
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 490 - THÁNG 5 - SỐ 1 - 2020
81
2. Ngô Duy Minh (2013), “ Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả sớm phẫu thuật
viêm phúc mạc do thủng đường tiêu hóa sơ sinh
tại bệnh viện Nhi Trung Ương”, Luận văn tốt nghiệp
bác sĩ nội trú trường Đại Học Y Thái Nguyên.
3. Trần Ngọc Sơn, Nguyễn Thanh Liêm(2006),
“Viêm phúc mạc do thủng đường tiêu hóa ở trẻ sơ
sinh ” tạp chí nhi khoa – Tổng hội Nhi khoa Việt
Nam số 2 tập 15,tr 32 – 36
4. Diệp Quế Trinh, Trương Nguyễn Uy
Linh(2011), “Viêm phúc mạc sơ sinh” tạp chí Y
học Thành phố Hồ Chí Minh tập 15 số 3, tr 45 -47.
5. Asabe K, Oka Y, Kai H (2009), "Neonatal
gastrointestinal perforation", Turk J Pediatr Surg
51 (3), pp. 264–276.
6. Ekwunife et al. (2013), “Gastrointestinal
perforation in neonates: Aetiology and risk
factors”, J neonatal surg, 2(3): 30.
7. Elhalaby EA (2000), “ Neonatal gastrointestinal
perforation”, Egyp J Surg 19(2), pp: 78 – 86.
TỶ LỆ THỰC HÀNH ĐÚNG CỦA ĐIỀU DƯỠNG VỀ CHĂM SÓC
VẾT THƯƠNG SAU PHẪU THUẬT TRONG DỰ PHÒNG NHIỄM KHUẨN
VẾT MỔ TẠI BVĐK BÌNH DƯƠNG TỪ THÁNG 7- THÁNG 10 NĂM 2018
Nguyễn Thị Bích Vân1, Võ Thị Kim Anh2
TÓM TẮT21
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ điều dưỡng có thực hành
đúng về chăm sóc vết thương sau phẫu thuật trong
phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ tại Bệnh viện đa
khoa tỉnh Bình Dương; Xác định các yếu tố liên quan
đến thực hành đúng về chăm sóc vết thương sau
phẫu thuật của điều dưỡng. Phương pháp nghiên
cứu: cắt ngang mô tả. Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng có
thực hành đúng 66% (53/80), có mối liên quan giữa
số người bệnh trung bình trong 1 ngày mà điều dưỡng
chăm sóc với thực hành về phòng ngừa nhiễm khuẩn
vết mổ (p = 0,009). Ngoài ra, các đặc điểm như trình
độ chuyên môn, khoa công tác và thâm niên công tác
không có mối liên quan với thực hành về chăm sóc vết
thương sau phẫu thuật trong phòng ngừa nhiễm
khuẩn vết mổ của điều dưỡng (p > 0,05). Kết luận:
Tỷ lệ thực hành đúng về chăm sóc vết thương sau
phẫu thuật trong phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ
của điều dưỡng các khoa thuộc khối ngoại tại Bệnh
viện đa khoa tỉnh Bình Dương là 66%.
Từ khóa:
Thực hành đúng, Điều dưỡng, nhiễm
khuẩn vết mổ.
SUMMARY
CORRECT PRACTICE RATE OF NURSING
ABOUT WASTE CARE AFTER SURGERY
PREVENTION OF CLINICAL DISEASES AT
BINH DUONG HOSPITAL FROM JULY -
OCTOBER 2018
Objectives: To determine the rate of nurses with
proper practice in wound care after surgery in
preventing surgical site infections at Binh Duong
General Hospital; Identify factors related to proper
nursing care after wound care practices. Research
1Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương,
2Đại học Thăng Long
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Bích Vân
Email: mayxanh2604@gmail.com
Ngày nhận bài: 17.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 13.4.2020
Ngày duyệt bài: 20.4.2020
methodology: cross sectional description. Results:
The rate of nurses who practiced correctly 66%
(53/80), a relationship between the average number
of patients in 1 day that nurses care and practice on
the prevention of surgical site infection (p = 0.009). In
addition, characteristics such as qualifications,
department of work and seniority are not associated
with postoperative wound care practices in the
prevention of surgical site infection (p> 0). , 05).
Conclusion: The rate of right practice on wound care
after surgery in preventing surgical infection of nurses
of foreign departments in Binh Duong General Hospital
is 66%.
Keywords:
Right practice, Nursing, surgical site
infection.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn vết mổ là hậu quả không mong
muốn thường gặp nhất và là nguyên nhân quan
trọng gây tử vong ở người bệnh được phẫu thuật
trên toàn thế giới(4). Tại Hoa Kỳ, nhiễm khuẩn
vết mổ đứng hàng thứ 2 sau nhiễm khuẩn tiết
niệu bệnh viện.
Tại Việt Nam, nhiễm khuẩn vết mổ xảy ra ở
5% – 10% trong số khoảng 2 triệu người bệnh
được phẫu thuật hàng năm. Nhiễm khuẩn vết
mổ là loại nhiễm khuẩn thường gặp nhất, với số
lượng lớn nhất trong các loại nhiễm khuẩn bệnh
viện. Nhiễm khuẩn vết mổ để lại hậu quả nặng
nề cho người bệnh như kéo dài thời gian nằm
viện, tăng tỷ lệ tử vong và tăng chi phí điều trị.
Tại Hoa Kỳ, số ngày nằm viện gia tăng trung
bình do nhiễm khuẩn vết mổ là 7,4 ngày, chi phí
phát sinh do nhiễm khuẩn vết mổ hàng năm
khoảng 130 triệu USD(4). Theo kết quả nghiên
cứu tại Bệnh viện Bạch Mai (2002), thời gian
nằm viện và chi phí điều trị phát sinh do nhiễm
khuẩn vết mổ là 8,2 ngày và 2,0 triệu đồng(5).
Việc thực hiện phòng ngừa nhiễm khuẩn vết
mổ là trách nhiệm của tất cả nhân viên y tế,

vietnam medical journal n01 - MAY - 2020
82
trong đó có vai trò hết sức quan trọng của điều
dưỡng. Điều dưỡng là người trực tiếp chăm sóc
người bệnh trước và sau mổ giúp cho quá trình
hồi phục, quá trình lành vết thương cũng như
theo dõi và phòng ngừa các biến chứng có thể
xảy ra sau mổ. Nhiễm khuẩn vết mổ khó có thể
hoàn toàn được loại bỏ, tuy nhiên việc giảm tỉ lệ
nhiễm khuẩn vết mổ xuống mức tối thiểu giúp
giảm tỉ lệ biến chứng và tử vong, giảm chi phí
cho người bệnh và bệnh viện. Nhằm góp phần
tìm những giải pháp nâng cao năng lực của điều
dưỡng để đạt kết quả chăm sóc NB tốt nhất và
hạn chế tối đa các cơ hội xảy ra nhiễm khuẩn vết
mổ, chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu
“Tỷ lệ thực hành đúng của điều dưỡng về chăm
sóc vết thương sau phẫu thuật trong phòng
ngừa nhiễm khuẩn vết mổ” tại Bệnh viện đa
khoa tỉnh Bình Dương từ tháng 7 đến tháng 10
năm 2018, với mục tiêu như sau:
Mục tiêu nghiên cứu:
Xác định tỷ lệ điều
dưỡng có thực hành đúng về chăm sóc vết thương
sau phẫu thuật trong phòng ngừa nhiễm khuẩn vết
mổ tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương.
Xác định các yếu tố liên quan đến thực hành
đúng về chăm sóc vết thương sau phẫu thuật
của điều dưỡng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu. Nghiên cứu cắt ngang
mô tả.
Đối tượng nghiên cứu- Tiêu chuẩn chọn
mẫu. Nhân viên điều dưỡng - hộ sinh đang làm
việc tại các khoa Ngoại tổng quát, Ngoại niệu,
Chấn thương chỉnh hình, Ngoại Thần kinh cột
sống và Khoa Sản - Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình
Dương. Trực tiếp thực hiện chăm sóc người bệnh
tại phòng bệnh trong thời gian nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ. Nhân viên điều dưỡng-
hộ sinh tại các khoa nêu trên đang trong thời
gian thử việc. Những điều dưỡng đang đi học,
tập huấn, nghỉ ốm trong thời gian tiến hành
nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu. Sử dụng công cụ
nghiên cứu Bảng khảo sát thực hành soạn sẵn
dựa trên nền tảng hướng dẫn phòng ngừa nhiễm
khuẩn vết mổ của Bộ Y tế Việt Nam năm 2012(6).
Quan sát ngẫu nhiên các cơ hội thực hành
của điều dưỡng dựa trên bảng khảo sát gồm có
3 yếu tố(3): Rửa tay khi thay băng vết mổ; Đảm
bảo vô khuẩn khi thay băng vết mổ; Công tác
giáo dục sức khỏe cho người bệnh hoặc thân
nhân của họ về chăm sóc vết mổ thích hợp.
Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu thực
hiện từ tháng 7 đến tháng 10/2018
Phân tích dữ liệu: Số liệu được phân tích
bằng phần mềm SPSS.20
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Trong thời gian từ tháng 7 - 10 năm 2018 tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương, tiến hành
khảo sát 80 điều dưỡng công tác tại các khoa
thuộc khối ngoại với kết quả cụ thể như sau:
Đặc điểm chung của điều dưỡng tham
gia nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm chung của điều dưỡng
tham gia nghiên cứu
Đặc điểm
Tần số
(n= 80)
Tỷ lệ
(%)
Giới
Nam
3
3,75
Nữ
77
96,25
Khoa đang công tác
Ngoại tổng quát
14
17,5
Ngoại tiết niệu
7
8,75
Chấn thương chỉnh hình
20
25
Ngoại thần kinh
13
16,25
Khoa Sản
26
32,5
Trình độ chuyên môn
Trung cấp
29
36,25
Cao đẳng, đại học
51
63,75
Thâm niên công tác tại khoa/ phòng
1-5 năm
44
55
6-10 năm
16
20
11- 15 năm
10
12,5
16-20 năm
4
5,0
Hơn 20 năm
6
7,5
Số người bệnh chăm sóc/ ngày
≤ 8 người bệnh
4
5
> 8-15 người bệnh
35
43,8
> 15 người bệnh
41
51,3
Số lượng điều dưỡng đang làm việc tại khoa
Sản chiếm tỷ lệ cao nhất với 31,5%, đa số điều
dưỡng tham gia nghiên cứu có trình độ chuyên
môn là cao đẳng/đại học với 63,75% (51/80),
điều dưỡng có thâm niên từ 1-5 năm chiếm đa
số với 55% (44/80). Trong nghiên cứu của
chúng tôi tỷ lệ điều dưỡng chăm sóc trên 15
người bệnh trong 1 ngày chiếm tỷ lệ khá cao với
51,3% (41/80).
Thực hành đúng về chăm sóc vết thương
sau phẫu thuật trong dự phòng nhiễm
khuẩn vết mổ
Bảng 2: Thực hành đúng về chăm sóc vết
thương sau phẫu thuật trong dự phòng nhiễm
khuẩn vết mổ
Thực hành
Tần số
(n= 80)
Tỷ lệ
(%)
Rửa tay khi chăm sóc vết mổ
Có
67
83,8

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 490 - THÁNG 5 - SỐ 1 - 2020
83
Không
13
16,2
Đảm bảo vô khuẩn khi chăm sóc vết mổ
Có
70
87,5
Không
10
12,5
Giáo dục sức khỏe cho NB/ thân nhân
Có
23
28,8
Không
57
71,2
Thực hành chăm sóc vết thương sau phẫu thuật
Đúng
53
66
Không đúng
27
34
Tỷ lệ điều dưỡng có thực hành đúng về chăm
sóc vết thương sau phẫu thuật trong dự phòng
nhiễm khuẩn vết mổ là 66% (53/80). Tuy nhiên,
tỷ lệ điều dưỡng có thực hiện giáo dục sức khỏe
cho người bệnh/ thân nhân người bệnh về chăm
sóc vết mổ thích hợp trong nghiên cứu này là
28,8% (23/80), thấp hơn nhiều so với nghiên
cứu của Nguyễn Thanh Loan (68,3%).
Các yếu tố liên quan đến thực hành
đúng về phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ
Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến thực hành
đúng về phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ
Đặc điểm
Thực hành
đúng n (%)
r
p
Có
Không
Khoa đang công tác
Ngoại tổng
quát
10
(71,4)
4
(28,6)
0,215
0,36
CTCH
13 (65)
7 (35)
Ngoai tiết niệu
5 (71,5)
2 (28,5)
Ngoại thần kinh
6 (46,2)
7(53,8)
Sản
19(73,1)
7(26,9)
Trình độ chuyên môn
Trung cấp
20 (69)
9 (31)
0,064
0,55
Cao đẳng- Đại
học
51
(64,7)
18
(35,3)
Thâm niên công tác
1-5 năm
30(68,2)
14(31,8)
-0,106
0,48
6-10 năm
11(68,8)
5(31,2)
11-15 năm
6(60,0)
4(40,0)
16-20 năm
2 (50)
2 (50)
Hơn 20 năm
6 (75)
2 (25)
Số người bệnh chăm sóc/ ngày
≤ 8 người bệnh
3 (75)
1 (25)
-0,044
0,009
>8-15 người
bệnh
24
(68,6)
11
(31,4)
>15 người bệnh
26(63,4)
15(36,6)
Kết quả khảo sát cho thấy không có mối liên
quan giữa các đặc điểm như trình độ chuyên
môn, khoa công tác và thâm niên công tác với
thực hành về phòng ngừa nhiễm khuẫn vết mổ
của điều dưỡng (p > 0,05). Tuy nhiên lại có mối
liên quan nghịch biến giữa thực hành về phòng
ngừa nhiễm khuẫn vết mổ so với số người bệnh
điều dưỡng phải chăm sóc trong 1 ngày (r =
0,044; p = 0,009): nhóm chăm sóc ít hơn hoặc
bằng 8 người bệnh/ngày có tỷ lệ thực hành đúng
là 75% (1/4), nhóm chăm sóc hơn đến 15 người
bệnh /ngày là 68,6% (24/35) và nhóm chăm sóc
hơn 15 người bệnh/ngày là 63,4% (26/41).
V. KẾT LUẬN
Qua khảo sát thực hành đúng về phòng ngừa
nhiễm khuẩn vết mổ của 80 điều dưỡng thuộc
khối ngoại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương
trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 10/2018,
chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
- Tỷ lệ thực hành đúng về chăm sóc vết
thương sau phẫu thuật trong phòng ngừa nhiễm
khuẩn vết mổ của điều dưỡng các khoa thuộc
khối ngoại tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình
Dương là 66%.
- Các yếu tố liên quan đến thực hành đúng về
chăm sóc vết thương sau phẫu thuật trong
phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ của điều
dưỡng là số người bệnh trung bình trong 1 ngày
mà điều dưỡng chăm sóc, trong khi các yếu tố
như trình độ chuyên môn, khoa công tác và
thâm niên công tác thì không có mối liên quan.
KIẾN NGHỊ
Do công tác thực hành đúng của điều dưỡng
liên quan đến chăm sóc vết thương sau phẫu
thuật trong phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ còn
một số hạn chế, chúng tôi đề nghị một số biện
pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực điều
dưỡng và cải thiện hiệu quả trong chăm sóc
phòng ngừa nhiễm khuẫn vết mổ cho người bệnh:
- Tổ chức hoặc tạo điều kiện cho điều dưỡng
tham gia các khóa huấn luyện, hội thảo khoa học
chuyên ngành điều dưỡng liên quan đến chăm
sóc và kiểm soát nhiễm khuẫn vết mổ là rất cần
thiết và nên được duy trì thường xuyên để giúp
điều dưỡng có thể cập nhật kiến thức, ứng dụng
lâm sàng dựa trên bằng chứng mới và củng cố
lại những kiến thức, kỹ năng thực hành chuẩn đã
được học tập huấn luyện trước đó.
- Thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên
hơn về công tác chuyên môn khi điều dưỡng
thực hành chăm sóc người bệnh vì giám sát là
một biện pháp quan trọng trong phòng ngừa
nhiễm khuẫn vết mổ.
- Tạo thuận lợi để tăng cường tuân thủ rửa
tay cũng rất quan trọng:
+ Tuyên truyền và giáo dục tầm quan trọng
của rửa tay.
+ Phát động phong trào rửa tay trong toàn
thể nhân viên y tế.
+ Giám sát tuân thủ rửa tay của nhân viên y
tế và phản hồi lại cho chính họ.

vietnam medical journal n01 - MAY - 2020
84
- Tăng cường giáo dục sức khỏe cho người
bệnh/thân nhân người bệnh là hoạt động quan
trọng nhằm cung cấp kiến thức và hiểu biết về
tình trạng bệnh hiện tại cũng như cách tự theo
dõi và chăm sóc vết thương sau phẫu thuật để
người bệnh/thân nhân người bệnh cùng phối hợp
với nhên viên y tế trong quá trình điều trị và chăm
sóc tại viện và cả khi xuất viện nhằm mang lại
hiệu quả hồi phục cũng như theo dõi và phòng
ngừa các biến chứng sau mổ cho người bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alicia J. Mangram (1999). Guidelines for
prevention of Surgical site infections. Center for
Desease Control and Prevention, USA, p.247-278.
2. Betty M. Neuman (1995). Neuman systems model
(3rd ed.). Norwalk, CT: Appleton & Lange, USA.
3. Bộ Y tế, “Thông tư Hướng dẫn tổ chức thực hiện
công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh” ban hành ngày 14 tháng
10 năm 2009.
4. Bộ Y tế, (2012). “ Hướng dẫn phòng ngừa nhiễm
khuẩn vết mổ”
5. Bệnh viện Đại học Y Dược Huế (2016). “ Dự
phòng nhiễm khuẩn vết mổ”
6. Nguyễn Thanh Loan (2014). “Khảo sát kiến thức
và thực hành của điều dưỡng về phòng ngừa nhiễm
khuẩn vết mổ” tại Bệnh viện đa khoa Tiền Giang
7. WHO (2016). “ Hướng dẫn toàn cầu về công tác
phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ”.
PHỐI HỢP MỒI VÀ ĐOẠN DÒ CHO CHUẨN ĐOÁN VI RÚT
GÂY HỘI CHỨNG VIÊM ĐƯỜNG HÔ HẤP CẤP (SARS-COV-2)
Hoàng Quốc Cường1, Nguyễn Thị Thanh Thảo1
TÓM TẮT22
Lựa chọn sinh phẩm tối ưu nhất đóng vai trò rất
quan trọng để có kết quả sàng lọc phục vụ cho công
tác phòng chống dịch Covid-19, trong bối cảnh giao
thương đi lại sẽ trở bắt đầu tăng trở lại sau một
khoảng thời gian áp dụng biện pháp giãn cách xã hội.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá mồi, đoạn
dò trên các mẫu RNA tách chiết từ chủng vi rút bất
hoạt. Qua phân tích cho thấy sự phối hợp giữa mồi,
đoạn dò của IDT hoặc Phù Sa trong hỗn hợp
SuperScript III Platinium One Step qRT-PCR Kit có thể
phát hiện được RNA ở các nồng độ pha loãng thấp.
Kết quả của nghiên cứu này là tiền đề cho các nghiên
cứu khác nhằm nâng cao được năng lực xét nghiệm
sàng lọc các trường hợp nghi ngờ với ngưỡng phát
hiện thấp.
Từ khóa:
SARS-CoV-2, COVID-19, phối hợp, mồi,
đoạn dò.
SUMMARY
COMBINATION OF PRIMER AND PROBES
FOR SEVERE ACUTE RESPIRATORY
SYNDROME CORONAVIRUS 2
(SARS-CoV-2) DIAGNOSIS
Selecting the most optimal reagents plays a very
important role to have a screening result for the
prevention of Covid-19, in the context of trade travel
will start to increase again after a period of time
applied social distancing. In this study, we evaluated
primers and probes on RNA specimens extracted from
the inactivated SARS-CoV-2 virus. The analysis
1Viện Pasteur Tp. Hồ Chí Minh
Chịu trách nhiệm chính: Hoàng Quốc Cường
Email: cuonghqpasteur@gmail.com
Ngày nhận bài: 18.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 15.4.2020
Ngày duyệt bài: 21.4.2020
showed that the combination of primers, IDT, and Phu
Sa in the SuperScript III Platinium One Step qRT-PCR
Kit could detect RNA at low dilution concentrations.
The results of this study are a prerequisite for other
studies to improve the testing capacity of screening
suspected cases with a low detection threshold.
Keywords:
SARS-CoV-2, COVID-19, combination,
primer, probe.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới
của vi-rút corona (Covid-19) diễn biến rất phức
tạp do tốc độ lây lan của dịch bệnh tăng theo
cấp số mũ [1]. Cho đến hiện nay, xét nghiệm
chẩn đoán SARS-CoV-2 là một trong những công
cụ quan trọng trong cuộc chiến ngăn chặn và
giảm sự lây lan và tác động của virus thông qua
việc xác định các trường hợp nhiễm, cách ly,
điều trị sớm; hơn nữa xét nghiệm còn giúp phân
bổ nguồn lực y tế và nhân viên hiệu quả hơn
trong công tác phòng chống đại dịch này[2].
Mặc dù chẩn đoán xác định SARS-CoV-2 bằng
xét nghiệm RT-PCR hiện là tiêu chuẩn vàng [3-
6]; tuy nhiên, hiệu suất phụ thuộc rất nhiều vào
mồi, đoạn dò và hỗn hợp master mix [7] ; do đó,
việc lựa chọn một bộ xét nghiệm tối ưu là điều
rất cần thiết [1, 3, 8, 9]. Xuất phát từ những ý
tưởng trên, chúng tôi nghiên cứu các mồi và
đoạn dò trong hỗn hợp Mastermix trên các vùng
gen E của vi rút corona bằng kỹ thuật rRT-PCR
nhằm tăng khả năng phát hiện các trường hợp
nhiễm phục vụ công tác sàng lọc dịch bệnh
COVID-19 tại Việt Nam.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu. Mồi và đoạn