo, tạo thêm nguồn cảm hứng cho sáng tác văn học. Kết hợp tôn giáo với tín ngưỡng truyền thống, văn học đầu thế kỷ XX đã đem 1
  6. đến một bức tranh tôn giáo đa sắc cho nền văn học Việt Nam, trong đó đặc biệt có sự đóng góp của một số trào lưu văn học như Thơ Mới, tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn. Tiếp nối truyền thống ấy, tiểu thuyết Việt Nam đương đại cũng đã ảnh hưởng sâu sắc và đưa tôn giáo trở thành một thành tố quan trọng của nghệ thuật tiểu thuyết, vừa mang tính quy phạm vừa mang tính thế tục sâu sắc. 1.2. Trong xu hướng cách tân mạnh mẽ của văn học Việt Nam thời kì Đổi mới, tiểu thuyết được xem là một thể loại năng động, đóng vai trò chủ đạo trong việc chiếm lĩnh, cắt nghĩa hiện thực phức tạp, khám phá thế giới tinh thần bí ẩn và đời sống nội tâm phong phú của con người. Sau năm 1986, trong không gian sáng tạo mới, có rất nhiều vấn đề gần gũi từng bị gạt bỏ, chôn vùi được quan tâm trở lại. Sự dân chủ hóa trong đời sống và trong văn học nghệ thuật khiến cho các đề tài, chủ đề, cảm hứng được hiện diện một cách đầy đủ, sâu sắc. Chính nhờ điều này mà tôn giáo đã có cơ hội trở thành một thành tố nghệ thuật, một chất liệu quan trọng trong tư duy của nhà văn, chi phối cái nhìn về con người và thế giới cũng như nghệ thuật trong tác phẩm. Sự xuất hiện đầy dụng ý của những yếu tố tôn giáo trong các sáng tác của Bảo Ninh, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Vũ Huy Anh, … ngày càng thu hút được sự quan tâm, đón đợi của người đọc. Một mặt, nó không chỉ phản ánh những vấn đề văn hóa, xã hội, khung tri thức, thẩm mĩ thời đại mà còn là một trong những biểu hiện của sự thay đổi quan niệm thẩm mĩ về thế giới và con người, làm nên dấu ấn đặc biệt của tiểu thuyết đương đại. Từ đó, các nhà tiểu thuyết đã mở rộng khả năng và phạm vi chiếm lĩnh hiện thực, đem đến cái nhìn nhiều chiều về con người trong xu hướng đối thoại với các giá trị cũ, mang lại tính dân chủ cho văn học. 1.3. Trong thời gian qua, giới nghiên cứu văn học của Việt Nam đã có sự quan tâm nhất định đến mối quan hệ giữa tôn giáo với văn học. Từ trước năm 1975 đã xuất hiện các khuynh hướng phê bình văn học ở miền Nam chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn giáo. Sau 1986, giới nghiên cứu vẫn tiếp tục quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu 2
  7. chuyên sâu về cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Chính vì thế chúng tôi chọn đề tài “Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, với mong muốn đóng góp một cách hiểu về cảm quan tôn giáo trong văn học nói chung và trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là tìm hiểu quá trình hình thành nên cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, làm sáng tỏ những nét độc đáo của cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên các bình diện: nội dung và phương thức thể hiện; xác định những tiếp nối, bổ sung của yếu tố này từ văn học truyền thống đến hiện đại; từ đó, góp phần nhận diện, đánh giá đầy đủ hơn thành tựu và đóng góp của tiểu thuyết Việt Nam đương đại mang cảm quan tôn giáo đối với sự vận động và phát triển của Văn học Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ khái niệm cảm quan và cảm quan tôn giáo như những công cụ nền tảng làm cơ sở phương pháp luận cho luận án. - Thấy được quá trình hình thành nên cảm quan tôn giáo trong văn học nói chung cũng như trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng. - Tìm hiểu cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên các bình diện: sự phản ánh hiện thực, con người, nghệ thuật biểu hiện. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Trong văn học Việt Nam, khái niệm đương đại được sử dụng để chỉ giai đoạn văn học từ sau năm 1975 hoặc từ sau thời kì Đổi mới 1986 cho đến nay. Phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm một số tiểu thuyết có dấu ấn tôn 3
  8. giáo rõ nét từ sau năm 1986, có đối chiếu so sánh với tiểu thuyết trước Đổi mới. Chúng tôi sẽ tập trung khảo sát những tiểu thuyết đặc sắc, mang đậm cảm quan tôn giáo của các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Bảo Ninh, Hoàng Minh Tường, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Vũ Huy Anh … Luận án nghiên cứu bao quát hai nguồn tư tưởng tôn giáo nổi bật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại là Phật giáo và Ki tô giáo. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao gồm: 4.1. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: là phương pháp nghiên cứu chính của luận án. Chúng tôi vận dụng phương pháp này để khám phá, lí giải những đặc sắc của cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết trên các bình diện thi pháp: nội dung và phương thức thể hiện. 4.2. Phương pháp liên ngành: chúng tôi vận dụng tri thức của một số ngành khoa học khác như triết học, văn hóa học, tôn giáo học như một tham chiếu để soi tỏ các vấn đề tôn giáo trong tiểu thuyết. Phương pháp này giúp chúng tôi nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách rộng mở, sâu sắc hơn. 4.3. Phương pháp cấu trúc hệ thống: phương pháp này giúp chúng tôi sắp xếp các tác giả, tác phẩm theo trật tự thời gian, theo loại hình tôn giáo, hệ thống hóa các vấn đề về nội dung và phương thức thể hiện cảm quan tôn giáo theo một cấu trúc mang tính chỉnh thể một cách khoa học, toàn diện. 4.4. Phương pháp so sánh: chúng tôi so sánh, đối chiếu cảm quan tôn giáo trong văn học và trong tiểu thuyết Việt Nam qua các giai đoạn; đối chiếu sự chi phối của cảm quan tôn giáo đối với tiểu thuyết và một số thể loại khác. Ngoài ra, luận án còn sử dụng, kết hợp các thao tác nghiên cứu như: thống kê, phân loại, phân tích, tổng hợp… 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Luận án hệ thống hóa được các tác giả, tác phẩm tiểu thuyết Việt Nam đương đại tiêu biểu mang cảm quan tôn giáo. Trên cơ sở khảo sát, phân tích, luận giải các hiện tượng này, luận án làm sáng tỏ các đặc trưng cơ bản 4
  9. của cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, khẳng định sự xuất hiện của cảm quan tôn giáo như là nhân tố làm thay đổi tư duy tiểu thuyết qua những phương diện cơ bản: quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người, phương thức biểu hiện… 5.2. Từ những phân tích cụ thể về phương diện biểu hiện và phương thức biểu đạt cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, luận án cho thấy bước chuyển mạnh mẽ của thể loại tiểu thuyết trong quá trình vận động và phát triển. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về lý luận: Trên cơ sở những định nghĩa về cảm quan và những cách hiểu khá tương đồng nhau về cảm quan tôn giáo của các nhà nghiên cứu, luận án đề xuất khái niệm về cảm quan tôn giáo từ đó tìm hiểu nội hàm khái niệm cảm quan tôn giáo trong văn học nói chung và trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng. - Về thực tiễn: Dựa trên sự tổng hợp về các nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại qua lăng kính tôn giáo, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu về văn học Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lý luận và sự xuất hiện của cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại Chương 3: Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ sự phản ánh về con người và thế giới hiện thực Chương 4: Cảm quan tôn giáo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ nghệ thuật biểu hiện 5
  10. Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về tôn giáo Như chúng ta biết, nghiên cứu tôn giáo đã có từ thời cổ đại với các công trình thần học của Platon và Aristote, nhưng nghiên cứu tôn giáo trong mối quan hệ với đời sống xã hội và nghệ thuật thì nó mới xuất hiện trong phạm vi của ngành văn hóa học ra đời từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa tôn giáo với văn học có một vị trí quan trọng. Trong lĩnh vực văn hóa học văn học này, có thể nói việc phê bình đối với văn học từ góc nhìn tôn giáo chính là phê bình đối với tác phẩm văn học có yếu tố tôn giáo và theo tiêu chuẩn đánh giá về đạo đức và tôn giáo. Nói cách khác, văn học có yếu tố tôn giáo chính là đối tượng của phê bình văn học từ góc nhìn tôn giáo, hay có thể gọi ngắn gọn kiểu phê bình này là “phê bình tôn giáo văn học”. Từ cuối thế kỷ XIX, nhiều nhà thần học và văn hóa học ở phương Tây đã công bố các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa tôn giáo và văn học. Có thể kể ra các công trình của các nhà khoa học như: W. S. Tyler (Hoa Kỳ), Theology of the Greek Poets (Thần học của các nhà thơ Hy Lạp), Andover, Warren F. Draper, 1869; S. A. Brooke (Anh), Theology in the English Poets: Cowper, Coleridge. Wordsworth, and Burns (Thần học trong các nhà thơ Anh: Cowper, Coleridge. Wordsworth, and Burns), London, 1874; S. A. Brooke, Religion in Literature and Religion in Life (Tôn giáo trong văn học và tôn giáo trong đời sống), London, 1901; G. McCrie (Anh), Religion of Our Literature (Tôn giáo trong văn học của chúng ta), London, 1875; J. C. Shairp (Anh), Culture and Religion (Văn hoá và tôn giáo), Edinburgh, 1878; S. L. Wilson (Hoa Kỳ), Theology of Modern Literature (Thần học của văn học hiện đại), New York, 1899; W. S. Lilly (Anh), Studies 6
  11. in Religion and Literature (Nghiên cứu tôn giáo và văn học), 1904; C. G. Shaw (Anh), Precinct of Religion in the Culture of Humanity (Phạm vi tôn giáo trong văn hoá của nhân loại), London, New York, 1908; S. Guthrie (Hoa Kỳ), Spiritual Message of Literature (Thông điệp tâm linh của văn học), Chicago, 1909: E. M. Chapman (Anh), English Literature and Religion (Văn học Anh và tôn giáo), 1810-1900, London, 1910; T. S. Eliot, “Religion and literature” (Tôn giáo và văn học), trong Essays Ancient and Modern, London, 1936;... Trong công trình Thần học của các nhà thơ Hy Lạp, nhà thần học William Seymour Tyler (1810-1897) cho rằng: “Thần học tự nhiên có thể được xem xét từ hai góc độ, và như thế nó có thể được xem xét trong hai khía cạnh. Chúng ta có thể xem xét nó từ góc nhìn của sự quan sát và lý trí của riêng chúng ta dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và của đạo Cơ Đốc; song chúng ta cũng có thể suy xét nó như khi nó phát triển trong văn học và trong lịch sử của các dân tộc ngoại đạo, và như khi nó xuất hiện trước con mắt của những người không có được sự khải huyền Cơ Đốc giáo. Khảo cứu theo cách thứ nhất sẽ là, hoặc có thể là, một khoa học [thần học]. (...) Quan sát theo cách thứ hai sẽ là, hoặc có thể là, một khoa học lịch sử. (...) Tập sách này có ý định đóng góp cho thần học tự nhiên theo cả hai hình thức trên” [152, tr.11]. Về mục đích của việc phê bình thần học văn học của mình, Tyler khẳng định: “Chúng ta phải nhận ra nhiều điều ở các nhà thơ cổ đại này hơn mức mà chính bản thân họ ý thức được về chúng, bởi vì chúng ta có thể nhìn thấy cuộc đời và thời đại của họ bằng ánh sáng của lịch sử tiếp theo; giống như với sự trợ giúp của kính thiên văn hiện đại, chúng ta có thể nhìn thấy các thiên thể trong những khía cạnh và các mối quan hệ mới, và thậm chí còn phát hiện ra sự gần gũi trong suy đoán của họ trước đây về các thiên thể đó với hệ thống thiên văn của Copernicus” [152, tr.5]. Đối với giả định cho rằng ông bênh vực quá nhiều cho đạo Cơ Đốc, ông cho biết: “Đạo Cơ Đốc ít nhất là một sự kiện có thật; và nó không thể bị bỏ qua hoặc để sang một bên. (...) Trong cuốn sách này không hề có chỗ nào biện 7
  12. hộ cho đạo Cơ Đốc, hoặc thậm chí là bảo vệ nó, mà chỉ là minh hoạ cho vị trí đúng đắn của nó trong văn học và lịch sử” [152, tr.6]. Có thể nói đây là xu hướng phê bình ghi nhận vai trò của tôn giáo trong văn học. Mục sư người Anh Stopford Augustus Brooke (1832-1916) cũng dành nhiều công trình cho đề tài tôn giáo với văn học, trong đó có hai công trình quan trọng là Theology in the English Poets (Thần học trong các nhà thơ Anh, 1874) và Religion in Literature and Religion in Life (Tôn giáo trong văn học và tôn giáo trong đời sống, 1901). Trong công trình Tôn giáo trong văn học và tôn giáo trong đời sống, Brooke lại có một quan điểm rất thế tục về tôn giáo trong văn học. Ông cho rằng tôn giáo là những tư tưởng về lòng yêu thương và nhân đạo chứ không phải là các giáo lý thần học. Ông nói: tôn giáo “không thể là cuộc sống tinh thần nội tâm mà con người sống với Chúa ở trong sâu thẳm tâm hồn. Điều này thể hiện khác nhau trong mỗi nhà văn, nếu như nhà văn hoàn toàn có nó; và qua thuật ngữ tôn giáo, ở đây chúng ta đang nói đến một sự việc gì đó thuộc về các tầng lớp người; một sự việc thuộc giống loài chứ không phải sự việc cá nhân; một tập hợp các ý tưởng chung của nhiều người và được thể hiện và trình bày bởi nhà thơ. Tôi cũng không coi nó là một mớ học thuyết và lễ nghi của bất cứ một Nhà thờ nào hay bất cứ một giáo phái hay một dân tộc nào nói chung, giống như chúng ta quan niệm khi nói đến tôn giáo Tin lành hay đạo Thiên Chúa La Mã” [139, tr.4-5]. Tôn giáo trong văn học, theo Brooke, chính là cuộc sống lý tưởng, là sự thật, sự cao thượng, lòng tin, lòng yêu thương, sự khoan dung, sự tha thứ, là những tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” của cuộc Cách mạng Pháp, là cuộc sống giản dị gần gũi với thiên nhiên. Brooke đã dẫn các nhà thơ Anh thế kỷ XVIII-XIX để cho thấy rằng những tư tưởng tôn giáo này đã được thể hiện lúc đậm lúc nhạt trong các nhà thơ khác nhau và ở những thời điểm khác nhau. Và thơ ca phải biến những ý tưởng tôn giáo đó thành cái đẹp để khuyến khích con người đến với cuộc sống lý tưởng với tư cách là mục đích cao cả và hạnh phúc vĩnh hằng của nhân loại [139, tr.59]. Đó chính là quan niệm của Brooke về tôn giáo trong văn học. Nhưng theo chúng tôi, đây là quan niệm mang tính nhân văn chủ nghĩa hơn là tôn giáo. 8
  13. Trong khi đó, các nhà phê bình tôn giáo văn học hiện đại ở đầu thế kỷ XX, điển hình là nhà thơ và là nhà phê bình người Anh Thomas Stearns Eliot (1888-1965), lại là những người có ý thức về việc phải nghiên cứu văn học từ góc nhìn đạo đức tôn giáo. Trong bài tiểu luận “Tôn giáo và văn học” in trong tập sách Tiểu luận về cổ đại và hiện đại xuất bản năm 1936, Eliot đã viết: “Phê bình văn học cần phải được hoàn thiện bằng một kiểu phê bình từ góc nhìn đạo đức và thần học nhất định. Trong chừng mực mà ở bất cứ thời đại nào có sự thoả thuận chung về các vấn đề đạo đức và thần học, thì chừng đó phê bình văn học mới có thể tồn tại thực sự. (...) Sự cao quý của văn học không thể được xác định chỉ bởi các tiêu chuẩn văn học. Cho dù chúng ta cần phải nhớ rằng việc một cái gì có phải là văn học hay không thì có thể được xác định chỉ bằng các tiêu chuẩn văn học” [140, tr.97]. Ông nói tiếp: “Trong thời gian mấy thế kỷ qua, chúng ta đã ngầm hiểu rằng giữa văn học và thần học không hề có một mối quan hệ nào. Điều này không làm chúng ta phủ nhận một điều là văn học - tôi muốn nói trước hết đến những tác phẩm tưởng tượng - đã, đang và có lẽ sẽ luôn được đánh giá bằng một số tiêu chuẩn đạo đức. Nhưng những đánh giá về đạo đức đối với tác phẩm văn học chỉ được thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức của mỗi thế hệ, bất kể họ có sống theo các chuẩn mực này hay không. Trong một thời đại chấp nhận một quan điểm thần học rõ ràng, thì các chuẩn mực chung có thể mang tính chính thống rõ rệt” [140, tr.97]. Eliot cũng xác định rõ là cần phải phân biệt văn học tôn giáo với văn học có yếu tố tôn giáo. Ông nói: “Ở đây, tôi không quan tâm đến văn học tôn giáo (tiếng Anh: “religious literature”) mà là tôi quan tâm đến việc áp dụng tôn giáo của chúng ta để phê bình bất cứ một tác phẩm văn học nào”. Cũng như ông chỉ quan tâm đến mối quan hệ giữa tôn giáo với văn học thôi. Tức là ông cho rằng phê bình tôn giáo đối với văn học không quan tâm đến loại văn học mang ý thức tôn giáo như Kinh thánh chẳng hạn, mà nó quan tâm đến loại văn học thể hiện thái độ đạo đức tôn giáo trong vô thức của nhà văn. Ông tuyên bố: “Điều tôi muốn là một tác phẩm văn học phải mang tính Cơ Đốc 9
  14. giáo một cách vô thức chứ không phải là theo cách có chủ ý và mang tính thách thức” [140, tr.100]. Từ đó Eliot phê phán văn học hiện đại Anh là loại văn học thế tục chủ nghĩa, xa rời các chuẩn mực đạo đức Cơ Đốc. Ông phê phán văn học hiện đại là chỉ quan tâm đến giá trị vật chất trần tục mà không quan tâm đến giá trị tinh thần. Và phê bình tôn giáo phải áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức và thần học để đánh giá văn học. Người ta cho rằng phê bình tôn giáo văn học chính là một phản ứng chống lại phong trào phê bình thuần tuý duy mỹ lúc bấy giờ. Các nhà khoa học muốn đưa phê bình văn học trở về với đời sống xã hội của con người. Như thế, phê bình tôn giáo văn học là kiểu phê bình có khuynh hướng tư tưởng rõ ràng chứ không phải là một kiểu phê bình thuần tuý, không phải là chỉ đơn thuần đi tìm yếu tố tôn giáo trong văn học một cách tự thân, không mục đích. Như vậy có thể nói đây là xu hướng phê phán văn học thế tục chủ nghĩa và khẳng định sự cần thiết phải có sự tham gia của tôn giáo trong tác phẩm văn học để phát huy giá trị đạo đức của văn học. Đó cũng là một quan điểm phê bình rất đáng ghi nhận cho các nhà phê bình tôn giáo văn học sau này. Cũng trong quan điểm nghiên cứu tôn giáo và văn học trong mối quan hệ gắn với đời sống, năm 2004 tác giả Charles F. Thwing đã có bài viết “Religion and Literature” (“Tôn giáo và văn học”). Theo ông, “Tôn giáo và văn học đều xuất thân từ cùng những nguồn sống cơ bản. Tôn giáo là mối quan hệ mà con người thiết lập với Đấng Tối cao Thượng đế. Nó quan tâm đến cái bản chất nằm ở đằng sau hiện tượng, và nó cũng quan tâm đến bổn phận của con người đối với Đấng Tối cao phổ độ và vĩnh hằng này. Nó cũng quan tâm đến những câu hỏi: cái gì, từ đâu, đến đâu? Còn văn học, suy cho cùng nó cũng có cùng một mối quan hệ: nó tìm cách giải thích, biện minh, hoà giải, lý giải, và thậm chí an ủi”. Ngoài ra, theo Thwing, cả tôn giáo và văn học đều gắn bó với cuộc sống; đều có những phương pháp lý giải cuộc sống giống nhau; và văn học là cái phải mang nợ tôn giáo [150]. 10
  15. Trong bài viết “Literature: Literature and Religion” (“Văn học: Văn học và tôn giáo”) cho Encyclopedia of Religion (Bách khoa thư tôn giáo), hai tác giả là Anthony C. Yu (viết năm 1987) và Larry D. Bouchard (viết năm 2005) đã nhận định rằng việc nghiên cứu tôn giáo trong mối liên quan với văn học có một lý do rõ ràng nhất và thích đáng nhất là lý do lịch sử. Rằng trong tất cả các hệ thống văn hoá cao, truyền thống văn học đã phát triển trong mối quan hệ thân thiết với tư tưởng, thực hành, thể chế và biểu trưng tôn giáo. Nếu không chú ý thích đáng đến huyền thoại và tư tưởng Hy Lạp, đến truyện dân gian và tư tưởng thông thái Do Thái cổ, đến các biểu trưng và tư tưởng mộ đạo Cơ Đốc giáo, thì “tấn kịch của văn học châu Âu” (như cách gọi của nhà học giả Đức Erich Auerbach) trong suốt hai mươi nhăm năm qua đơn giản là không thể hiểu được. Trái lại, kiến thức của chúng ta về ba truyền thống tôn giáo đó, về sự tự thể hiện và tác động văn hoá của chúng, có thể bị cắt xén một cách thô thiển mà không xem xét một cách đặc thù đến di sản văn học của chúng trong cả các tác phẩm điển quy lẫn ngoài điển quy. Điều này cũng đúng với cả các tôn giáo khác trên thế giới” [146]. Công trình Phân tâm học và Tôn giáo của Erich Fromm là công trình đi vào phân tích những vấn đề nền tảng của đức tin và nghi thức tôn giáo trong tiến trình lịch sử và những khám phá của phân tâm học liên quan đến tôn giáo. Theo Erich Fromm, vấn đề đức tin và tôn giáo không phải là vấn đề Thượng đế mà là vấn đề con người: “Thượng đế không phải là biểu tượng quyền năng ở bên trên con người mà là biểu tượng quyền năng của chính con người” [44, tr.75]. Thông qua các biểu tượng tôn giáo và phi tôn giáo, phân tâm học nghiên cứu bản chất con người. Erich Fromm chứng minh rằng, chỉ khi chúng ta có thể phân biệt được tôn giáo độc đoán và tôn giáo nhân bản thì chúng ta mới có thể “chữa trị tâm hồn” con người và chữa trị các căn bệnh của thời đại. Trong cuốn Thiêng và phàm bản chất của tôn giáo viết năm 1956, Mircea Eliade (1942 - 1986) đã dẫn dắt người đọc vào lĩnh vực của cái thiêng, đó là Không gian thiêng và sự thiêng hóa thế giới, Thời gian thiêng và các huyền thoại, Tính thiêng của tự nhiên và tôn giáo vũ trụ, Sự tồn tại 11
  16. của con người và sự sống được thần thánh hóa. Đời sống tôn giáo của loài người, toàn bộ kinh nghiệm sống của con người tôn giáo cũng như kinh nghiệm sống của con người không có ý thức tôn giáo được đặt trong cái nhìn đối chiếu giữa “thiêng” và “phàm”. Từ đó, tác giả kết luận: “Tóm lại, đa số người “không tôn giáo” vẫn còn mang theo những tôn giáo giả và huyền thoại đã mờ nhạt. Điều đó chẳng khiến chúng ta phải ngạc nhiên, vì con người phàm tục là hậu duệ của con người tôn giáo và không thể xóa bỏ lịch sử của nó, nghĩa là những hành vi của các tổ tiên có tôn giáo đã từng tạo ra nó như hiện nay” [46, tr.215]. Ta có thể kể thêm một số công trình gần đây nhất cho thấy chủ đề tôn giáo trong văn học là một chủ đề quan trọng của văn hoá học và văn học. Ví dụ như Mark Knight của Khoa Tiếng Anh thuộc Đại học Toronto, Canađa, đã xuất bản nhiều sách về quan hệ giữa tôn giáo với văn học như: Biblical Religion and the Novel, 1700-2000 (“Tôn giáo kinh thánh với tiểu thuyết, 1700-2000”), đồng chủ biên với Thomas Woodman, 2006), Nineteenth- Century Religion and Literature: An Introduction (“Tôn giáo và văn học thế kỷ XIX: Nhập môn”), viết chung với Emma Mason, Oxford University Press [OUP], 2006, An Introduction to Religion and Literature (“Nhập môn tôn giáo và văn học”), 2009, và Religion, Literature and the Imagination (“Tôn giáo, văn học và tưởng tượng”), đồng chủ biên với Louise Lee, 2009. Ngoài ra còn có nhiều công trình về tôn giáo và tín ngưỡng của các nhà khoa học khác như: Literature and Belief (“Văn học và tín ngưỡng”) do Meyer Howard Abrams chủ biên, Columbia University Press, New York, 1958; The Oxford Handbook of Religion and the Arts (“Sổ tay hướng dẫn Oxford về tôn giáo và nghệ thuật”) do Frank Burch Brown chủ biên, 2014; A Choice of Illusions: Belief, Relativism, and Modern Literature (“Một sự lựa chọn ảo tưởng: Tín ngưỡng, thuyết tương đối và văn học hiện đại”), luận án tiến sĩ của Alastair Morrison, Đại học Columbia, New York, Hoa Kỳ, 2015;... Và nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khác nhau về chủ đề này. Cuốn sách Nhập môn tôn giáo và văn học của Mark Knight nói về các vấn đề: - Phơi bày các thế giới thần thánh: Học thuyết sáng thế và các thế giới 12
  17. khả dĩ của văn học. - Bản thể (being) trong mối quan hệ: Sự khác biệt, tư cách người và ngôn ngữ của Chúa Ba ngôi. - Hoà giải cái thần thánh: Luật pháp, năng khiếu và công lý. - Các cộng đồng điễn giải: Kinh thánh, sự khoan dung và thần dân của Chúa. - Vết nhơ tội lỗi: Những dấu vết của sự phạm tội trong thế giới hiện đại. - Hy vọng và tương lai: Nỗi đau và sự cứu chuộc theo góc nhìn mạt thế. Về cuốn sách này, Emma Mason, giảng viên chính Đại học Warwick, Vương quốc Anh, đã nhận định: “Đây là một cuốn sách xuất sắc và súc tích, giới thiệu mối quan hệ đang ngày càng có tính đổi mới và luôn cấp thiết giữa tôn giáo và văn học. Sự hiểu thấu sáng suốt và sâu sắc của Knight về cuộc tranh luận thần học và kinh thánh, cũng như về các phương pháp luận lý thuyết và triết học gần đây đã cho thấy một sự hiểu biết vấn đề hiếm có mà sinh viên và các học giả sẽ dễ dàng đánh giá cao. Trong quá trình xem xét kỹ càng các ý tưởng như sự sáng thế, tội lỗi, thuyết mạt thế, Knight đã dẫn chúng ta đi qua một loạt văn bản văn học đáng ngạc nhiên (từ Shakespeare và Donne đến Dickens, Rushdie và McEwan) để minh hoạ cho việc theo đuổi một sự đọc sách tôn giáo. Làm như thế, ông đã cho thấy rằng việc đọc sách tôn giáo - một cách tiếp cận thường được hiểu sai là sự phụ thuộc vào nội dung thần thánh hoặc đạo đức - đúng hơn là được dựa trên năng lực phê phán để làm mới và tưởng tượng lại ngôn ngữ trong một khuôn khổ có khả năng mở ra những con đường tư duy mới về tính chủ quan, về cộng đồng, về niềm hy vọng, tầm nhìn và lòng yêu thương” [141]. Luận án TS của Alastair Morrison nghiên cứu về mối quan hệ giữa tín ngưỡng trong văn học hiện đại Anh và liên hệ với văn học Pháp. Ông cho rằng “Giống như sự hiểu biết cho ta niềm tin, trí Tưởng tượng lại cho ta thơ ca, là cái mà bằng hành động của mình, nó tham gia vào tiến trình tiếp cận cái linh thiêng, và tham gia vào sự kiểm soát chống lại sự chuyên chế của lý trí cao ngạo” [144]. Và ông trích lời Matthew Arnold: “phần lớn những gì đối với chúng ta là tôn giáo và triết học sẽ được thay thế bằng thi ca” [144]. Trong phong trào văn hoá học đó, tôn giáo đã được nhiều tổ chức khoa học và các cơ sở đào tạo quan tâm. Ví dụ Trường Tiếng Anh và Kịch (School 13
  18. of English and Drama) và Trường Lịch sử (School of History) thuộc Đại học Queen Mary Luân Đôn (Queen Mary University of London) đã thành lập Trung tâm Queen Mary Tôn giáo và Văn học Tiếng Anh (Queen Mary Centre for Religion and Literature in English) năm 2016. Đại học Notre Dame của bang Indiana, Hoa Kỳ có một tờ tạp chí Religion & Literature. Khoa Tiếng Anh của Đại học Washington ở St Louis, bang Missouri, Hoa Kỳ, có một website mang tên Literature and Religion (“Văn học và tôn giáo”). Đại học Brigham Young có tờ tạp chí Literature and Belief (“Văn học và tín ngưỡng”) do Paul E. Kerry và Jesse S. Crisler chủ biên; Khoa Tiếng Anh thuộc Đại học Baylor, bang Texas, Hoa Kỳ, có Trung tâm Tôn giáo và Văn học (Religion and Literature Concentration)... Có thể nói, tôn giáo luôn có mặt trong văn học qua mọi thời đại, và nó luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm để khẳng định vai trò của nó trong văn học. 1.1.2. Những nhà văn tiêu biểu viết về tôn giáo Tôn giáo là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Tôn giáo gắn liền trong đời sống tinh thần của con người, thể hiện đức tin, niềm tin của con người đối với thần thánh. Bất kỳ tôn giáo nào cũng mong muốn con người hướng đến những điều tốt đẹp, đạo đức, làm việc thiện và giúp đỡ mọi người xung quanh. Tôn giáo không chỉ tồn tại trong đời sống con người, mà nó còn tồn tại trong cả văn học. Một số nhà văn tiêu biểu trên thế giới, có hai nguồn cảm hứng viết về tôn giáo như sau: Cảm hứng chống tôn giáo và sự quay trở lại của cảm hứng tôn giáo trong văn học như một mĩ cảm nghệ thuật. Trước hết với cảm hứng chống tôn giáo - đó cũng là một trong những đặc trưng nổi bật của văn học. Đến với văn học Pháp thời kỳ lãng mạn, tư tưởng chống phong kiến và giáo hội được manh nha bắt đầu từ Voltaire (1694 – 1778) nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà triết học, nhà tư tưởng, nhà sử học và còn là nhà hoạt động xã hội sôi nổi. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông đã góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của thế kỉ Ánh sáng Pháp. Vì vậy, thế kỉ này 14
  19. còn gọi là thế kỉ Voltaire. Trong truyện triết học của ông, chế độ phong kiến đương thời bị phê phán nghiêm khắc với triều đình tham nhũng đầy tệ nạn, tôn giáo với những tín điều mù quáng, bọn thầy tu dâm đãng và cuồng tín, những học thuyết lừa bịp và phản động như: “Thuyết hài hòa tiền định”. Chẳng hạn như trong Candide hay Chủ nghĩa lạc quan. J. J. Rousseau (1712 – 1778) – người gốc Pháp sinh tại Genève – Thụy Sĩ, vì gia đình ông theo đạo Tin Lành nên phải lánh sang đó để tránh tôn giáo đàn áp ở Pháp. Trong Emile - một luận văn giàu tính tiểu thuyết, ông chống lối giáo dục nhồi sọ, thiếu thực tế và bóp méo thiên tính của con người. Đó là quan điểm giáo dục “phủ định”, có tính chất cực đoan, những biểu hiện tư tưởng phản kháng của nhà văn đối với xã hội đương thời. Tác phẩm này bị kết án, Rousseau bị tòa án gây nhiều rắc rối và bị coi là kẻ thù của giáo hội. Hay đến với tiểu thuyết Nữ tu sĩ của Denis Diderot (1713 – 1784) - một trong những nhà văn, nhà tư tưởng lớn của phong trào Ánh sáng Pháp ở thế kỉ XVIII, đây là một tác phẩm thuộc truyền thống văn học Pháp và Châu Âu chống lại sự hà lạm của nhà thờ… Tóm lại, ta thấy những nhà tư tưởng của thế kỉ Ánh sáng đã truyền bá những tư tưởng dân chủ và duy vật. Họ công kích tôn giáo, châm biếm thần học và ủng hộ tự nhiên thần luận… Thứ hai, sự trở về của cảm hứng tôn giáo với mĩ cảm nghệ thuật trong văn học lãng mạn. Như đã nói, tất cả các nhà lãng mạn đều nhận thấy có một sự đoạn tuyệt gay gắt giữa ước mơ và cuộc đời, bắt nguồn từ sự trái ngược giữa khát vọng con người với thực tại sau cách mạng, cái thực tại mà ở đó “mọi vật đều như khô cứng lại trong cái vẻ thấp hèn, ti tiện”. Nhưng họ lại không lí giải được nguyên nhân các hiện tượng trên, họ không hiểu được quy luật khách quan chi phối sự phát triển của xã hội. Thế nên để đối lập với cái thực tại xấu xa đó, họ đề xuất những lối thoát tinh thần, những lí tưởng đẹp đẽ và cao quý, tìm đến với những cái cao cả và phi thường. Đó chính là lí do mà cảm hứng tôn giáo trở về với văn học lãng mạn. Nếu nói “chủ nghĩa lãng mạn là sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng muốn thoát ra khỏi thực tại đó” (Emile Faguet) thì chính nguyện vọng 15
  20. này của văn học lãng mạn đã khiến cho tôn giáo tồn tại một cách tự nhiên, tất yếu trong tác phẩm. Bởi lẽ, lúc bấy giờ tôn giáo như một giải pháp, một cứu cánh để con người đến gần với khát vọng của mình. Tức là tôn giáo tồn tại trong văn học lãng mạn nói chung không vì lí do tôn giáo mà vì lí do khác như lí do thẩm mĩ, lí do nghệ thuật. Sáng tác của các văn nghệ sĩ thời kì này đã thể hiện rất rõ điều này. Chẳng hạn, năm 1787, Chateaubriand (1768 – 1848) đã xuất bản ở Luân Đôn tác phẩm: Tiểu luận lịch sử chính trị và đạo đức về những cuộc cách mạng cũ và mới, nhận thức trong những mối quan hệ với cách mạng Pháp với thời đại chúng ta. Trong tác phẩm này, tác giả ca ngợi nhận thức tự nhiên của Ru Xô và vận dụng tư tưởng duy lí để chống lại niềm tin Thiên Chúa do ảnh hưởng của các thế lực bảo hoàng phản động và những nỗi bất hạnh của gia đình khi một người mẹ và một người chị của ông qua đời ông đã quay lại với tín ngưỡng tôn giáo. Bên cạnh đó, ông bảo vệ tàn tích của chế độ phong kiến và hồi phục cảm hứng tín ngưỡng của mình trong nhiều tác phẩm: Atala (1801), Rơnê (1802), Thần lực sáng tạo của đạo Giatô (1802), Những người tử vì đạo (1809),… Trong tác phẩm Thần lực sáng tạo của đạo Giatô, tác giả Chateaubriand ca tụng sức sáng tạo và vẻ đẹp giản dị của đạo Giatô đã cứu vãn nền văn minh nhân loại. Ông cho rằng, trong tất cả những tôn giáo đã tồn tại thì đạo Giatô là thơ mộng nhất, nhân đạo nhất, hòa hợp nhất với tự do, nghệ thuật và văn chương; tất cả thế giới đều cần đến nó, từ công việc nông trang cho đến những khoa học trừu tượng, từ những nhà cứu tế cho những kẻ khốn cùng đến những cung điện do Mikenlăngiơ xây dựng và Raphael trang hoàng... Ông đã đối lập “nền nghệ thuật Thiên Chúa” với nghệ thuật cổ đại, cho nghệ thuật Thiên Chúa tức là của thời trung đại phong kiến đã thể hiện sự xung đột giữa khát vọng tinh thần và bản năng con người, đã “thuần khiết hóa” con người. Trong Atala (1801), qua lời Cha Aubry nói với Atala và qua cuộc đời nhân vật Atala, Chateaubriand đã ca ngợi Cơ đốc giáo. Cha Aubry đã nói với Atala rằng: “Tôn giáo không đòi hỏi những hy sinh vượt ra khỏi khả năng chịu đựng của con người” (Thiên Chúa không bao giờ bắt ta vác thập tự ngoài 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0